8. KINH GIÁO PHÁP (CHIẾC THUYỀN) (Ngài Indacanda dịch Việt, văn xuôi, chữ in thường)

8. KINH CHIẾC THUYỀN (Ngài Indacanda dịch Việt, văn xuôi, chữ in thường)

318. Yasmā hi dhammaṃ puriso vijaññā indaṃ ’va naṃ devatā pūjayeyya, so pūjito tasmiṃ pasannacitto bahussuto pātukaroti dhammaṃ.

318. Do bởi vị nào mà một người có thể nhận thức được Giáo Pháp, thì nên tôn vinh vị ấy, tựa như vị Thiên nhân tôn vinh Thiên Chủ Inda. Được tôn vinh, có tâm hoan hỷ ở người (học trò) ấy, vị đa văn ấy (sẽ) bày tỏ về Giáo Pháp.

316. Từ vị nào một người,
Rõ biết được Chánh pháp,
Hãy đảnh lễ vị ấy,
Như chư Thiên, Inda,
Vị ấy đưc đảnh lễ,
Tâm tư sanh hoan h,
Nghe nhiều, học hỏi nhiều,
Thuyết trình chơn diệu pháp.

319. Tadaṭṭhikatvāna nisamma dhīro dhammānudhammaṃ paṭipajjamāno, viññū vibhāvī nipuṇo ca hoti yo tādisaṃ bhajate appamatto.

319. Người nào thân cận với vị (thầy) như thế ấy, không xao lãng, là người sáng trí, sau khi lấy điều ấy làm mục đích, sau khi lắng tai nghe, trong khi thực hành đúng pháp và thuận pháp, trở thành người hiểu biết, thông suốt, và khôn khéo.

317. Vị sáng suốt chú tâm,
Suy tư và quán sát
Thực hành pháp tuỳ pháp,
Trở thành vị hiểu biết,
Thông minh và thận trọng,
Không phóng dật, vị ấy,
Theo gương v như vậy.

320. Khuddañca bālaṃ upasevamāno anāgatatthañca usūyakañca, idheva dhammaṃ avibhāvayitvā avitiṇṇakaṅkho maraṇaṃ upeti.

320. Trong khi phục vụ vị (thầy) nhỏ mọn và ngu dốt, còn chưa đạt đến mục đích và có tánh ganh tỵ, ngay tại nơi này người (học trò) không thông suốt Giáo Pháp và đi đến cái chết, còn chưa vượt qua sự nghi hoặc.

318. Ai phục vụ kẻ ngu,
Ngu si, tâm bé nhỏ,
Mục đích chưa đt được,
Lại ganh tị tật đ,
Chính ở đây Chánh pháp,
Không phát triển tu tập,
Chưa vượt thoát nghi hoặc,
Người ấy bị tử vong.

321. Yathā naro āpagaṃ otaritvā mahodakaṃ salilaṃ sīghasotaṃ, so vuyhamāno anusotagāmi kiṃ so pare sakkati tārayetuṃ.

321. Giống như người đàn ông sau khi lội xuống dòng sông có nước lớn, tràn lan, có dòng nước chảy xiết, trong khi bị cuốn trôi xuôi theo dòng nước, người ấy có khả năng để giúp những kẻ khác vượt qua không?

319. Như người nhảy xuống sông,
Dòng sông nước ngập tràn,
ớc sông, nhớp đục ngầu,
Dòng nước chảy nhanh mạnh
Người ấy bị lôi cuốn,
Theo dòng nưc trôi đi,
Làm sao nó có thể,
Giúp ngưi khác vượt dòng.

322. Tatheva dhammaṃ avibhāvayitvā bahussutānaṃ anisāmayattha, sayaṃ ajānaṃ avītiṇṇakaṅkho kiṃ so pare sakkati nijjhāpetuṃ.

322. Tương tự như thế ấy, người không thông suốt Giáo Pháp, không lắng tai nghe ý nghĩa ở những vị đa văn, trong khi chính mình không biết, còn chưa vượt qua sự nghi hoặc, người ấy có khả năng để giúp cho những kẻ khác lĩnh hội không?

320. Cũng vậy, với người nào,
Pháp không được tu tập,
Không quán sát ý nghĩa,
Của những vị nghe nhiều,
Tự mình không rõ biết,
Nghi hoặc chưa vượt qua,
Làm sao nó có thể,
Giúp người khác thiền định.

323. Yathāpi nāvaṃ daḷhamāruhitvā piyen’ arittena samaṅgibhūto, so tāraye tattha bahūpi aññe tatrūpāyaññū kusalo mutīmā.

323. Cũng giống như người, sau khi leo lên chiếc thuyền vững chắc, được cung cấp mái chèo và bánh lái, là người thiện xảo, biết xử trí, hiểu biết cách thức (điều khiển) ở nơi ấy (chiếc thuyền), người ấy có thể giúp cho nhiều người khác nữa vượt qua nơi ấy.

321. Như ngưi được leo lên,
Chiếc thuyền mạnh vững chắc,
Ðược trang bị đy đ,
Mái chèo và tay lái;
Ngưi như vậy ở đây,
Giúp nhiều ngưi ngược dòng,
Rõ biết những phương tiện,
Thiện xảo và sáng suốt.

324. Evampi yo vedagū bhāvitatto bahussuto hoti avedhadhammo, so kho pare nijjhapaye pajānaṃ
sotāvadhānūpanīsūpapanne.

324. Cũng như vậy, vị nào đã đạt được tri kiến, có bản thân đã được tu tập, là vị nghe nhiều, có bản tánh không bị dao động, quả thật vị ấy, trong khi nhận biết, có thể giúp cho những người khác lĩnh hội, những người có sự lắng tai nghe và có được điều kiện căn bản (của sự chứng ngộ).

322. Như vậy, bậc sáng suốt,
Luôn luôn tự tu tập,
Bậc nghe nhiều hiểu nhiều,
Không còn bị dao động,
Vị ấy giúp đ được,
Các người khác tu thiền,
Làm khởi lên nguyên nhân,
Tha thiết muốn nghe pháp.

325. Tasmā have sappurisaṃ bhajetha medhāvinañceva bahussutañca, aññāya atthaṃ paṭipajjamāno viññātadhammo so sukhaṃ labhethāti.

325. Vì thế, thật vậy nên thân cận với bậc chân nhân, vị có sự thông minh và có sự nghe nhiều. Sau khi hiểu được ý nghĩa, trong khi thực hành, với Giáo Pháp đã được nhận thức, người ấy có thể đạt được sự an lạc.

323. Do vậy, hãy thân cận,
Bậc chân nhân hiền sĩ,
Bậc sáng suốt, có trí,
Bậc nghe nhiều học nhiều.
Sau khi biết mục đích,
Cố gắng khéo hành trì,
Rõ biết được Chánh pháp,
Vị ấy được an lạc.

Dhammasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

Dứt Kinh Giáo Pháp.  



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada