“Thưa ngài Nāgasena, điều này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến:

Không có ai là thầy của ta, người tương đương với ta không tìm thấy. Ở thế gian luôn cả cõi trời, không có ai là đối thủ của ta.

Và thêm nữa, Ngài đã nói rằng: ‘Này các tỳ khưu, như vậy Āḷāra Kālāma, trong khi đang là thầy của Ta, đã đặt Ta, đang là người đệ tử, ngang hàng với mình, và đã tôn vinh Ta với sự tôn vinh tột bực.’

Thưa ngài Nāgasena, nếu điều đã được nói bởi đức Như Lai là: ‘Không có ai là thầy của ta, người tương đương với ta không tìm thấy,’ như thế thì lời nói rằng: ‘Này các tỳ khưu, như vậy Āḷāra Kālāma, trong khi đang là thầy của Ta, đã đặt Ta, đang là người đệ tử, ngang hàng với mình’ là sai trái. Nếu điều đã được nói bởi đức Như Lai là: ‘Này các tỳ khưu, như vậy Āḷāra Kālāma, trong khi đang là thầy của Ta, đã đặt Ta, đang là người đệ tử, ngang hàng với mình,’ như thế thì lời nói rằng: ‘Không có ai là thầy của ta, người tương đương với ta không tìm thấy’ cũng là sai trái. Câu hỏi này cũng có cả hai khía cạnh, được dành cho ngài. Nó nên được giải quyết bởi ngài.”

“Tâu đại vương, điều này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến:

Không có ai là thầy của ta, người tương đương với ta không tìm thấy. Ở thế gian luôn cả cõi trời, không có ai là đối thủ của ta.’  

Và Ngài đã nói rằng: ‘Này các tỳ khưu, như vậy Āḷāra Kālāma, trong khi đang là thầy của Ta, đã đặt Ta, đang là người đệ tử, ngang hàng với mình, và đã tôn vinh Ta với sự tôn vinh tột bực.’ Tuy nhiên, lời nói ấy đã được nói liên quan đến bản thân vị thầy của chính đức Bồ Tát lúc chưa là bậc Chánh Đẳng Giác, trước khi giác ngộ.

Tâu đại vương, năm vị này là những người thầy của đức Bồ Tát lúc chưa là bậc Chánh Đẳng Giác, trước khi giác ngộ. Được chỉ dạy bởi những vị này, đức Bồ Tát đã trải qua ở nơi kia ở nơi nọ. Năm vị nào?

Tâu đại vương, khi đức Bồ Tát ở giai đoạn đã được sanh ra, các vị ấy là tám vị Bà-la-môn đã xét đoán các tướng tốt, tức là các vị Rāma, Dhaja, Lakkhaṇa, Mantī, Yañña, Suyāma, Subhoja, Sudatta. Các vị ấy đã tuyên bố về điềm lành của đức Bồ Tát và đã thực hiện công việc bảo hộ; các vị ấy là những vị thầy đầu tiên.

Tâu đại vương, còn có vị khác nữa là vị Bà-la-môn tên Sabbamitta, được sanh ra ở nơi quý phái, cao thượng, có dòng dõi, biết về cú pháp, về văn phạm, có sáu chi phần (của kinh Vệ Đà). Vào lúc bấy giờ, người cha của đức Bồ Tát, đức vua Suddhodana, sau khi rước về đã rưới nước với chiếc bình vàng, rồi đã trao cho (nói rằng): ‘Hãy cho đứa bé trai này học tập;’ đây là vị thầy thứ nhì.

Tâu đại vương, còn có vị khác nữa là vị Thiên nhân đã khiến cho đức Bồ Tát chấn động tâm. Sau khi lắng nghe lời nói của vị ấy, đức Bồ Tát đã bị chấn động, kinh hoàng, rồi vào chính thời khắc ấy đã ra đi xuất ly và đã xuất gia; đây là vị thầy thứ ba.

Tâu đại vương, còn có vị khác nữa là Āḷāra Kālāma; đây là vị thầy thứ tư.

Tâu đại vương, còn có vị khác nữa là Uddaka Rāmaputta; đây là vị thầy thứ năm.

Tâu đại vương, đây là năm vị thầy của đức Bồ Tát lúc chưa là bậc Chánh Đẳng Giác, trước khi giác ngộ. Tuy nhiên, các vị này là những người thầy về pháp thế gian. Tâu đại vương, trái lại trong việc thấu triệt trí Toàn Tri về các pháp xuất thế gian này, thì không có vị hướng dẫn nào trội hơn đức Như Lai. Tâu đại vương, đức Như Lai là đấng Tự Chủ, bậc không có thầy.

Bởi lý do ấy, đức Như Lai đã nói rằng:

Không có ai là thầy của ta, người tương đương với ta không tìm thấy. Ở thế gian luôn cả cõi trời, không có ai là đối thủ của ta.’”

“Thưa ngài Nāgasena, tốt lắm! Trẫm chấp nhận điều này đúng theo như vậy.”

Câu hỏi về trạng thái không có thầy của vị thầy là thứ mười một.

Phẩm Thân Thiết là thứ năm.

(Trong phẩm này có mười một câu hỏi)

CÁC CÂU HỎI ĐỐI CHỌI ĐƯỢC ĐẦY ĐỦ.

--ooOoo--

 

[1] ‘Tự kết liễu’ là đã được dịch thoát. Từ Pāli pāteti có ý nghĩa là  ‘làm cho rơi, lao xuống.’

[2] Một số hành phạt đã được phỏng đoán (ND).

[3] Suvaṇṇasāmajātakaṃ - Bổn sanh 540.

[4] Ambajātakaṃ - Bổn sanh 474.

[5] Dummedhajātakaṃ - Bổn sanh 122. 

[6] Māhākapijātakaṃ - Bổn sanh 516.

[7] Chaddantajātakaṃ - Bổn sanh 514.

[8] Cetiyajātakaṃ - Bổn sanh 422.

[9] Sīlavanāgajātakaṃ - Bổn sanh 72.

[10] Sabbadāṭhajātakaṃ - Bổn sanh 241.

[11] Laṭukikajātakaṃ - Bổn sanh 357.               

[12] Dhammajātakaṃ - Bổn sanh 457.

[13] Samuddavaṇijajātakaṃ - Bổn sanh 466.

[14] Apaṇṇakajātakaṃ - Bổn sanh 01.

[15] Nigrodhamigajātakaṃ - Bổn sanh 12.

[16] Nigrodhajātakaṃ - Bổn sanh 445.  

[17] Khaṇḍahālajātakaṃ - Bổn sanh 542.

[18] Mahāpadumajātakaṃ - Bổn sanh 472.

[19] Cūḷadhammapālajātakaṃ - Bổn sanh 358.

[20] Bālapaṇḍitasuttaṃ - Kinh Hiền Ngu, Trung Bộ tập 3, bài 129.

[21] 57 koṭi và 60 trăm ngàn năm.

[22] Suttanipātapāḷi - Kinh Tập, TTPV 29, trang 65, câu kệ 209.

[23] Tiểu Phẩm tập 2, Tạng Luật, TTPV 07, trang 133.

[24] Soṇakajātakaṃ và Saṃkiccajātakaṃ - Bổn Sanh 429 và Bổn Sanh 430.

[25] Cūḷahaṃsajātakaṃ - Bổn Sanh 433.

[26] Sayhajātakaṃ - Bổn sanh 310.

[27] Chaddantajātakaṃ - Bổn sanh 514.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada