5. KINH SŪCILOMA (Ngài Indacanda dịch Việt, văn xuôi, chữ in thường)

5. KINH SŪCILOMA (Ngài Thích Minh Châu dịch Việt, văn vần, chữ in nghiêng)

Evaṃ me sutaṃ: Ekaṃ samayaṃ bhagavā gayāyaṃ viharati ṭaṃkitamañce sūcilomassa yakkhassa bhavane. Tena kho pana samayena kharo ca yakkho sūcilomo ca yakkho bhagavato avidūre atikkamanti.

Tôi đã nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn ngự tại làng Gayā, ở tảng đá Ṭaṃkitamañca, nơi trú ngụ của Dạ-xoa Sūciloma. Vào lúc bấy giờ, Dạ-xoa Khara và Dạ-xoa Sūciloma đi ngang qua ở nơi không xa đức Thế Tôn.

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú tại Gayà, ở Tamkitamanca tại trú xứ của Dạ-xoa Sùciloma. Lúc bấy giờ, Dạ-xoa Khara, Dạ-xoa Sùciloma đi qua Thế Tôn không bao xa.

Atha kho kharo yakkho sūcilomaṃ yakkhaṃ etadavoca: Eso samaṇoti. Neso samaṇo samaṇako eso. Yāva jānāmi yadi vā so samaṇo yadi vā samaṇakoti.

Khi ấy, Dạ-xoa Khara đã nói với Dạ-xoa Sūciloma điều này:

“Người này là Sa-môn.”

“Người này không phải là Sa-môn. Người này là Sa-môn giả. Lát nữa thì ta sẽ biết người ấy là Sa-môn hay Sa-môn giả.”

Dạ-xoa Khara nói với Dạ-xoa Sùciloma: Ðây là Sa-môn. Ðây không phải là Sa-môn. Ðây là Sa-môn hay là Sa-môn giả hiệu.Atha kho sūcilomo yakkho yena bhagavā tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā bhagavato kāyaṃ upanāmesi.
 Sau đó, Dạ-xoa Sūciloma đã đi đến gần đức Thế Tôn, sau khi đến gần đã nghiêng người về phía thân của đức Thế Tôn.

Rồi Dạ-xoa Sùciloma đi đến Thế Tôn, sau khi đến cọ xát thân Thế Tôn.

Atha kho bhagavā kāyaṃ apanāmesi.
Atha kho sūcilomo yakkho bhagavantaṃ etadavoca:

Khi ấy, đức Thế Tôn đã nghiêng thân ra xa.

Sau đó, Dạ-xoa Sūciloma đã nói với đức Thế Tôn điều này:

Thế Tôn tránh né thân của mình, rồi Dạ-xoa Sùciloma nói với Thế Tôn:

Bhāyasi maṃ samaṇāti. Na khvāhantaṃ āvuso bhāyāmi, api ca te samphasso pāpakoti.

“Này Sa-môn, ông sợ ta sao?”  

“Này đạo hữu, Ta quả không sợ ngươi. Tuy nhiên, sự xúc chạm của ngươi là xấu xa.”

- Có phải Sa-môn sợ ta?

- Này Hiền giả, Ta không sợ Ông, nhưng xúc phạm với Ông là ác.

Pañhaṃ taṃ samaṇa pucchissāmi sace me na vyākarissasi cittaṃ vā te khipissāmi hadayaṃ vā te phālessāmi pādesu vā gahetvā pāragaṅgāya khipissāmīti.

“Này Sa-môn, ta sẽ hỏi ông câu hỏi. Nếu ông không trả lời ta, thì ta sẽ khuấy động tâm của ông, hoặc ta sẽ chẻ đôi trái tim của ông, hoặc ta sẽ nắm ở hai bàn chân rồi ném qua bên kia sông Gaṅgā.”

- Này Sa-môn, ta sẽ hỏi Ngài, nếu Ngài không trả lời cho ta, ta sẽ làm cho tâm Ngài điên loạn, hay bóp nát quả tim của Ngài, hay nắm chân của Ngài, ta sẽ quăng qua bờ bên kia sông Hằng.

Na khvāhaṃ taṃ āvuso passāmi, sadevāke loke samārake sabrahmake sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya yo me cittaṃ vā khipeyya hadayaṃ vā phāleyya pādesu vā gahetvā pāragaṅgāya khipeyya, api ca tvaṃ āvuso puccha yadākaṅkhasīti.

“Này đạo hữu, Ta quả không nhìn thấy người nào trong thế gian tính luôn cõi của chư Thiên, cõi Ma Vương, cõi Phạm Thiên, cho đến dòng dõi Sa-môn, Bà-la-môn, các hạng chư Thiên và loài người, có thể khuấy động tâm của Ta, hoặc có thể chẻ đôi trái tim của Ta, hoặc có thể nắm ở hai bàn chân rồi ném qua bên kia sông Gaṅgā. Này đạo hữu, tuy vậy ngươi hãy hỏi điều mà ngươi muốn.”

- Này Hiền giả, Ta không thấy một ai trong thế giới chư Thiên, với chư Thiên, Ác ma và Phạm Thiên, trong quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn với chư Thiên và loài Người, lại có thể làm cho tâm Ta điên loạn hay bóp nát quả tim của Ta, hay nắm chân của Ta, sẽ quăng Ta qua bờ bên kia sông Hằng. Tuy vậy, này Hiền giả, Ông cứ hỏi Ta như ý Ông muốn.

Atha kho sūciloma yakkho bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi:

Khi ấy, Dạ-xoa Sūciloma đã nói với đức Thế Tôn bằng lời kệ rằng:

Rồi Dạ-xoa Sùciloma với câu kệ nói với Thế Tôn:

272. Rāgo ca doso ca kutonidānā aratī ratī lomahaṃso kutojā, kuto samuṭṭhāya mano vitakkā kumārakā dhaṅkam ivossajanti.

272. “Luyến ái và sân hận có căn nguyên từ đâu? Ghét, thương, sự rởn lông (vì sợ hãi) sanh ra từ đâu? Phát khởi từ nơi nào, các suy tầm (về dục) khuấy rối tâm, tựa như những bé trai tung lên con quạ (đã bị cột chân bởi sợi chỉ dài)?” 

Sùciloma:

270. Từ những nguyên nhân nào,
Tham và sân khởi lên?
Không ưa thích, ưa thích,
Sợ hãi từ đâu sanh?
Từ đâu được sanh khởi,
Các suy tầm của ý,
Như đứa trẻ độc ác,
Thả cho con quạ bay?

273. Rāgo ca doso ca itonidānā aratī ratī lomahaṃso itojā, ito samuṭṭhāya mano vitakkā kumārakā dhaṅkam1ivossajanti.

273. “Luyến ái và sân hận có căn nguyên từ nơi (bản ngã) này. Ghét, thương, sự rởn lông (vì sợ hãi) sanh ra từ nơi (bản ngã) này. Phát khởi từ nơi (bản ngã) này, các suy tầm (về dục) khuấy rối tâm, tựa như những bé trai thả lỏng con quạ (đã bị cột chân bởi sợi chỉ dài).

Thế Tôn:

271. Từ những nguyên nhân này,
Tham, sân được khởi lên,
Không ưa thích, ưa thích,
Sợ hãi từ đây sanh,
Từ đây được sanh khởi,
Các suy tầm của ý,
Như đứa trẻ độc ác,
Thả cho con quạ bay.

274. Snehajā attasambhūtā nigrodhasseva khandhajā, puthu visattā kāmesu māluvā ’va vitatā vane.

274. Chúng sanh ra từ sự thương yêu, được hình thành ở bản ngã, tựa như việc sanh ra từ thân của giống cây nigrodha. Chúng nhiều vô số, bị vướng mắc vào các dục, tựa như loài dây leo lan rộng ở khu rừng.

272. Sự hiện hữu của ngã,
Chính do thân ái sanh,
Như các loại cây bàng,
Do thân cây bàng sanh.
Sự triền phược các dục,
Thật rộng lớn vô cùng,
Như cây Màluvà,
Tỏa rộng lan khắp rừng.

275. Ye naṃ pajānanti yato nidānaṃ te naṃ vinodenti suṇohi yakkha, te duttaraṃ oghamimaṃ taranti atiṇṇapubbaṃ apunabbhavāyāti.

275. Những ai nhận biết điều ấy có căn nguyên từ đâu, những vị ấy xua đuổi nó, này Dạ-xoa, ngươi hãy lắng nghe, những vị ấy vượt qua dòng lũ này, (dòng lũ) khó vượt qua được, chưa được vượt qua trước đây, để không còn hiện hữu lại nữa.”

273. Hãy nghe! Này Dạ-xoa,
Những ai được rõ biết
Từ đâu, khiến sanh khởi,
Họ tẩy sạch nhân ấy.
Họ vượt qua dòng nước,
Chảy mạnh khổ vượt này,
Trưc chưa đưc vượt qua,
Không còn có tái sanh.

Sūcilomasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

Dứt Kinh Sūciloma. 



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada