7. KINH TRUYỀN THỐNG BÀ-LA-MÔN (Ngài Indacanda dịch Việt, văn xuôi, chữ in thường)

7. KINH PHÁP BÀ-LA-MÔN (Ngài Thích Minh Châu dịch Việt, văn vần, chữ in nghiêng)

Evaṃ me sutaṃ: Ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Atha kho sambahulā kosalakā brāhmaṇamāhāsāḷā jiṇṇā vuddhā mahallakā addhagatā vayo anuppattā yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu, upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodiṃsu, sammodanīyaṃ kathaṃ sārānīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinnā kho te brāhmaṇamahāsāḷā bhagavantaṃ etadavocuṃ:

Tôi đã nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn ngự tại Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Khi ấy, nhiều vị Bà-la-môn giàu có, cư dân xứ Kosala, già cả, uy tín, lớn tuổi, sống thọ, đã đạt đến giai đoạn cuối của cuộc đời, đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã tỏ vẻ thân thiện với đức Thế Tôn, sau khi trao đổi lời xã giao thân thiện rồi đã ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống ở một bên, các vị Bà-la-môn giàu có ấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Rồi nhiều Bà-la-môn đại phú ở Kosala già yếu, cao niên, trưởng lão, đã đến tuổi trưng thưng, đã gần mãn cuộc đi, đi đến Thế Tôn, sau khi đến nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hi thăm. Sau khi nói lên những lời chào đón hi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Bà-la-môn đại phú ấy bạch Thế Tôn:

Sandissanti nu kho bho gotama etarahi brāhmaṇā porāṇānaṃ brāhmaṇānaṃ brāhmaṇadhammeti.

- Thưa ngài Gotama, các vị Bà-la-môn hiện nay có sống theo pháp Bà-la-môn của các vị Bà-la-môn thời xưa không?- Thưa Tôn giả Gotama, hiện nay còn có những Bà-la-môn nào được thấy là theo pháp Bà-la-môn của những Bà-la-môn thời xưa?

Na kho brāhmaṇā sandissanti etarahi brāhmaṇā porāṇānaṃ brāhmaṇānaṃ brāhmaṇadhammeti.

 - Này các Bà-la-môn, các vị Bà-la-môn hiện nay không sống theo pháp Bà-la-môn của các vị Bà-la-môn thời xưa.

- Này các Bà-la-môn, hiện nay không còn thấy các Bà-la-môn theo pháp Bà-la-môn của các Bà-la-môn thời xưa?

Sādhu no bhavaṃ gotamo porāṇānaṃ brāhmaṇānaṃ brāhmaṇadhammaṃ bhāsatu sace bhoto gotamassa agarūti.

 - Thưa ngài Gotama, lành thay xin ngài Gotama hãy nói cho chúng tôi về pháp Bà-la-môn của các vị Bà-la-môn thời xưa, nếu đối với ngài Gotama là không trở ngại.

- Lành thay, Tôn giả Gotama hãy nói cho pháp Bà-la-môn của các Bà-la-môn thời xưa. Nếu Tôn giả Gotama không thấy gì phiền phức.

Tena hi brāhmaṇā suṇātha sādhukaṃ manasikarotha bhāsissāmīti.

- Này các Bà-la-môn, như thế thì các người hãy lắng nghe, các người hãy khéo chú ý, Ta sẽ nói.- Vậy này các Bà-la-môn, hãy nghe và khéo tác ý. Ta sẽ nói.Evaṃ bhoti kho te brāhmaṇamahāsāḷā bhagavato paccassosuṃ. Bhagavā etadavoca:“Thưa ngài, xin vâng,” các vị Bà-la-môn giàu có ấy đã đáp lại đức Thế Tôn Đức Thế Tôn đã nói điều này:

- Thưa vâng, Tôn gi. Các Bà-la-môn đại phú ấy vâng đáp Thế Tôn, Thế Tôn nói như sau:

286. Isayo pubbakā āsuṃ saṃyatattā tapassino, pañcakāmaguṇe hitvā attadatthamacārisuṃ.

286. Các vị ẩn sĩ thời quá khứ có bản thân đã được chế ngự, có sự khắc khổ, sau khi từ bỏ năm loại dục, các vị đã thực hành điều lợi ích cho bản thân.

284. Các ẩn sĩ thời xưa,
Chế ngự, sống khắc khổ,
Bỏ năm dc trưng dưỡng,
Hành lý tưởng tự ngã.287.

Na pasū brāhmaṇānāsuṃ na hiraññaṃ na dhāniyaṃ, sajjhāyadhanadhaññāsuṃ brahmaṃ nidhimapālayuṃ.

287. Không gia súc, không vàng, không tài sản đối với các vị Bà-la-môn. Có việc học là tài sản và lúa gạo, các vị đã bảo vệ kho báu cao thượng.

285. Phạm chí, không gia súc,
Không vàng bạc lúa gạo,
Học hỏi là tài sản,
Họ che chở hộ trì,
Kho tàng tối thượng ấy.

288. Yaṃ tesaṃ pakataṃ āsi dvārabhattaṃ upaṭṭhitaṃ, saddhāpakatamesānaṃ dātave tadamaññisuṃ.

288. Vật nào đã được làm ra dành cho các vị ấy, vật thực được đặt gần ở cánh cửa (của ngôi nhà), vật đã được làm ra bởi niềm tin, (các thí chủ) nghĩ rằng vật ấy sẽ được bố thí đến những vị đang tầm cầu.

286. Ðồ ăn được sửa soạn,
Ðưc đặt tại ngưỡng cửa,
Với lòng tin, họ soạn
Ðể cúng bậc Thánh cầu.

289. Nānārattehi vatthehi sayaneh’ āvasathehi ca, phītā janapadā raṭṭhā te namassiṃsu brāhmaṇe.

289. Với các vải vóc nhuộm nhiều màu, với các giường nằm, và với các chỗ trú ngụ, các xứ sở, các vương quốc thịnh vượng đã tôn vinh các vị Bà-la-môn ấy.

287. Với vải mặc nhiều màu,
Với giường nằm trú xứ,
Từ quốc độ giàu có,
Họ đảnh lễ Phạm chí.

290. Avajjhā brāhmaṇā āsuṃ ajeyyā dhammarakkhitā, na te koci nivāresi kuladvāresu sabbaso.

290. Các vị Bà-la-môn đã không bị giết hại, không bị áp bức, được pháp luật bảo vệ, hoàn toàn không có bất cứ người nào đã ngăn cản các vị ấy ở các ngưỡng cửa của các gia đình.

288. Không bị ai xâm phạm
Là Phạm chí thời ấy,
Không bị ai chiến hại,
Họ được pháp che chở,
Không ai ngăn chận họ,
Tại ngưỡng cửa gia đình.

291. Aṭṭhacattārisaṃ vassāni komāraṃ brahmacariyaṃ cariṃsu te, vijjācaraṇapariyeṭṭhiṃ acaruṃ brāhmaṇā pure.

291. Các vị ấy đã thực hành Phạm hạnh từ thời niên thiếu cho đến bốn mươi tám tuổi. Các vị Bà-la-môn trước đây đã tầm cầu kiến thức và đức hạnh.

289. Từ trẻ đến bốn tám,
Các Phạm chí thời xưa,
Họ sống hành Phạm hạnh,
Tầm cầu minh và hạnh.

292. Na brāhmaṇā aññamagamuṃ napi bharīyaṃ kiṇiṃsu te, sampiyeneva saṃvāsaṃ saṃgantvā samarocayuṃ.

292. Các vị Bà-la-môn đã không đi đến với (giai cấp) khác, các vị ấy cũng đã không mua người vợ. Chi do sự yêu thương lẫn nhau, họ đã đi đến với nhau và cùng vui thích sự chung sống với nhau.

290. Các vị Bà-la-môn,
Không đến giai cấp khác,
Không mua người làm vợ,
Chung sống trong tình thương,
Họ đi đến với nhau,
Trong niềm hoan hỷ chung.

293. Aññatra tamhā samayā utuveramaṇimpati, antarā methunaṃ dhammaṃ nāssu gacchanti brāhmaṇā.

293. Trừ ra thời điểm ấy, lúc dứt kinh kỳ của người vợ, khoảng giữa (chu kỳ ấy), các vị Bà-la-môn không bao giờ đi đến việc đôi lứa.

291. Ngoại trừ thời gian ấy,
Thời có thể thụ thai,
Là người Bà-la-môn,
Không đi đến giao cấu.

294. Brahmacariyañca sīlañca ajjavaṃ maddavaṃ tapaṃ, soraccaṃ avihiṃsañca khantiñcāpi avaṇṇayuṃ.

294. Các vị đã ca ngợi Phạm hạnh, giới hạnh, sự ngay thẳng, sự mềm mỏng, sự khắc khổ, sự nhã nhặn, sự không hãm hại, và luôn cả sự kham nhẫn.

292. Họ tán thán Phạm hạnh,
Giới, học thức, nhu hòa,
Khắc khổ và hòa nhã,
Bất hại và nhẫn nhục.

295. Yo nesaṃ paramo āsi brahmā daḷhaparakkamo, sa vāpi methunaṃ dhammaṃ supinantepi nāgamā.

295. Trong số các vị ấy, vị nào là tối thắng, cao cả, có sự nỗ lực vững chải, chính vị ấy đã không còn đi đến việc đôi lứa, dầu là trong giấc mơ.

293. Vị tối thắng trong họ,
Là Phạm thiên, nỗ lực,
Vị ấy không giao hợp,
Cho đến trong cơn mộng.

296. Tassa vattamanusikkhantā idheke viññujātikā, brahmacariyañca sīlañca khantiñcāpi avaṇṇayuṃ.

296. Trong khi học tập theo sự thực hành của vị ấy, nhiều vị ở đây, có bản tánh hiểu biết, đã ca ngợi Phạm hạnh, giới hạnh, và luôn cả sự kham nhẫn.

294. Ở đời, bậc có trí,
Học theo hạnh vị ấy,
Họ tán thán Phạm hạnh,
Giới đức và nhẫn nhục.

297. Taṇḍulaṃ sayanaṃ vatthaṃ sappitelañca yāciya, dhammena samodhānetvā tato yaññamakappayuṃ,
upaṭṭhitasmiṃ yaññasmiṃ nāssu gāvo haniṃsu te.

297. Sau khi yêu cầu gạo, giường nằm, vải vóc, bơ lỏng và dầu ăn, sau khi đã thu thập đúng pháp, từ đó các vị đã chuẩn bị lễ hiến tế. Khi lễ hiến tế được sẵn sàng, các vị ấy đã không bao giờ giết hại các con bò.

295. Họ xin cơm, sàng tọa,
Vải mặc, bơ và dầu,
Thâu nhiếp thật đúng pháp,
Họ tổ chức tế tự,
Trong lễ tế tự ấy,
Họ không giết bò cái.

298. Yathā mātā pitā bhātā aññe vāpi ca ñātakā, gāvo no paramā mittā yāsu jāyanti osadhā.

298. Giống như mẹ, cha, anh (em) trai, hoặc luôn cả những người bà con khác, những con bò là bạn bè tốt nhất của chúng ta, (bởi vì) từ nơi chúng các thuốc chữa bệnh được sản xuất ra.

296. Như m và như cha,
Như anh, như bà con,
Bò là bạn tối thượng,
Từ chúng, sanh được vị.

299. Annadā baladā cetā vaṇṇadā sukhadā tathā, etamatthavasaṃ ñatvā nāssu gāvo haniṃsu te.

299. Tương tự như thế, chúng còn cho thức ăn, cho sức mạnh, cho dung sắc, và cho sự an lạc. Sau khi biết được lợi ích này, các vị Bà-la-môn đã không bao giờ giết hại những con bò.

297. Bò cho ăn, cho sức,
Cho dung sắc, cho lạc
Biết được lợi ích này,
Họ không giết hại bò.

300. Sukhumālā mahākāyā vaṇṇavanto yasassino, brāhmaṇā sehi dhammehi kiccākiccesu ussukā, yāva loke avattiṃsu sukhamedhitthayampajā.

300. Có vóc dáng thanh tú, có thân hình cao lớn, có dung sắc, có danh tiếng, các vị Bà-la-môn năng nổ ở phận sự và không phải là phận sự đối với các truyền thống của mình. Chừng nào các truyền thống ấy còn vận hành ở thế gian, thì dòng dõi (con người) này còn đạt được sự an lạc.

298. Họ đoan trang thân lớn,
Có dung sắc, danh xưng,
Bản tánh là nhiệt tình,
Trong hành thiện dứt ác,
Họ còn sống ở đời,
Dân chúng hưởng an lạc.

301. Tesaṃ āsi vipallāso disvāna aṇuto aṇuṃ, rājino va viyākāraṃ nāriyo samalaṅkatā.

301. Trong số các vị Bà-la-môn đã có sự đổi thay. (Trước đây) các vị đã nhìn thấy nhỏ nhoi là nhỏ nhoi, ví như sự huy hoàng của nhà vua, các người phụ nữ đã được trang điểm, ...

299. Giữa họ có đảo lộn,
Họ thấy vật nhỏ nhen.
Thấy huy hoàng nhà vua,
Thấy trang sức phụ nữ.

302. Rathe cājaññasaṃyutte sukate cittasibbane, nivesane nivese ca vibhatte bhāgaso mite.

302. ... các cỗ xe đã được thắng ngựa thuần chủng, đã khéo được kiến tạo, các tấm thảm may nhiều màu sắc, các chỗ trú ngụ và các ngôi nhà đã được phân chia, đã được đo đạc theo từng phần.

300. Các cỗ xe khéo làm,
Thắng với ngựa thuần thục,
Trang hoàng với tấm thảm,
Nhiều sắc lại nhiều màu.
Các trú xứ phòng ốc,
Khéo chia, khéo ngăn cách.

303. Gomaṇḍalaparibbūḷhaṃ nārīvaragaṇāyutaṃ, uḷāraṃ mānusaṃ bhogaṃ abhijjhāyiṃsu brāhmaṇā.

303. (Giờ đây) các vị Bà-la-môn đã tham lam của cải sung túc của loài người, được vây quanh bởi những bầy gia súc, được kết hợp với những nhóm phụ nữ sang trọng.

301. Ðàn bà mập vây quanh,
Chúng ngưi đẹp hầu hạ,
Bà-la-môn tham đắm,
Tài sản lớn của người.

304. Te tattha mante ganthetvā okkākaṃ tadupāgamuṃ pahūtadhanadhaññosi, yajassu bahu te vittaṃ yajassu bahu te dhanaṃ.

304. Các vị ấy, sau khi đã soạn thảo các chú thuật về việc ấy, rồi đã đi đến gặp vua Okkāka (nói rằng): ‘Ngài có nhiều tài sản và lúa gạo. Ngài hãy cúng tế, sẽ có nhiều của cải cho ngài. Ngài hãy cúng tế, sẽ có nhiều tài sản cho ngài.’

302. Ðọc các bài kệ tụng,
Họ đến Okkàla,
Ngài được tài sản lớn,
Ngài được lúa gạo nhiều.
Hãy thiết lập tế đàn,
Vì tài sản ngài lớn,
Hãy thiết lập tế đàn,
Vì tiền bạc ngài lớn.

305. Tato ca rājā saññatto brāhmaṇehi rathesabho, assamedhaṃ purisamedhaṃ sammāpāsaṃ vājapeyyaṃ niraggalaṃ, ete yāge yajitvāna brāhmaṇānaṃ adā dhanaṃ.

305. Và sau đó, đức vua, vị chúa tể của các xa phu, được các vị Bà-la-môn thuyết phục, đã cúng tế những sự hiến cúng này: lễ tế ngựa, lễ tế người, lễ ném cái nêm, lễ uống rượu thánh, lễ hiệp tế, rồi đã bố thí đến các vị Bà-la-môn tài sản (gồm có):

303. Rồi vua, bậc lãnh tụ,
Vương chủ các xa binh,
Ðược các Bà-la-môn
Nhiếp phục và cảm hóa,
Tổ chức các tế đàn,
Về ngựa và về người,
Quăng con nêm, nước thánh,
Với các cửa then cài.
Lễ tế đàn này xong,
Họ cho các Phạm chí,
Rất nhiều loại tài sản.

306. Gāvo sayanañca vatthañca nāriyo samalaṅkatā, rathe cājaññasaṃyutte sukate cittasibbane.

306. Đàn bò, giường nằm, vải vóc, và những người phụ nữ đã được trang điểm, các cỗ xe đã được thắng ngựa thuần chủng, đã khéo được kiến tạo, các tấm thảm may nhiều màu sắc.

304. Bò, giường nằm, áo mặc,
Nữ nhân trang sức đẹp,
Các cỗ xe khéo làm,
Thắng với ngựa thuần thục,
Trang hoàng với tấm thảm,
Nhiều sắc lại nhiều màu.

307. Nivesanāni rammāni suvibhattāni bhāgaso, nānādhaññassa pūretvā brāhmaṇānaṃ adā dhanaṃ.

307. Sau khi chứa đầy các chỗ trú ngụ xinh xắn đã khéo được phân chia thành từng phần với các loại mễ cốc khác nhau, đức vua đã bố thí tài sản đến các vị Bà-la-môn.

305. Các trú xứ đp đ,
Khéo chia, khéo ngăn cách,
Ðầy các loại lúa gạo,
Họ cho các Phạm chí,
Rất nhiều là tài sản.

308. Te ca tattha dhanaṃ laddhā sannidhiṃ samarocayuṃ, tesaṃ icchāvatiṇṇānaṃ bhiyyo taṇhā pavaḍḍhatha, te tattha manne ganthetvā okkākaṃ punupāgamuṃ.

308. Và các vị ấy, sau khi nhận được tài sản tại nơi ấy, đã vui thích việc tích trữ (của cải). Đối với các vị bị tác động bởi ước muốn, tham ái đã tăng trưởng nhiều hơn đến các vị ấy. Các vị ấy, sau khi soạn thảo các chú thuật về việc ấy, đã đi đến gặp vua Okkāka lần nữa (nói rằng):

306. Ở đây, được tài sản,
Phạm chí thích cất chứa,
Lòng dục chúng thỏa mãn,
Khát ái càng tăng trưởng,
Họ lại đọc kệ tụng,
Họ đến Okkàka.

309. Yathā āpo ca paṭhavī hiraññaṃ dhanadhāniyaṃ, evaṃ gāvo manussānaṃ parikkhāro so hi pāṇinaṃ, yajassu bahu te vittaṃ yajassu bahu te dhanaṃ.

309. ‘Nước và đất, vàng, tài sản và mễ cốc (quan trọng) đối với con người như thế nào, thì bầy bò là như vậy, bởi vì nó là vật cần thiết cho các sinh mạng. Ngài hãy cúng tế, sẽ có nhiều của cải cho ngài. Ngài hãy cúng tế, sẽ có nhiều tài sản cho ngài.’

307. Như nưc, đất và vàng,
Tài sản và lúa gạo,
Cũng vậy là các bò,
Ðối với các loài, người.
Chúng là những vật dụng,
Cần thiết cho hữu tình.
Hãy thiết lập tế đàn,
Vì tài sản ngài lớn,
Hãy thiết lập tế đàn,
Vì tiền bạc ngài lớn?

310. Tato ca rājā saññatto brāhmaṇehi rathesabho, neka satasahassiyo gāvo yaññe aghātayi.

310. Và sau đó, đức vua, vị chúa tể của các xa phu, được các vị Bà-la-môn thuyết phục, đã giết hại hàng trăm ngàn con bò trong lễ cúng tế.

308. Rồi vua, bậc lãnh tụ,
Vương chủ các xa binh,
Ðược các Bà-la-môn,
Nhiếp phục và cảm hóa,
Tổ chức các tế đàn,
Trăm ngàn bò bị giết.

311. Na pādā na visāṇena nāssu hiṃsanti kenaci, gāvo eḷakasamānā soratā kumbhadūhanā, tā visāṇe gahetvāna rājā satthena ghātayi.

311. Không bằng gót chân, không bằng cái sừng, các con bò đã không bao giờ hãm hại (ai) bằng bất cứ vật gì. Chúng hiền hòa giống như loài cừu, cho vắt sữa từng chậu. Sau khi nắm lấy chúng ở cái sừng, đức vua đã giết chúng bằng dao.

309. Không phải với bàn chân,
Cũng không phải với sừng.
Con bò hại một ai,
Chúng được khéo nhiếp phục
Như con dê, con cừu,
Chúng cho nhiều ghè sữa,
Tuy vậy, vua ra lệnh,
Nắm sừng bắt lấy chúng,
Giết chúng bằng dao gươm.

312. Tato ca devā pitaro indo asurarakkhasā, adhammo iti pakkanduṃ yaṃ satthaṃ nipatī gave.

312. Và do đó, chư Thiên, các Phạm Thiên, Thiên Chủ Inda, các A-tu-la, và các quỷ thần đã thét lên: ‘Phi pháp’ về việc cắm xuống con dao ở các con bò.

310. Rồi chư Thiên, Tổ tiên,
Ðế Thích, A-tu-la,
Với các hàng Dạ-xoa,
Ðồng thanh cùng la lớn,
Như vậy là phi pháp,
Khi gươm giết hại bò.

313. Tayo rogā pure āsuṃ icchā anasanaṃ jarā, pasūnañca samārambhā aṭṭhānavutimāgamuṃ.

313. Trước đây đã có ba căn bệnh: ước muốn, thiếu ăn, già nua. Do việc giết hại các con thú, các căn bệnh đã lên đến chín mươi tám loại.

311. Trưc đã có ba bệnh,
Dục, ăn không đủ già,
Do giết hại muôn thú,
Chúng lên đến chín tám.

314. Eso adhammo daṇḍānaṃ okkanto purāṇo ahu, adūsikāyo haññanti dhammā dhaṃsanti yājakā.

314. Trong số các hình phạt, việc phi pháp này đã là cổ xưa được lưu truyền lại. Các loài vô hại bị giết chết, các vị thực hiện lễ tế hủy hoại truyền thống.

312. Trượng phạt phi pháp này,
Từ xưa truyn đến nay,
Vật vô tội bị giết,
Còn người lễ tế đàn,
Thối thất khỏi Chánh pháp,

315. Evameso aṇudhammo porāṇo viññūgarahito, yattha edisakaṃ passati yājakaṃ garahatī jano.

315. Như vậy, truyền thống thấp kém cổ xưa này bị những bậc có sự hiểu biết quở trách. Nơi nào nhìn thấy việc làm như thế người ta đã quở trách vị thực hiện lễ tế.

313. Vậy tùy pháp cổ này,
Bị bậc trí khiển trách,
Chỗ nào lễ tế đàn,
Như vy, được xem thấy,
Quần chúng liền chỉ trích,
Các vị lễ tế đàn.

316. Evaṃ dhamme viyāpanne vibhinnā suddavessikā, puthu vibhinnā khattiyā patiṃ bhariyā ’vamaññatha.

316. Khi truyền thống bị đảo lộn như vậy, các giai cấp Thủ-đà-la và Vệ-xá bị phân chia, các Sát-đế-lỵ bị phân chia riêng rẽ, vợ đã xem thường chồng.

314. Như vậy, pháp bị hoại,
Hạng Thủ-đà, Phệ-xá,
Bị phân ly chia rẽ,
Các hạng Sát-đế-lị
Bị chia năm, chẻ bảy
Còn vợ khinh rẽ chồng.

317. Khattiyā brahmabandhū ca ye caññe gottarakkhitā, jātivādaṃ niraṃkatvā kāmānaṃ vasamanvagunti.

317. Các Sát-đế-lỵ, các thân quyến của Phạm Thiên (Bà-la-môn), và những người khác được bảo vệ bởi dòng họ (Thủ-đà-la và Vệ-xá), đã bỏ bê việc nói đến dòng dõi và đã đi theo sự thống trị của các dục.”

315. Các Sát-lị hoàng tộc,
Các bà con Phạm thiên,
Cùng với hạng người khác,
Ðược gia tộc che chở,
Họ bỏ quên sanh chủng,
Họ rơi vào các dục.

Evaṃ vutte te brāhmaṇamahāsāḷā bhagavantaṃ etadavocuṃ:

Khi được nói như vậy, các vị Bà-la-môn giàu có ấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:

Khi nghe nói vậy, các Bà-la-môn đại phú ấy bạch Thế Tôn;

Abhikkantaṃ bho gotama abhikkantaṃ bho gotama. Seyyathāpi bho gotama, nikkujjitaṃ vā ukkujjeyya, paṭicchannaṃ vā vivareyya, mūḷhassa vā maggaṃ ācikkheyya, andhakāre vā telapajjotaṃ dhāreyya cakkhumanto rūpāni dakkhintīti, evamevaṃ bhotā gotamena anekapariyāyena dhammo pakāsito, ete mayaṃ bhavantaṃ gotamaṃ saraṇaṃ gacchāma dhammañca bhikkhusaṅghañca, upāsake no bhavaṃ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupete saraṇaṃ gate ”ti.

“Thưa Ngài Gotama, thật là tuyệt vời! Thưa Ngài Gotama, thật là tuyệt vời! Thưa Ngài Gotama, cũng giống như người có thể lật ngửa vật đã được úp lại, hoặc mở ra vật đã bị che kín, hoặc chỉ đường cho kẻ lạc lối, hoặc đem lại cây đèn dầu nơi bóng tối (nghĩ rằng): ‘Những người có mắt sẽ nhìn thấy được các hình dáng;’ tương tự như thế Pháp đã được Ngài Gotama giảng rõ bằng nhiều phương tiện. Chúng tôi đây xin đi đến nương nhờ Ngài Gotama, Giáo Pháp, và Tăng Chúng tỳ khưu. Xin Ngài Gotama hãy ghi nhận chúng tôi là những người cư sĩ đã đi đến nương nhờ kể từ hôm nay cho đến trọn đời.”

- Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giảGotama! Thưa Tôn giả Gotama, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, trình bày rõ những gì bị che kín chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, hay đem đèn sáng vào trong bóng tối đễ những ai có mắt có thể nhìn thấy sắc. Cũng vậy, Pháp được Tôn giả Gotama với nhiều pháp môn trình bày giải thích. Chúng con xin quy y Tôn giả Gotama quy y Pháp, quy y chúng Tỷ-kheo. Mong Tôn giả Gotama nhận chúng con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, chúng con trọn đời quy ngưỡng.

Brāhmaṇadhammikasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

Dứt Kinh Truyền Thống Bà-la-môn.

 

II. CULLAVAGGO - TIỂU PHẨM (tiếp theo)

Buddha Jayanti Tripitaka Series (BJTS) - Tạng Sri Lanka - Lời tiếng Việt: (văn xuôi) T khưu Indacanda - Lời tiếng Việt: (văn vần) HT. Thích Minh Châu



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada