1.Tôi đã nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, tu viện Pubba, ở tòa nhà dài của Mẹ của Migāra. Vào lúc bấy giờ, đa cháu đáng yêu, thích ý của bà Visākhā, Mẹ của Migāra, bị từ trần. Khi ấy, bà Visākhā, Mẹ của Migāra, với y phục ưt đẫm, với đu tóc ưt đẫm, vào lúc giữa trưa đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi bà Visākhā, Mẹ của Migāra, đã ngồi xuống ở một bên, đức Thế Tôn đã nói với bà ấy điều này: “Này Visākhā, bà từ đâu đi đến với y phục ưt đẫm, với đu tóc ưt đm, và đã đến đây vào lúc gia trưa vậy?”

“Bạch Ngài, đứa cháu đáng yêu, thích ý của con bị từ trần. Vì thế, con với y phục ướt đẫm, với đầu tóc ướt đẫm, đã đến đây vào lúc giữa trưa.”

“Này Visākhā, vậy bà có muốn có các con và các cháu nhiều như dân chúng ở thành Sāvatthi không?”

“Bạch đức Thế Tôn, con muốn có các con và các cháu nhiều như dân chúng ở thành Sāvatthī vậy.”

2.“Này Visākhā, vy có bao nhiêu người ở thành Sāvatthi từ trần mỗi ngày?”

“Bạch Ngài, mười người ở thành Sāvatthi từ trần mỗi ngày cũng có. Bạch Ngài, chín người ở thành Sāvatthi từ trần mỗi ngày cũng có. Bạch Ngài, tám người ở thành Sāvatthi từ trần mỗi ngày cũng có. Bạch Ngài, bảy người ở thành Sāvatthi từ trần mỗi ngày cũng có. Bạch Ngài, sáu người ở thành Sāvatthi từ trần mỗi ngày cũng có. Bạch Ngài, năm người ở thành Sāvatthi từ trần mỗi ngày cũng có. Bạch Ngài, bốn người ở thành Sāvatthi từ trần mỗi ngày cũng có. Bạch Ngài, ba người ở thành Sāvatthi từ trần mỗi ngày cũng có. Bạch Ngài, hai người ở thành Sāvatthi từ trần mỗi ngày cũng có. Bạch Ngài, một người ở thành Sāvatthi từ trần mỗi ngày cũng có. Bạch Ngài, thành Sāvatthi là không thiếu những người đang từ trần.”

“Này Visākhā, bà nghĩ gì về điều ấy, có phải là đôi khi bà cũng có lúc không có y phục ướt đẫm, không có đầu tóc ướt đẫm?”

3.“Bạch Ngài, điều ấy không phải vậy. Bạch Ngài, quá đủ với con về việc có các con và các cháu nhiều chừng ấy.”

“Này Visākhā, những ai có một trăm người đáng yêu, những kẻ ấy có một trăm cái khổ. Những ai có chín mươi người đáng yêu, những kẻ ấy có chín mươi cái khổ. Những ai có tám mươi người đáng yêu, những kẻ ấy có tám mươi cái khổ. Những ai có bảy mươi người đáng yêu, những kẻ ấy có bảy mươi cái khổ. Những ai có sáu mươi người đáng yêu, những kẻ ấy có sáu mươi cái khổ. Những ai có năm mươi người đáng yêu, những kẻ ấy có năm mươi cái khổ. Những ai có bốn mươi người đáng yêu, những kẻ ấy có bốn mươi cái khổ. Những ai có ba mươi người đáng yêu, những kẻ ấy có ba mươi cái khổ. Những ai có hai mươi người đáng yêu, những kẻ ấy có hai mươi cái khổ. Những ai có mười người đáng yêu, những kẻ ấy có mười cái khổ. Những ai có chín người đáng yêu, những kẻ ấy có chín cái khổ. Những ai có tám người đáng yêu, những kẻ ấy có tám cái khổ. Những ai có bảy người đáng yêu, những kẻ ấy có bảy cái khổ. Những ai có sáu người đáng yêu, những kẻ ấy có sáu cái khổ. Những ai có năm người đáng yêu, những kẻ ấy có năm cái khổ.  Những ai có bốn người đáng yêu, những kẻ ấy có bốn cái khổ. Những ai có ba người đáng yêu, những kẻ ấy có ba cái khổ. Những ai có hai người đáng yêu, những kẻ ấy có hai cái khổ. Những ai có một người đáng yêu, những kẻ ấy có một cái khổ. Những ai không có người đáng yêu, những kẻ ấy không có khổ. Ta nói rằng những kẻ ấy không có sầu muộn, không còn ô nhiễm, không có thất vọng.”

4.Sau đó, khi hiểu ra sự việc này, đức Thế Tôn vào thời điểm ấy đã thốt lên lời cảm hứng này:

Mọi sầu muộn hoặc than vãn, và những khổ đau ở thế gian với nhiều hình thức, những điều này phát khởi có liên quan đến đối tượng đáng yêu; khi đối tượng đáng yêu không có thì những điều này không có. Chính vì thế, đối với những người nào không có đối tượng đáng yêu ở bất cứ nơi đâu trên thế gian, những người ấy có sự an lạc, không còn sầu muộn. Vì thế, kẻ ước mong không sầu muộn, không còn ô nhiễm, không nên tạo ra đối tượng đáng yêu ở bất cứ nơi đâu trên thế gian.”



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada