1.Đấng Chiến Thắng cao quý Gotama vĩ đi đã Niết Bàn tại Kusinārā. Đã có sự phân tán xá-lợi từ xứ sở ấy đến khắp các nơi.

2.Một phần thuộc về (đc vua) Ajātasattu. Một phần ở thành Vesālī. Một phần ở thành Kapilavatthu. Và một phần dành cho người dân ở Allakappa.

3.Và một phần ở Rāmagāma. Và một phần dành cho người dân ở Veṭṭhadīpa. Một phần dành cho người dân Malla ở Pāvā. Và một phần dành cho người dân ở Kusinārā.

4.Bà-la-môn tên Doṇa đã xây dựng ngôi bảo tháp cho bình đựng (xá-lợi). Những người Moriya với tâm tư hớn hở đã xây dựng ngôi bảo tháp thờ tro.

5.Chính vào thời ấy, có tám ngôi bảo tháp (thờ) xá-lợi, ngôi bảo tháp của bình đựng (xá-lợi) là thứ chín, ngôi bảo tháp thờ tro là thứ mưi đã được thiết lập.

6.Một chiếc răng nanh ở thành phố của cõi trời Ba Mươi, một ở Long Cung, một ở lãnh đa Gandhāra, một thuộc về đức vua xứ Kaliṅga.[11]

7.Chư thiên theo tuần tự của mỗi một thế giới đã mang đi bn mươi chiếc răng bằng nhau và toàn bộ tóc lông.

8.Bình bát, cây gậy, và y của đức Thế Tôn là ở Madhurā. Y nội là ở Kusaghara. Tấm trải nằm là ở (thành) Kapila.

9.Bình đng nước, dây thắt lưng là ở thành Pāṭaliputta. Vải lọc nước là ở Campā. Và sợi lông giữa hai lông mày là ở Kosala.

10.Y ca-sa là ở cõi Phạm Thiên. Vải che đầu là ở thành phố của cõi trời Ba Mươi. Dấu chân ở Pāsāṇaka là nhất hạng và cũng là dấu chân không bị hư hoại. Khi ấy, tấm lót ngồi, tấm trải nằm là ở vương quốc Avantipura.

11.Và cái bật lửa là ở Mithilā. Đồ lọc nước là ở Videha. Khi ấy, dao cạo và luôn cả hộp đựng kim là ở thành phố Indapatta.

12.Khi ấy, dân chúng ở vùng ven của xứ sở đã bảo quản các vật dụng thiết yếu còn lại đã được sử dụng bởi bậc Hiền Triết.

13.Khi ấy, tài liệu cổ (porāṇikaṃ) đã nói rằng: “Vì lòng thương tưng chúng sanh, đã có sự phân tán xá-lợi của bậc Đại Ẩn Sĩ Gotama.”

Dứt Phần Giảng Giải về Việc Phân Chia Xá-Lợi.

 

Phật Sử được chấm dứt.

--ooOoo--

 

[1] Là hoàng tử Khaṇḍa người em trai cùng cha khác mẹ và Tissa con trai của viên quan tế tự. Hai người này đã trở thành hai vị Thinh Văn hàng đầu của vị Phật này, BvA. 237.

[2] puṇḍarīka là cây xoài trắng (setambarukkha), BvA. 247.

[3] Dịch theo lời giải thích của Chú Giải, BvA. 249.

[4] Kiếp Bhadda (bhaddakappa) có năm vị Phật sanh lên. Chúng ta đang ở vào kiếp Bhadda gồm có bốn vị Phật đã sanh lên là Kakusandha, Koṇāgamana, Kassapa, Gotama (Phật Thích Ca). Vị Phật sẽ sanh lên trong thời vị lai là Metteyya, BvA. 252.

[5] Tám chi phần về lời nói là: lưu loát, dễ hiểu, dịu ngọt, nghe rõ ràng, sung mãn, phân minh, thâm sâu và vang động (Kinh Xa-ni-sa, Trường Bộ Kinh II, lời Việt của HT. Minh Châu).

[6] Hồ nước ví như Pháp Học, dầu thơm là Tứ Thanh Tịnh Giới, tấm vải là hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi, tràng hoa là ba mươi bảy Pháp đưa đến Giác Ngộ, BvA. 269.

[7] Nghĩa là sự an lạc các loại thuộc về thế gian và siêu thế, BvA. 293.

[8] Chưa đạt được quả vị A-la-hán, BvA. 293.

[9] Ám chỉ hai vị Thinh Văn hàng đầu Sārīputta và Moggallāna (Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên), BvA. 295.

[10] Thứ tự của 28 vị Phật sắp xếp theo các kappa (kiếp) được trình bày như sau:

Sāramaṇḍa-kappa: Có bốn vị Phật là Taṇhaṅkara, Medhaṅkara, Sara-ṇaṅkara, và Dīpaṅkara

Sāra-kappa: Một vị Phật là Koṇḍañña

Sāramaṇḍa-kappa: Bốn vị Phật là Maṅgala, Sumana, Revata, Sobhita

Vara-kappa: Ba vị Phật là Anomadassī, Paduma, Nārada

Sāra-kappa: Một vị Phật là Padumuttara

Maṇḍa-kappa: Hai vị Phật là Sumedha, Sujāta

Vara-kappa: Ba vị Phật là Piyadassī, Atthadassī, Dhammadassī

Sāra-kappa: Một vị Phật là Siddhattha

Maṇḍa-kappa: Hai vị Phật là Tissa, Phussa

Sāra-kappa: Một vị Phật là Vipassī

Maṇḍa-kappa: Hai vị Phật là Sikhī, Vessabhū

Bhadda-kappa: Năm vị Phật là Kakusandha, Koṇāgamana, Kassapa, Gotama, và đức Phật Metteyya vào thời vị lai.

[11] Như vậy là bốn chiếc răng nanh, hai ở hàm trên hai ở hàm dưới (ND).



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada