11. KINH RĀHULA (Ngài Indacanda dịch Việt, văn xuôi, chữ in thường)

11. KINH RĀHULA (Ngài Thích Minh Châu dịch Việt, văn vần, chữ in nghiêng)

337. Kacci abhiṇhasaṃvāsā nāvajānāsi paṇḍitaṃ, ukkādhāro manussānaṃ kacci apacito tayā.

337. Con có coi thường bậc sáng suốt do việc cộng trú thường xuyên hay không? Bậc nắm giữ ngọn đuốc của loài người có được con tôn kính hay không?

Thế Tôn:

335. Thường chung sống người hiền,
Thầy có khinh miệt không?
Người cầm đuc loài Người,
Ðược thầy tôn trọng không?

338. Nāhaṃ abhiṇhasaṃvāsā avajānāmi paṇḍitaṃ, ukkādhāro manussānaṃ niccaṃ apacito mayā.

338. Con không coi thường bậc sáng suốt do việc cộng trú thường xuyên. Bậc nắm giữ ngọn đuốc của loài người luôn luôn được con tôn kính.

Ràhula:

336. Thường chung sống người hiền,
Con không có khinh miệt.
Người cầm đuc loài Người,
Thưng được con tôn trọng.

339. Pañca kāmaguṇe hitvā piyarūpe manorame, saddhāya gharā nikkhamma dukkhassantakaro bhava.

339. Sau khi từ bỏ năm loại dục có hình thức đáng yêu, làm thích ý, sau khi rời căn nhà ra đi vì niềm tin, con hãy thực hiện việc chấm dứt khổ đau.

Thế Tôn:

337. Bỏ năm dc trưng dưỡng,
Khả ái và đẹp ý,
Với lòng tin xuất gia,
Hãy trở thành con người,
Làm chấm dứt khổ đau.

340. Mitte bhajassu kalyāṇe pantañca sayanāsanaṃ, vivittaṃ appanigghosaṃ mattaññū hohi bhojane.

340. Con hãy thân cận những người bạn tốt lành và chỗ nằm ngồi thanh vắng, cô quạnh, ít tiếng động. Con hãy biết chừng mực về vật thực.

338. Thân cận với bạn lành,
Sống trú xứ xa vắng,
Viễn ly không ồn ào,
Hãy tiết đ ăn uống.

341. Cīvare piṇḍapāte ca paccaye sayanāsane, etesu taṇhaṃ mā kāsi mā lokaṃ punarāgami.

341. Con chớ tạo ra sự tham ái ở những vật này: ở y phục, ở đồ ăn khất thực, ở thuốc men chữa bệnh, ở chỗ nằm ngồi. Con chớ đi đến thế gian lần nữa.

339. Y áo, đồ khất thực,
Vật dụng và sàng tọa,
Chớ có tham ái chúng,
Chớ trở lui đời này.

342. Saṃvuto pātimokkhasmiṃ indriyesu ca pañcasu, sati kāyagatātyatthu nibbidā bahulo bhava.

342. Con hãy thu thúc theo giới bổn Pātimokkha và ở năm giác quan. Con hãy có niệm đặt ở thân. Con hãy có nhiều nhàm chán (về thế gian).

340. Chế ngự trong giới bổn,
Phòng hộ trong năm căn,
Hãy tu tập niệm thân,
Sống với nhiều nhàm chán.

343. Nimittaṃ parivajjehi subhaṃ rāgūpasaṃhitaṃ, asubhāya cittaṃ bhāvehi ekaggaṃ susamāhitaṃ.

343. Con hãy xa lánh hiện tướng xinh đẹp, được gắn liền với luyến ái. Con hãy tu tập tâm về đề mục tử thi, có sự chuyên nhất, khéo định tĩnh.

341. Hãy từ bỏ tịnh tướng,
Hệ lụy với tham ái,
Tu tập tâm bất tịnh,
Nhất tâm, khéo định tĩnh.

344. Animittañca bhāvehi ānānusayamujjaha, tato mānābhisamayā upasanto carissasīti.

344. Và con hãy tu tập về vô tướng. Con hãy nhổ bỏ sự tiềm ẩn của ngã mạn. Từ đó, nhờ vào sự lĩnh hội về ngã mạn, con sẽ sống được an tịnh.”

342. Hãy tu tập vô tướng,
Bỏ đi, mạn tùy miên,
Do nhiếp phục kiêu mạn,
Ngươi sẽ sống an tịnh.

Itthaṃ sudaṃ bhagavā āyasmantaṃ rāhulaṃ imāhi gāthāhi abhiṇhaṃ ovadatīti.

Như thế, đức Thế Tôn thường xuyên giáo huấn đại đức Rāhula bằng những lời kệ này.

Như vậy, Thế Tôn thường giáo giới Tôn giả Ràhula với những bài kệ này.

Rāhulasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

Dứt Kinh Rāhula.

 

12. NIGRODHAKAPPASUTTAṂ (bản Kinh Pali, trích đoạn)

12. KINH NIGRODHAKAPPA (Ngài Indacanda dịch Việt, văn xuôi, chữ in thường)

12. KINH VANGĪSA (Ngài Thích Minh Châu dịch Việt, văn vần, chữ in nghiêng)

Evaṃ me sutaṃ: Ekaṃ samayaṃ bhagavā āḷaviyaṃ viharati aggāḷave cetiye. Tena kho pana samayena āyasmato vaṅgīsassa upajjhāyo nigrodhakappo nāma thero aggāḷave cetiye aciraparinibbuto hoti.

Tôi đã nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn ngự tại Āḷavī, ở bảo tháp Aggāḷava. Vào lúc bấy giờ, thầy tế độ của đại đức Vaṅgīsa, vị trưởng lão tên Nigrodhakappa, vửa viên tịch Niết Bàn không bao lâu tại bảo tháp Aggāḷava.

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế tôn sống ờ Alavi, tại điện Aggàlava. Lúc bấy giờ, giáo sư th sư của Tôn giả Vangìsa, tên là Nigrodhakappatại điện Aggalava, mệnh chung không bao lâu.

Atha kho āyasmato vaṅgīsassa rahogatassa paṭisallīnassa evaṃ cetaso parivitakko udapādi: Parinibbuto nu kho me upajjhāyo udāhu no parinibbutoti.

Sau đó, đại đức Vaṅgīsa trong lúc thiền tịnh ở nơi thanh vắng có ý nghĩ suy tầm như vầy đã khởi lên: “Thầy tế độ của ta là viên tịch Niết Bàn hay là không phải viên tịch Niết Bàn?”

Rồi Tôn giả Vangìsa, trong khi thiền định độc cư, tư tưởng sau đây được khởi lên: "Không biết bậc giáo thọ sư của ta có hoàn toàn nhập Niết-bàn hay không hoàn toàn nhập Niết-bàn?".

Atha kho ayasvā vaṅgīso sāyanhasamayaṃ paṭisallānā vuṭṭhito yena bhagavā tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā vaṅgīso bhagavantaṃ etadavoca:

Sau đó vào buổi chiều, đại đức Vaṅgīsa, xuất khỏi thiền tịnh, đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống ở một bên, đại đức Vaṅgīsa đã nói với đức Thế Tôn điều này:

Rồi Tôn giả Vangìsa vào buổi chiều, từ thiền tịnh đứng dậy, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Vangìsa bạch Thế Tôn:

Idha mayhaṃ bhante rahogatassa paṭisallīnassa evaṃ cetaso parivitakko udapādi: Parinibbuto nu kho me upajjhāyo udāhu no parinibbutoti.

“Bạch Ngài, ở đây trong lúc con thiền tịnh ở nơi thanh vắng có ý nghĩ suy tầm như vầy đã khởi lên: ‘Thầy tế độ của ta là viên tịch Niết Bàn hay là không phải viên tịch Niết Bàn?’”

- Ở đây, bạch Thế Tôn, trong khi Thiền tịnh đc cư, con khi lên tư tưng như sau: "Không biết bậc giáo thọ sư của con có hoàn toàn nhập Niết Bàn hay không, hoàn toàn nhập Niết-bàn?"

Atha kho āyasmā vaṅgīso uṭṭhāyāsanā ekaṃsaṃ cīvaraṃ katvā yena bhagavā tenañjaliṃ paṇāmetvā bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi:

Sau đó, đại đức Vaṅgīsa đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp y một bên vai, chắp tay hướng về đức Thế Tôn, và đã nói với đức Thế Tôn bằng lời kệ rằng:

Rồi Tôn giả Vangìsa, từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp y vào một bên vai, chấp tay vái chào Thế Tôn và với bài kệ, nói lên với Thế Tôn:

345. Pucchāma satthāraṃ anomapaññaṃ diṭṭheva dhamme yo vicikicchānaṃ chettā, aggāḷave kālamakāsi bhikkhu ñāto yasassī abhinibbutatto.

345. "Chúng con hỏi đấng Đạo Sư, bậc có trí tuệ tột đỉnh, bậc đã cắt đứt các sự hoài nghi ở thế giới hiện hữu, về vị tỳ khưu đã từ trần ở Aggāḷava, được biết tiếng, có danh vọng, có bản thể đã được tịch tịnh.

Vangìsa:

343. Con hỏi bậc Ðạo Sư,
Bậc trí tuệ tối thượng,
Ai chặt đứt nghi hoặc,
Ngay trong đời hiện tại?
Tại Aggàlava,
Tỷ-kheo đã mệnh chung,
Có danh vọng danh xưng,
Nhập Niết bàn tịch tịnh.

346. Nigrodhakappo iti tassa nāmaṃ,
tayā kataṃ bhagavā brāhmaṇassa, so taṃ namassaṃ acari mutyapekkho āraddhaviriyo daḷhadhammadassī.

346. Bạch đức Thế Tôn, ‘Nigrodhakappa’ là tên đã được Ngài đặt cho vị Bà-la-môn ấy. Bạch đấng có sự nhìn thấy pháp vững chắc, vị ấy, mong mỏi sự giải thoát, trong lúc lễ bái Ngài, đã sống, có sự nỗ lực tinh tấn.

344. Nigrodhakappa,
Chính là tên vị ấy,
Chính Thế Tôn đặt tên,
Cho vị Phạm chí ấy,
Vị ấy đảnh lễ Ngài,
Sống tầm cầu giải thoát,
Tinh cần và tinh tấn,
Kiên cố thấy Chánh Pháp.

347. Taṃ sāvakaṃ sakka mayampi sabbe aññātumicchāma samantacakkhu, samavaṭṭhitā no savaṇāya sotā tvaṃ no satthā tvaṃ anuttarosi.

347. Bạch ngài Sakya, bạch đấng Toàn Nhãn, tất cả chúng con cũng muốn được biết về vị Thinh Văn ấy; những lỗ tai của chúng con đã sẵn sàng cho việc nghe. Ngài là bậc Đạo Sư của chúng con. Ngài là bậc Vô Thượng.

345. Bạch Thích Ca, chúng con
Ðệ tử Ngài, tất cả
Chúng con đều muốn biết
Bậc Pháp nhãn biến tri,
An trú tại chúng con,
Sẵn sàng đ được nghe,
Ngài Ðạo sư chúng con,
Ngài là bậc Vô thượng.

348. Chindeva no vicikicchaṃ brūhi metaṃ parinibbutaṃ vedaya bhūripañña, majjheva no bhāsa samantacakkhu sakkova devānaṃ sahassanetto.

348. Xin Ngài hãy cắt đứt hẳn sự hoài nghi của chúng con, xin hãy nói cho con điều ấy. Bạch đấng có trí tuệ quảng đại, xin Ngài hãy cho biết về việc viên tịch Niết Bàn (của vị ấy). Bạch đấng Toàn Nhãn, xin Ngài hãy nói ở ngay giữa chúng con, tựa như vị Trời Sakka có ngàn mắt ở giữa chư Thiên.

346. Hãy đoạn nghi chúng con,
Cho con biết vị ấy,
Ðã được tịch tịnh chưa
Bậc trí tuệ rộng lớn,
Hãy nói giữa chúng con,
Bậc có mặt cùng khắp,
Như Thiên chủ Ðế Thích,
Lãnh đo ngàn chư Thiên.

349. Ye keci ganthā idha mohamaggā, aññāṇapakkhā vicikicchaṭṭhānā, tathāgataṃ patvā na te bhavanti 
cakkhuṃ hi etaṃ paramaṃ narānaṃ.

349. Ở đây, bất cứ những mối buộc thắt nào, những con đường của si mê, những phe nhóm của vô trí, những chỗ đứng của hoài nghi, sau khi đạt đến đức Như Lai, chúng đều không tồn tại, bởi vì con mắt ấy là tối thượng giữa những con người.

347. Phàm những cột gút gì,
 đây, đường si ám,
Dự phần với vô trí,
Trú xứ cho nghi hoặc;
Gặp đưc đc Như Lai,
Họ đều không còn nữa.
Mắt này mắt tối thắng,
Giữa cặp mắt loài Người.

350. No ce hi jātu puriso kilese vāto yathā abbhaghanaṃ vihāne, tamovassa nivuto sabbaloko na jotimantopi narā tapeyyuṃ.

350. Bởi vì, nếu chắc chắn không có người tiêu diệt các phiền não, giống như làn gió làm tiêu tan đám mây, thì toàn bộ thế gian, bị bao trùm, sẽ vô cùng tối tăm, ngay cả những người có hào quang (trí tuệ) cũng không thể tỏa sáng.

348. Nếu không có người nào,
Ðoạn trừ các phiền não,
Như gió thổi tiêu tan
Các tầng mây dưới thấp,
Màn đen tức bao trùm,
Tất cả toàn thế giới,
Những bậc có hào quang,
Không có thể chói sáng.

351. Dhīrā ca pajjotakarā bhavanti taṃ taṃ ahaṃ dhīra tatheva maññe, vipassinaṃ jhānam upāgamamha parisāsu no āvikarohi kappaṃ.

351. Và các bậc thông minh là những người tạo ra ánh sáng. Vì thế, bạch đấng Thông Minh, con nghĩ rằng Ngài là vị tương tự như thế ấy. Chúng con đã đi đến với bậc có sự minh sát và hiểu biết, xin Ngài hãy bày tỏ về vị Kappa cho chúng con ở các hội chúng.

349. Bậc trí là những vị
Tạo ra những ánh sáng,
Con xem Ngài như vậy.
Ôi! Bậc trí sáng suốt,
Chúng con đu cùng đến,
Bậc tu hành thiền quán,
Giữa hội chúng, chúng con,
Hãy nói về Kappa!

352. Khippaṃ giraṃ eraya vagguvagguṃ haṃsova paggayha sanikaṃ nikūjaṃ, bindussarena suvikappitena sabbeva te ujjugatā suṇoma.

352. Hỡi bậc có sự thu hút, xin Ngài hãy mau mau thốt lên giọng nói có sự thu hút. Tựa như chim thiên nga vươn cao (cái cổ), xin Ngài hãy dịu dàng thốt lên bằng âm thanh trọn vẹn khéo được điều khiển; toàn bộ tất cả chúng con đều tập trung lắng nghe.

350. Hãy gấp phát tiếng lên,
Tiếng âm thanh vi diệu,
Như con chim thiên nga,
Giương cổ lên để hót,
Phát âm từng tiếng một,
Với giọng khéo ngân nga,
Tất cả bạn chúng con,
Trực tâm nghe lời Ngài.

353. Pahīnajātimaraṇaṃ asesaṃ niggayha dhonaṃ vadessāmi dhammaṃ, na kāmakāro hi puthujjanānaṃ saṅkheyyakārova tathāgatānaṃ.

353. Sau khi thúc giục bậc có sự sanh tử đã được dứt bỏ không còn dư sót, con sẽ thỉnh bậc đã rũ sạch (phiền não) thuyết Pháp; bởi vì trong số các phàm nhân không có người có thể làm được điều mong muốn, và người hành động đúng theo dự tính chỉ có trong số các đức Như Lai.

351. Vị đoạn tận sanh tử,
Không còn chút dư tàn,
Vị tẩy sạch phiền não,
Con cầu Ngài thuyết pháp,
Kẻ phàm phu không thể
Làm theo điều nó muốn.
Bậc Như Lai làm được,
Ðiều đưc ưc định làm,

354. Sampannaveyyākaraṇaṃ tavedaṃ samujjupaññassa samuggahītaṃ, ayamañjalī pacchimo suppaṇāmito mā mohayī jānamanomapañña.

354. Lời giải thích đầy đủ này của Ngài, bậc có trí tuệ ngay thẳng, đã được tiếp nhận. Sự chắp tay sau cùng này đã được cúi chào tốt đẹp. Hỡi bậc có trí tuệ tột đỉnh, trong khi Ngài biết, xin Ngài chớ làm mê mờ.

352. Câu trả lời của Ngài
Thật đy đủ trọn vẹn,
Ðưc chơn chánh nắm giữ,
Bậc chánh trực trí tuệ.
Ðây chắp tay cuối cùng,
Con khéo vái chào Ngài,
Chớ làm con si ám,
Bậc trí tuệ tối cao.

355. Parovaraṃ ariyadhammaṃ viditvā mā mohayī jānamanomavīra, vāriṃ yathā ghammani ghammatatto vācābhikaṅkhāmi sutaṃ pavassa.

355. Hỡi đấng Anh Hùng tột bực, Ngài đã hiểu biết về Giáo Pháp cao thượng từ thấp đến cao, trong khi Ngài biết, xin Ngài chớ làm mê mờ. Giống như người có bản thân bị nóng bức, trong lúc nóng nực mong mỏi nước, con mong mỏi lời nói (của Ngài); xin Ngài hãy đổ cơn mưa âm thanh.

353. Sau khi đã được biết
Thánh pháp thượng và hạ,
Chớ làm con si ám,
Bậc tinh tấn tối cao,
Như vào giữa mùa hè,
Nóng bức khát khao nước,
Chúng con ngóng trông lời,
Hãy mưa sự hiểu biết.

356. Yadatthikaṃ brahmacariyaṃ acāri kappāyano kaccissa taṃ amoghaṃ, nibbāyi so ādu upādiseso yathā vimutto ahu naṃ suṇoma.

356. Vị Kappāyana đã sống Phạm hạnh với mục đích nào, phải chăng điều ấy không phải là rỗng không? Có phải vị ấy đã Niết Bàn (không còn dư sót), hay là vẫn còn dư sót? Vị ấy đã được giải thoát như thế nào, hãy cho chúng con được nghe điều ấy.”

354. Kappa, sống Phạm hạnh,
Nếp sống có mục đích,
Phải chăng sng như vậy
Là sống không uổng phí?
Vị ấy chứng tịch tịnh,
Hay còn dư tàn lại,
Ðược giải thoát thế nào,
Hãy nói chúng con nghe!

357. Acchecchi taṇhaṃ idha nāmarūpe (iti bhagavā) kaṇhassa sotaṃ dīgharattānusayitaṃ, atāri jātimaraṇaṃ asesaṃ iccabravī bhagavā pañcaseṭṭho.

357. “Vị ấy đã cắt đứt tham ái ở danh và sắc ở nơi đây (lời của đức Thế Tôn), dòng nước của Ma Vương đã được tiềm ẩn bấy lâu. Vị ấy đã vượt qua sự sanh và sự chết.” Đức Thế Tôn, bậc đứng đầu về năm pháp, đã nói như thế.

Thế Tôn:

355. Vị ấy trên danh sắc,
Ðã đoạn tận tham ái,
Thế Tôn ở nơi đây
Ðã trả lời như vậy,
t qua được già chết,
Không còn có dư tàn,
Thế Tôn nói như vậy,
Bậc tối thắng thứ năm.

358. Esa sutvā pasīdāmi vaco te isisattama, amoghaṃ kira me puṭṭhaṃ na maṃ vañcesi brāhmaṇo.

358. “Bạch bậc Ẩn Sĩ tối thượng, sau khi nghe điều ấy, con tin tưởng vào lời nói của Ngài. Thật vậy, điều đã được con hỏi là không vô ích, vị Bà-la-môn đã không dối gạt con.

Vangìsa:

356. Nghe vậy, con tịnh tín,
Với lời nói của Ngài,
Bậc ẩn sĩ thứ bảy?
Và lời hỏi của con.
Không phải là vô ích!
Và vị Bà-la-môn
Không có lừa dối con.

359. Yathāvādī tathākārī ahu buddhassa sāvako, acchidā maccuno jālaṃ tataṃ māyāvino daḷhaṃ.

359. Vị có lời nói như thế nào thì có hành động như thế ấy đã là đệ tử của đức Phật. Vị ấy đã cắt đứt tấm lưới chắc chắn của Thần Chết xảo quyệt đã được giăng ra.

357. Nói gì thời làm vậy,
Thật xứng đệ tử Phật,
Chặt đt lưới rộng chắc
Của thần chết xảo quyệt.

360. Addasa bhagavā ādiṃ upādānassa kappiyo, accagā vata kappāyano maccudheyyaṃ suduttaranti.

360. Bạch đức Thế Tôn, vị Kappiya đã nhìn thấy sự khởi đầu của chấp thủ. Quả thật, vị Kappāyana đã băng qua lãnh địa của Thần Chết, là nơi rất khó vượt qua.”

358. Ôi! Thế Tôn, Kappa
Thấy căn nguyên chấp thủ,
Thật sự đã vượt qua
Thế lực của Ma vương,
Thế lực thật khó vượt. 

Nigrodhakappasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

Dứt Kinh Nigrodhakappa.

 

13. SAMMĀPARIBBĀJANĪYASUTTAṂ (bản Kinh Pali, trích đoạn)

13. KINH DU HÀNH CHÂN CHÁNH (Ngài Indacanda dịch Việt, văn xuôi, chữ in thường)

13. KINH CHÁNH XUẤT GIA (Ngài Thích Minh Châu dịch Việt, văn vần, chữ in nghiêng)

361. Pucchāmi muniṃ pahūtapaññaṃ tiṇṇaṃ pāragataṃ parinibbutaṃ ṭhitattaṃ, nikkhamma gharā panujja kāme kathaṃ bhikkhu sammā so loke paribbajeyya.

361. “Con hỏi bậc hiền trí, bậc có tuệ bao la, bậc đã vượt qua, đã đi đến bờ kia, đã hữu dư Niết Bàn, có bản thân ổn định rằng: ‘Sau khi rời nhà ra đi, sau khi đã xua đuổi các dục, vị tỳ khưu ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian như thế nào?’”

Người hỏi:

359. Tôi hỏi bậc ẩn sĩ,
Có trí tuệ rộng lớn,
Ðã vượt qua bờ kia,
Tịch tịnh, tự an trú.
Làm sao một Tỷ-kheo,
Bỏ nhà, bỏ các dục,
Lại có thể chơn chánh
Du hành ở trên đời?

362. Yassa maṅgalā samūhatā (iti bhagavā) uppāta supinā ca lakkhaṇā ca, so maṅgaladosavippahīno bhikkhu
sammā so loke paribbajeyya.

362. (Lời của đức Thế Tôn) “Đối với vị nào các điềm lành đã được bứng lên, các (hiện tượng) sao băng, các giấc chiêm bao, và các hiện tướng (cũng như vậy), vị tỳ khưu ấy đã dứt bỏ hẳn các điềm lành và điềm xấu, vị ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian.

Thế Tôn:

360. Ai nhổ lên điềm lành,
Như vậy, Thế Tôn đáp
Các sao băng mộng mị,
Và các tướng lành dữ,
Vị ấy đoạn trừ được,
Các lỗi lầm điềm lành;
Tỷ kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.

363. Rāgaṃ vinayetha mānusesu dibbesu kāmesu cāpi bhikkhu, atikkamma bhavaṃ samecca dhammaṃ sammā so loke paribbajeyya.

363. Vị tỳ khưu nên xua đi sự luyến ái ở các dục thuộc về nhân loại luôn cả thuộc về cõi trời. Sau khi vượt qua hữu, sau khi hiểu rõ Giáo Pháp (Tứ Diệu Đế), vị ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian.

361. Tỷ-kheo nhiếp phục tham,
Ðối với các dục vọng,
Tại thiên giới, nhân giới,
ợt hữu, chứng tri pháp;
Tỷ kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.

364. Vipiṭṭhi katvāna pesunāni kodhaṃ kadariyaṃ jaheyya bhikkhu, anurodhavirodhavippahīno sammā so loke paribbajeyya.

364. Sau khi đã bỏ lại sau lưng các việc nói đâm thọc, vị tỳ khưu nên từ bỏ sự giận dữ và keo kiệt, đã dứt bỏ hẳn sự tùy thuận và chống đối, vị ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian.

362. Tỷ kheo bỏ hai lưỡi,
Bỏ phẩn nộ, xan tham,
Với tùy thuộc chống đối,
Ðoạn tận thật hoàn toàn,
Tỷ kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.

365. Hitvāna piyañca appiyañca anupādāya anissito kuhiñci, saṃyojaniyehi vippamutto sammā so loke paribbajeyya.

365. Sau khi từ bỏ thương và ghét, sau khi không còn chấp thủ, không bị lệ thuộc vào bất cứ nơi nào, được hoàn toàn thoát khỏi các sự trói buộc, vị ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian.

363. Sau khi đã từ bỏ,
Cả ái và phi ái,
Không chấp thủ một ai,
Không y chỉ chỗ nào,
Giải thoát được hoàn toàn
Các kiết sử trói buộc,
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.

366. Na so upadhīsu sārameti ādānesu vineyya chandarāgaṃ, so anissito anaññaneyyo sammā so loke paribbajeyya.

366. Không có việc vị ấy đi đến cốt lõi ở các mầm tái sanh, sau khi xua đi sự mong muốn và luyến ái ở các chấp thủ, vị ấy không bị lệ thuộc, không bị dẫn dắt bởi kẻ khác, vị ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian.

364. Ai không tìm lõi cây,
Ðối với các sanh y,
Có thể nhiếp phục tham,
Ðối với các chấp thủ,
Vị ấy không y chỉ,
Không để ai dắt dẫn,
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.

367. Vacasā manasā ca kammanā ca aviruddho sammā viditvā dhammaṃ, nibbānapadābhipatthayāno sammā so loke paribbajeyya.

367. Không chống đối bằng lời nói, bằng ý nghĩ, và bằng hành động, sau khi hiểu biết Giáo Pháp một cách đúng đắn, trong khi ước nguyện trạng thái Niết Bàn, vị ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian.

365. Với lời và với ý,
Và với cả nghiệp làm,
Không chống đối một ai,
Chơn chánh biết diệu pháp,
Thường cố gắng hưng đến,
Ðường Niết bàn tịch tịnh,
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.

368. Yo vandati maṃ na uṇṇameyya akkuṭṭhopi na sandhiyetha bhikkhu, laddhā parabhojanaṃ na majje, sammā so loke paribbajeyya.

368. Vị nào không kiêu hãnh (nghĩ rằng) ‘Họ đảnh lễ ta,’ ngay cả khi bị sỉ vả, vị tỳ khưu cũng không kết nối (thù hận), sau khi thọ lãnh vật thực của người khác, không đắc chí (tự mãn), vị ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian.

366. Tỷ-kheo không tự cao,
Khi ngưi đảnh lễ mình,
Dầu có bị nhiếc mắng,
Không khởi tâm tức tối,
Ðưc đ ăn ca người,
Không có sự tham đắm,
Tỷ kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.

369. Lobhañca bhavañca vippahāya virato chedanabandhanāto bhikkhu, so tiṇṇakathaṃkatho visallo sammā so loke paribbajeyya.

369. Sau khi dứt bỏ hẳn tham và hữu, vị tỳ khưu lánh xa việc hãm hại và trói buộc (các chúng sanh khác), vị ấy đã vượt qua sự nghi ngờ, không còn mũi tên, vị ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian.

367. Tỷ-kheo sau khi đoạn,
Tham dục và sanh hữu,
Từ bỏ, không làm hại,
Không trói buộc một ai,
Vị ấy vượt nghi hoặc,
Ðã rút ra mũi tên,
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.

370. Sāruppamattano viditvā na ca bhikkhu hiṃseyya kañci loke, yathātathiyaṃ viditvā dhammaṃ sammā so loke paribbajeyya.

370. Sau khi biết được điều thích hợp cho bản thân, vị tỳ khưu không hãm hại bất cứ ai ở thế gian, sau khi biết được Giáo Pháp đúng theo bản thể, vị ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian.

368. Tỷ-kheo sau khi biết,
Ðiều thích đáng cho mình,
Không làm hại một ai,
Có mặt ở trên đời,
Sau khi đã biết pháp
Như tht, như thế nào,
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.

371. Yassānusayā na santi keci mūlā akusalā samūhatā se, so nirāsayo anāsayāno sammā so loke paribbajeyya.

371. Đối với vị nào, không còn có bất cứ các pháp tiềm ẩn nào, các gốc rễ bất thiện đã được nhổ lên, vị ấy không còn ước ao (tham vọng), không có khao khát, vị ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian.

369. Với ai, các tuỳ miên,
Không còn có tồn tại,
Và cội gốc bất thiện,
Ðược nhổ lên tận trừ,
Vị ấy không tham dục,
Không có hy cầu gì.
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.

372. Āsavakhīṇo pahīnamāno sabbaṃ rāgapathaṃ upātivatto, danto parinibbuto ṭhitatto sammā so loke paribbajeyya.

372. Có lậu hoặc đã được cạn kiệt, đã dứt bỏ ngã mạn, đã vượt lên trên tất cả lộ trình của luyến ái, đã được huấn luyện, đã hữu dư Niết Bàn, có bản thân ổn định vị ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian.

370. Ai đoạn tận lậu hoặc,
Ðoạn trừ cả kiêu mạn,
Mọi con đường tham dục,
Ðược chế ngự nhiếp phục,
Ðược nhiếp phục tịch tịnh,
Tự ngã được an lập,
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.

373. Saddho sutavā niyāmadassī vaggagatesu na vaggasāri dhīro, lobhaṃ dosaṃ vineyya paṭighaṃ sammā so loke paribbajeyya.

373. Có đức tin, có sự lắng nghe, có sự nhìn thấy quy luật, vị sáng trí không xuôi theo bè phái giữa những kẻ đi theo bè phái, sau khi xua đi tham lam, sân hận, bất bình, vị ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian.

371. Có lòng tin, nghe pháp,
Thấy được quyết định tánh,
Bậc hiền không phe phái,
Giữa rất nhiều phe phái,
Có thể nhiếp phục được,
Tham, sân và hận thù,
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.

374. Saṃsuddhajino vivattacchaddo dhammesu vasī pāragū anejo, saṅkhāranirodhañāṇakusalo sammā so loke paribbajeyya.

374. Vị chiến thắng thanh tịnh, có màn che đã được cuốn lên, có năng lực ở các pháp, đã đi đến bờ kia, không dục vọng, được thiện xảo ở trí về sự tịch diệt của các hành, vị ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian.

372. Thanh tịnh và chiến thắng,
Kéo lên màn che kín,
Tự tại trong các pháp,
Ðến bờ kia, bất động,
Ðoạn diệt các sở hành,
Thiện xảo trong chánh trí,
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.

375. Atītesu anāgatesu cāpi kappātīto aticca suddhipañño, sabbāyatanehi vippamutto sammā so loke paribbajeyya.

375. Vị đã vượt qua suy tưởng (về tham ái và tà kiến) ở các thời quá khứ và còn ở các thời vị lai nữa, sau khi đã vượt qua, có tuệ trong sạch, được hoàn toàn thoát khỏi tất cả các xứ (sáu nội xứ và sáu ngoại xứ), vị ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian.

373. Trong những thời quá khứ,
Trong những thời vị lai,
ợt qua các chủ thuyết,
Trí tuệ thật thanh tịnh,
Với tất cả mọi xứ,
Ðược hoàn toàn giải thoát.
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.

376. Aññāya padaṃ samecca dhammaṃ vivaṭaṃ disvāna pahānamāsavānaṃ, sabbūpadhinaṃ parikkhayāno sammā so loke paribbajeyya.

376. Sau khi hiểu biết nền tảng (Tứ Đế), sau khi hiểu rõ Giáo Pháp, sau khi nhìn thấy sự dứt bỏ của các lậu hoặc một cách rõ rệt, nhờ vào sự diệt tận của tất cả các mầm tái sanh,vị ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian.

374. Rõ biết được Pháp cú,
Chứng tri được Chánh pháp,
Thấy được sự mở rộng,
Ðoạn tận các lậu hoặc,
Ðối tất cả sanh y,
Ðược trừ diệt hoàn toàn,
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.

377. Addhā hi bhagavā tatheva etaṃ yo so evaṃ vihāri danto bhikkhu, sabbasaṃyojaniye ca vītivatto sammā so loke paribbajeyyāti.

377. “Bạch đức Thế Tôn, thật vậy, bởi vì điều ấy đúng y như thế, vị tỳ khưu ấy đã sống như vậy, đã được huấn luyện và đã vượt qua khỏi tất cả các sự trói buộc, vị ấy có thể du hành chân chánh ở thế gian.”

Người hỏi:

375. Bạch Thế Tôn, chắc chắn,
Thực sự là như vậy,
Tỷ-kheo được chế ngự,
Ðã an trú như vậy,
Ðã nhiếp phục hoàn toàn,
Tất cả các kiết sử,
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.

Sammāparibbājanīyasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

Dứt Kinh Du Hành Chân Chánh.

 

14. DHAMMIKASUTTAṂ (bản Kinh Pali, trích đoạn)

14. KINH DHAMMIKA (Ngài Indacanda dịch Việt, văn xuôi, chữ in thường)

14. KINH DHAMMIKA (Ngài Thích Minh Châu dịch Việt, văn vần, chữ in nghiêng)

Evaṃ me sutaṃ: Ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Atha kho dhammiko upāsako pañcahi upāsakasatehi saddhiṃ yena bhagavā tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho dhammiko upāsako bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi:

Tôi đã nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn ngự tại Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Khi ấy, cư sĩ Dhammika cùng với năm trăm cư sĩ đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống ở một bên, cư sĩ Dhammika đã nói với đức Thế Tôn bằng lời kệ rằng:

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, trong khu vườn ông Anàthapindika. Rồi nam cư sĩ Dhammika đi đến Thế Tôn với năm trăm nam cư sĩ, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, nam cư sĩ Dhammikanói lên những bài kệ với Thế Tôn:

378. Pucchāmi taṃ gotama bhūripañña kathaṃkaro sāvako sādhu hoti, yo vā agārā anagārameti agārino vā panupāsakāse.

378. “Bạch ngài Gotama, bạch đấng có trí tuệ quảng đại, con xin hỏi Ngài: Người đệ tử tốt lành là người có hành động như thế nào, người (đệ tử) này hoặc là vị (xuất gia) rời nhà đi đến đời sống không nhà, hoặc là những vị cư sĩ có sở hữu căn nhà?

Dhammika:

376. Kính thưa Gotama,
Bậc trí tuệ rộng lớn,
Con xin kính hỏi Ngài,
Vấn đ đặc biệt này:
Với vị đệ tử Ngài,
Làm thế nào là thiện?
Nếu là vị xuất gia,
Bỏ nhà, sống không nhà,
Hay là vị có nhà,
Sống đi nam cư sĩ?

379. Tuvaṃ hi lokassa sadevakassa gatiṃ pajānāsi parāyanañca, na catthi tulyo nipuṇatthadassī tuvaṃ hi buddhaṃ pavaraṃ vadanti.

379. Bởi vì Ngài nhận biết cảnh giới tái sanh và việc đi đến bờ kia của thế gian luôn cả chư Thiên, và người có sự nhìn thấy ý nghĩa vi tế có thể sánh bằng (với Ngài) là không có, bởi vì người ta nói Ngài là đức Phật quý cao.

377. Ngài rõ biết đưng đi,
Cùng mục đích tối hậu,
Của Thế Tôn đời này,
Và thế giới chư Thiên.
Không ai so sánh Ngài,
Bậc thấy nghĩa thù diệu,
Chính Ngài đưc tôn xưng,
Là đức Phật thù thắng.

380. Sabbaṃ tuvaṃ ñāṇamavecca dhammaṃ pakāsesi satte anukampamāno, vivattacchaddosi samantacakkhu virocasi vimalo sabbaloke.

380. Sau khi biết mọi loại trí tuệ, trong lúc thương tưởng đến chúng sanh, Ngài (đã) giảng giải Giáo Pháp. Bạch đấng Toàn Nhãn, Ngài có màn che đã được cuốn lên. Không bị vết nhơ, Ngài chiếu sáng tất cả thế gian.

378. Ngài biết tất cả trí,
Ngài trình bày Chánh pháp,
Vì lòng thương, từ mẫn,
Ðối với mọi chúng sanh,
Ngài mở rộng bức màn,
Bậc có mắt mọi nơi
Không cấu uế, thanh tịnh,
Ngài chói toàn thế giới.

381. Āgañchi te santike nāgarājā erāvaṇo nāma jinoti sutvā, so pi tayā mantayitvā ajjhagamā sādhūti sutvāna patītarūpo.

381. Vị vua của loài voi tên là Erāvaṇa đã đi đến gặp Ngài. Sau khi nghe rằng: ‘Đấng Chiến Thắng,’ vị ấy cũng đã thảo luận với Ngài, đã lắng nghe và (đã nói) rằng: ‘Lành thay,’ rồi đã ra đi với dáng vẻ hân hoan.

379. Vị vua loài Nàgà
Tên Eràvano,
Ðã đến gần bên Ngài,
Ðược nghe: Ngài chiến thắng.
Vị ấy tìm đến Ngài,
Ðể nghe lời khuyên nhủ,
Sau khi nghe, thích thú
Nói lên lời: Lành thay!.

382. Rājāpi taṃ vessavaṇo kuvero upeti dhammaṃ paripucchamāno, tassāpi tvaṃ pucchito brūsi dhīra so cāpi sutvāna patītarūpo.

382. Vị vua Vessavaṇa Kuvera cũng đã đi đến gặp Ngài hỏi han về Giáo Pháp. Bạch bậc Sáng Trí, ngay cả đối với vị ấy, Ngài đã trả lời khi được hỏi. Và vị ấy nữa, sau khi lắng nghe cũng có dáng vẻ hân hoan.

380. Vua Vessavana,
Kuvera đến Ngài,
Tìm hiểu hỏi han Ngài
Về vấn đề diệu pháp,
Ðược hỏi, ôi bậc trí,
Hãy nói lên cho vua!
Sau khi nghe, vị ấy,
Cũng thích thú, ưa thích.

383. Ye kecime titthiyā vādasīlā ājīvakā vā yadi vā nigaṇṭhā, paññāya taṃ nātitaranti sabbe ṭhito vajantaṃ viya sīghagāmiṃ.  

383. Những ngoại đạo này, bất cứ những vị nào có bản tánh tranh luận, dầu là các đạo sĩ khổ hạnh hay là các đạo sĩ lõa thể, tất cả không vượt qua được Ngài về tuệ, tựa như kẻ đứng lại không vượt qua được người đi nhanh đang tiến bước. 

381. Các bậc ngoại đạo này
Ưa luận tranh khẩu chiến,
Các tà mạng ngoại đạo,
Hay các Ni-kiền Tử,
Tất cả không vượt qua,
Hơn thắng trí của Ngài,
Như ngưi đang đứng lại,
Không thắng kẻ đi mau.

384. Ye kecime brāhmaṇā vādasīlā vuddhā cāpi brāhmaṇā santi keci, sabbe tayi atthabaddhā bhavanti ye cāpi caññe vādino maññamānā.

384. Những Bà-la-môn này, bất cứ những vị nào có bản tánh tranh luận, và có cả những vị Bà-la-môn trưởng thượng nào đó nữa, luôn cả những kẻ khác đang nghĩ họ là những người tranh luận, tất cả đều bám vào ý nghĩa (của lời giải đáp) ở nơi Ngài.

382. Các Bà-la-môn này,
Ưa luận tranh khẩu chiến,
Có những bậc Phạm-chí,
Ðã đến tuổi trưng thượng,
Tất cả đều trói buộc,
Bởi tư tưởng của Ngài,
Kể cả những hạng người,
Tự phụ nói khoe khoang.

385. Ayaṃ hi dhammo nipuṇo sukho ca yoyaṃ tayā bhagavā suppavutto, tameva sabbe sussūsamānā taṃ no vada pucchito buddhaseṭṭha.

385. Bạch đức Thế Tôn, bởi vì Giáo Pháp này là vi tế và (đem lại) an lạc, đã khéo được tuyên thuyết bởi Ngài. Tất cả đang mong muốn lắng nghe chính điều ấy. Bạch đức Phật tối thượng, đã được hỏi, xin Ngài hãy nói cho chúng con điều ấy.

383. Pháp này là tế nhị,
Ðem lại nguồn an lạc,
Ðã được bậc Thế Tôn
Khéo nói, khéo thuyết giảng,
Tất cả mọi hạng người,
Ðều thích thú ưa nghe,
Ðược hỏi, hãy nói lên,
Ôi đức Phật tối thượng.

386. Sabbepime bhikkhavo sannisinnā upāsakā cāpi tatheva sotuṃ, suṇantu dhammaṃ vimalenānubuddhaṃ
subhāsitaṃ vāsavasseva devā.  

386. Tất cả các vị tỳ khưu này cũng đã cùng nhau ngồi xuống để lắng nghe, các cư sĩ cũng tương tự y như thế. Hãy để họ lắng nghe Giáo Pháp đã được giác ngộ bởi bậc Vô Nhiễm, tựa như chư Thiên lắng nghe lời khéo nói của (Thiên Vương) Vāsava.

384. Các vị Tỷ-kheo này,
Ðang ngồi đây tất cả,
Kể cả nam cư sĩ,
Tất cả đều chờ nghe,
Hãy để họ nghe pháp,
Bậc Vô uế Giác ngộ,
Như chư Thiên nghe lời,
Vàsava khéo nói!

387. Suṇātha me bhikkhavo sāvayāmi vo dhammaṃ dhutaṃ tañca dharātha sabbe, iriyāpathaṃ pabbajitānulomikaṃ sevetha naṃ atthadassī mutīmā.

387. “Này các tỳ khưu, các ngươi hãy lắng nghe Ta. Ta nói cho các ngươi nghe về pháp từ khước; và tất cả hãy ghi nhớ điều ấy. Vị có sự nhìn thấy điều lợi ích, có niệm, nên thực hành (bốn) oai nghi phù hợp đối với các bậc xuất gia.

Thế Tôn:

385. Tỷ-kheo, hãy nghe Ta,
Ta khiến các Thầy nghe,
Pháp đoạn trừ điều ác,
Tất cả hãy trọ trì,
Với ai thấy ý nghĩa,
Nghĩ ngợi có suy tư,
Hãy sống theo chánh hạnh,
Thích hợp với xuất gia.

388. Na ve vikāle vicareyya bhikkhu gāmañca piṇḍāya careyya kāle, akālacāriṃ hi sajanti saṅgā tasmā vikāle na caranti buddhā.  

388. Thật vậy, vị tỳ khưu không nên đi đâu vào lúc không đúng thời, và nên đi vào làng để khất thực lúc đúng thời. Bởi vì, sự quyến luyến bám vào kẻ du hành không đúng thời. Vì thế, chư Phật không đi vào lúc không đúng thời.

386. Tỷ-kheo chớ ra ngoài,
Trong thời gian phi thời,
Hãy vào làng khất thực,
Ðúng thời, thì hãy đi,
Ai đi đứng phi thời,
Bị bẫy sập trói buộc.
Do vậy các đức Phật,
Không có đi phi thời.

389. Rūpā ca saddā ca rasā ca gandhā phassā ca ye sammadayanti satte, etesu dhammesu vineyya chandaṃ kālena so pavise pātarāsaṃ.  

389. Các sắc, các thinh, các vị, các hương, và các xúc, chúng làm say đắm các chúng sanh. Sau khi xua đi sự mong muốn ở các pháp ấy, vị ấy vào lúc đúng thời có thể đi vào (làng để khất thực) cho buổi ăn sáng.

387. Các sắc và các tiếng,
Các vị, hương và xúc,
Chính những loại pháp ấy
Làm mê hoặc chúng sanh.
Hãy nhiếp phục, lòng dục,
Ðối với các pháp ấy,
Hãy vào cho đúng thời,
Ðể dùng buổi ăn sáng.

390. Piṇḍañca bhikkhu samayena laddhā eko paṭikkamma raho nisīde, ajjhattacintī na mano bahiddhā nicchāraye saṅgahitattabhāvo.

390. Và sau khi đã nhận được vật thực hợp thời, vị tỳ khưu, một mình, sau khi quay trở về nên ngồi xuống ở nơi vắng vẻ, có tâm hướng nội phần, có bản ngã đã được nắm giữ tốt đẹp, không để cho ý buông lung ở ngoại cảnh.

388. Tỷ-kheo đưc đúng thời,
Các đ ăn khất thực,
Hãy đi về một mình,
Ngồi tại chỗ an tịnh,
Suy tư hướng nội tâm,
Ý không chạy ra ngoài,
Làm cho thoát ra khỏi,
Mọi chấp thủ tự ngã.

391. Sace pi so sallape sāvakena aññena vā kenaci bhikkhunā vā, dhammaṃ paṇītaṃ tamudāhareyya na pesunaṃ nopi parūpavādaṃ.  

391. Thậm chí, nếu vị ấy phải chuyện trò với người đệ tử, hoặc với kẻ khác, hoặc với bất cứ vị tỳ khưu nào, thì nên đề cập đến Giáo Pháp hảo hạng ấy, không nói đâm thọc, cũng không nói chỉ trích kẻ khác.

389. Nếu vị ấy có nói,
Với một vị đệ tử,
Hay nói với một vị
Một Tỷ-kheo nào khác,
Hãy nói cho vị ấy,
Sự thù diệu Chánh pháp,
Không có nói hai lưỡi,
Không bài xích một ai,

392. Vādaṃ hi eke paṭiseniyanti na te pasaṃsāma parittapaññe, tato tato ne pasajanti saṅgā cittaṃ hi te tattha gamenti dūre.  

392. Bởi vì một số người phản kháng lại lời nói, chúng ta không ca ngợi những kẻ có tuệ nhỏ nhoi ấy. Các sự quyến luyến từ nơi này nơi khác đeo bám những kẻ ấy, bởi vì những kẻ ấy để cho tâm đi xa khỏi nơi ấy.

390. Nhưng có những hạng người,
Dùng khẩu chiến bằng lời,
Những hạng người tuệ nhỏ,
Chúng ta không tán thán,
Triền phược trói buộc họ,
Từ chỗ này chỗ kia,
 đây họ dẫn tâm,
Ðưa tâm đi quá xa.

393. Piṇḍaṃ vihāraṃ sayanāsanañca āpañca saṅghāṭirajūpavāhanaṃ, sutvāna dhammaṃ sugatena desitaṃ
saṅkhāya seve varapaññasāvako.

393. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp được thuyết giảng bởi bậc Thiện Thệ, vị đệ tử có tuệ cao quý suy xét rồi thọ dụng đồ ăn khất thực, trú xá, chỗ nằm ngồi (giường ghế), và nước gột sạch bụi bám ở y hai lớp.

391. Ðồ khất thực, tinh xá,
Cùng sàng tọa trú xứ,
c để trừ bụi nhớp,
Y áo Tăng-già-lê,
Sau khi nghe Chánh pháp,
Do Thiện Thệ thuyết giảng,
Bậc đệ tử thắng tuệ,
Quán sát, hãy dùng chúng.

394. Tasmā hi piṇḍe sayanāsane ca āpe ca saṅghāṭirajūpavāhane, etesu dhammesu anūpalitto bhikkhu yathā pokkhare vāribindū.

394. Chính vì thế, về đồ ăn khất thực, về chỗ nằm ngồi (giường ghế), và về nước gột sạch bụi bám ở y hai lớp, vị tỳ khưu không bám víu vào những pháp này, giống như những giọt nước ở lá sen.

392. Do vậy đồ khất thực,
Sàng tọa và trú xứ,
c để trừ bụi nhớp,
Y áo Tăng-già-lê,
Ðối với những pháp ấy,
Ðừng để cho dính nhiễm.
Tỷ-kheo như git nước,
Không dính trên lá sen.

395. Gahaṭṭhavattaṃ pana vo vadāmi yathākaro sāvako sādhu hoti, na hesa labbhā sapariggahena phassetuṃ so kevalo bhikkhudhammo.

395. Giờ đây, Ta nói về phận sự của người tại gia cho các ngươi. Có hành động như thế nào thì trở nên người đệ tử tốt lành. Bởi vì toàn bộ pháp hành ấy của tỳ khưu, người có vật sở hữu thì không thể nào đạt đến.

393. Trách nhiệm của gia chủ,
Ta cũng nói các Ông,
Làm theo đúng như vậy,
Ðệ tử là tốt lành.
Pháp Tỷ-kheo toàn diện,
Khó thành tựu đy đ,
Vì là người gia chủ,
Phải làm nhiều việc đời.

396. Pāṇaṃ na hāne na ca ghātayeyya na cānujaññā hanataṃ paresaṃ, sabbesu bhūtesu nidhāya daṇḍaṃ ye thāvarā ye ca tasā santi loke.  

396. Không nên giết hại mạng sống và không nên bảo (kẻ khác) giết hại, không nên chấp thuận cho những kẻ khác đang giết hại. Sau khi bỏ xuống gậy gộc đối với tất cả chúng sanh, những loài không di động và những loài di động hiện hữu ở thế gian.

394. Chớ giết loài hữu tình,
Chớ bảo người giết hại,
Hay chấp nhận kẻ khác,
Giết hại các người khác,
Ðối với mọi sanh loại,
Từ bỏ các hình phạt,
Ðối với kẻ mạnh bạo,
Như đối kẻ run sợ.

397. Tato adinnaṃ parivajjayeyya kiñci kvaci sāvako bujjhamāso, na hāraye harataṃ nānujaññā sabbaṃ adinnaṃ parivajjayeyya.

397. Kế đến, người đệ tử sáng suốt nên xa lánh bất cứ vật gì không được cho, ở bất cứ nơi đâu. Không nên bảo (kẻ khác) lấy trộm, không nên chấp nhận những kẻ đang lấy trộm, nên xa lánh mọi vật không được cho.

385. Rồi hãy quyết từ bỏ,
Lấy của không được cho,
Ðệ tử khéo sáng suốt,
Vật gì, vật của ai,
Chớ khiến người khác lấy,
Chớ chấp nhận lấy trộm.
Hãy từ bỏ, chấm dứt,
Mọi của cải không cho.

398. Abrahmacariyaṃ parivajjayeyya aṅgārakāsuṃ jalitaṃ va viññū, asambhuṇanto pana brahmacariyaṃ
parassa dāraṃ nātikkameyya.

398. Người có sự hiểu biết nên xa lánh việc phi Phạm hạnh, tựa như (xa lánh) đống than hừng đang cháy rực. Hơn nữa, trong khi không đủ khả năng (sống) Phạm hạnh, không nên xâm phạm vợ của người khác.

396. Hãy từ bỏ, tránh xa
Ðời sống phi Phạm hạnh,
Như bậc trí tránh né,
Lửa cháy hố than hừng.
Nếu tự mình bất lực,
Không thể sống Phạm hạnh,
Thời chớ có xâm phạm
Vợ của các người khác.

399. Sabhaggato vā parisaggato vā ekassa ceko na musā bhaṇeyya, na bhāṇaye bhaṇataṃ nānujaññā sabbaṃ abhūtaṃ parivajjayeyya.

399. Một người đi đến cuộc hội họp hoặc đi đến hội chúng không nên nói lời dối trá đối với người khác, không nên bảo (kẻ khác) nói (dối), không nên chấp nhận những kẻ đang nói (dối), nên xa lánh mọi điều không phải sự thật.

397. Khi đi đến hội chúng,
Hay đi đến đoàn chúng,
Hay một mình một người,
Chớ nói lời nói láo,
Chớ khiến người nói láo,
Chớ chấp nhận nói láo,
Tất cả điều không thật,
Hãy tránh xa từ bỏ.

400. Majjañca pānaṃ na samācareyya dhammaṃ imaṃ rocaye yo gahaṭṭho, na pāyaye pibataṃ nānujaññā ummādanantaṃ iti naṃ viditvā.

400. Người tại gia nào thích thú với Giáo Pháp này không nên thực hành việc uống chất say, không nên bảo (kẻ khác) uống (chất say), không nên chấp nhận những kẻ đang uống (chất say), sau khi biết rằng việc (uống chất say) ấy có sự điên cuồng là kết cuộc.

398. Chớ sống theo nếp sống,
Uống rưu và say rượu,
Với vị là cư sĩ,
Ðã chấp nhận pháp này,
Chớ khiến nguời uống rượu,
Chớ chấp thuận uống rượu
Sau khi biết uống rượu,
Cuối đưng là điên cuồng.

401. Madā hi pāpāni karonti bālā karonti caññepi jane pamatte, Etaṃ apuññāyatanaṃ vivajjaye ummādanaṃ mohanaṃ bālakantaṃ.

401. Bởi vì do say sưa, những kẻ ngu làm những việc xấu xa và còn làm cho những người khác cũng bị xao lãng. Nên xa lánh hẳn việc này, lãnh vực không có phước báu, sự điên cuồng, sự đần độn, được ưa thích bởi kẻ ngu.

399. Chỉ kẻ ngu say rượu,
Mới làm các điều ác,
Và khiến các người khác,
Sống buông lung phóng dật,
Hãy từ bỏ, tránh xa
Xứ phi công đức này,
Khiến điên cuồng si mê,
Làm kẻ ngu thỏa thích.

402. Pāṇaṃ na hāne na cadinnamādiye musā na bhāse na ca majjapo siyā, abrahmacariyā virameyya methunā
rattiṃ na bhuñjeyya vikālabhojanaṃ.  

402. Không nên giết hại sinh mạng, và không nên lấy vật không được cho, không nên nói lời dối trá, và không nên uống chất say, nên kiêng cử việc đôi lứa, việc phi Phạm hạnh, không nên ăn vật thực lúc phi thời, vào ban đêm.

400. Chớ có giết hữu tình,
Chớ lấy của không cho,
Chớ nói láo không thật,
Chớ uống rượu say mê,
Từ bỏ phi Phạm hạnh,
Không hành trì dâm dục
Không có ăn ban đêm,
Không ăn lúc phi thời.

403. Mālaṃ na dhāre na ca gandhamācare mañce chamāyaṃ va sayetha santhate, etaṃ hi aṭṭhaṅgikamāhuposathaṃ buddhena dukkhantagunā pakāsitaṃ.  

403. Không nên đeo tràng hoa, và không nên sử dụng chất thơm, nên nằm ở chiếc giường, hoặc ở mặt đất đã được trải lót. Bởi vì việc ấy được gọi là là hạnh trai giới gồm có tám chi phần, đã được giảng giải bởi đức Phật, bậc đã đi đến sự chấm dứt của khổ đau.

401. Chớ mang các vòng hoa,
Chớ dùng các nưc thơm,
Hãy nằm trên mặt đất,
Trên thảm chiếu trải dài,
Tám hạnh này được gọi
Là hạnh ngày trai giới,
Do đức Phật giảng dạy,
Ðể chấm dứt khổ đau.

404. Tato ca pakkhassupavassuposathaṃ cātuddasiṃ pañcadasiñca aṭṭhamiṃ, pāṭihāriyapakkhañca pasannamānaso aṭṭhaṅgupetaṃ susamattarūpaṃ.

404. Và kế đó, sau khi hành trì ngày trai giới hội đủ tám chi phần, có hình thức được hoàn toàn đầy đủ, với tâm tịnh tín, vào ngày mười bốn, ngày mười lăm, ngày thứ tám của nửa tháng, và (các) ngày phụ trội của nửa tháng,[1] ...

402. Từ nay ngày trai giới,
Chia nửa tháng hai phần,
Ngày mười bốn, mưi lăm,
Hay ngày tám mỗi tháng,
Với tâm ý hoan hỷ,
Thực hành thần thông pháp
Gồm có đủ tám phần,
Khéo đy đủ vẹn toàn.

[1] Vào mỗi nửa tháng, ba ngày trai giới mồng tám, mười bốn, mười lăm, cộng thêm ngày rước và ngày đưa là các ngày bảy, ngày chín, ngày mười ba, và mồng một (ND).

405. Tato ca pāto upavutthuposatho annena pānena ca bhikkhusaṅghaṃ, pasannacitto anumodamāno yathārahaṃ saṃvibhajetha viññū.

405. ... và sau đó vào buổi sáng, khi ngày trai giới đã được hành trì xong, người có sự hiểu biết, với tâm tịnh tín, trong khi đang hoan hỷ, nên dâng cúng cơm nước phù hợp với khả năng đến hội chúng tỳ khưu.

403. Do vậy, vào buổi sáng,
Thực hành ngày trai giới,
Bậc có trí sáng suốt,
Với tâm tư tín thành,
Với tâm ý tùy hỷ,
Cúng dường Tỷ-kheo Tăng,
Với món ăn đồ uống,
Hợp với khả năng mình.

406. Dhammena mātāpitaro bhareyya payojaye dhammikaṃ so vaṇijjaṃ, etaṃ gihī vattayaṃ appamatto sayaṃpabhe nāma upeti deveti.  

406. Người ấy nên phụng dưỡng mẹ cha đúng theo bổn phận, nên áp dụng việc buôn bán một cách đúng pháp. Người tại gia này, trong lúc duy trì cuộc sống (như vậy), không xao lãng, (sẽ) đi đến với chư Thiên có tên là ‘Sayaṃpabhā’ (tự mình có hào quang).

404. Hãy nuôi dưỡng mẹ cha,
Hợp pháp và đúng pháp,
Và cũng đúng với pháp,
Hãy làm nghề buôn bán,
Người gia chủ như vậy,
Sở hành không phóng dật,
Ðược sanh làm Thiên nhân,
Tên là: "Tự chói sáng".

Dhammikasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

Cullavaggo dutiyo.

Dứt Kinh Dhammika.

 

Tiểu Phẩm là thứ nhì.

TASSUDDĀNA

TÓM LƯỢC PHẨM NÀY

Ratanaṃ āmagandhañca hiriṃ maṅgalamuttamaṃ, sūcilomo kapilaṃ ca puna brāhmaṇadhammikaṃ.
Dhammasuttaṃ kiṃsīlaṃ uṭṭhānaṃ atha rāhulo, kappo ca paribbājañca dhammiko ca punāparaṃ, cuddasetāni suttāni cullavaggoti vuccati.

Kinh châu báu, và kinh mùi tanh hôi, kinh hổ thẹn, kinh điềm lành tối thượng, kinh Sūciloma, kinh Kapila, và kinh truyền thống Bà-la-môn nữa, kinh Giáo Pháp, kinh với giới gì, kinh đứng lên, và kinh Rāhula, kinh Kappa, kinh du hành (chân chánh), và còn có kinh Dhammika khác nữa; mười bốn bài kinh này gọi là Tiểu Phẩm.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada