4. KINH ĐIỀM LÀNH (Ngài Indacanda dịch Việt, văn xuôi, chữ in thường)

4. KINH ĐIỀM LÀNH LỚN (KINH ĐẠI HẠNH PHÚC) (Ngài Thích Minh Châu dịch Việt, văn vần, chữ in nghiêng)

Evaṃ me sutaṃ: Ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Atha kho aññatarā devatā abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇā kevalakappaṃ jetavanaṃ obhāsetvā yena bhagavā tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhitā kho sā devatā bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi.

Tôi đã nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn ngự tại Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Khi ấy, lúc đêm đã khuya, một vị Thiên nhân nọ với màu sắc vượt trội đã làm cho toàn bộ Jetavana rực sáng rồi đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng ở một bên. Đứng ở một bên, vị Thiên nhân ấy đã bạch với đức Thế Tôn bằng lời kệ rằng:

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú tại Sàvatthi, ở Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Rồi một Thiên nhân, khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Ðứng một bên, vị Thiên nhân ấy với bài kệ bạch Thế Tôn:

260. Bahū devā manussā ca maṅgalāni acintayuṃ, ākaṅkhamānā sotthānaṃ brūhi maṅgalamuttamaṃ.

260. “Nhiều chư Thiên và nhân loại, trong khi mong mỏi các điều hưng thịnh, đã suy nghĩ về các điềm lành, xin Ngài hãy nói về điềm lành tối thượng.”

Thiên nhân:

258. Nhiều Thiên nhân và Người,
Suy nghĩ đến điềm lành,
Mong ưc và đợi chờ,
Một nếp sống an toàn,
Xin Ngài hãy nói lên
Về điềm lành tối thượng.

261. Asevanā ca bālānaṃ paṇḍitānañca sevanā, pūjā ca pūjanīyānaṃ etaṃ maṅgalamuttamaṃ.

261. “Không thân cận những kẻ ác, thân cận các bậc sáng suốt, và cúng dường các bậc xứng đáng cúng dường, điều này là điềm lành tối thượng.

Thế Tôn:

259. Không thân cận kẻ ngu,
Nhưng gần gũi bậc trí,
Ðảnh lễ ngưi đáng l
Là điềm lành tối thượng.

262. Patirūpadesavāso ca pubbe ca katapuññatā, attasammāpaṇidhi ca etaṃ maṅgalamuttamaṃ.

262. Cư ngụ ở địa phương thích hợp, tính cách đã làm việc phước thiện trong quá khứ, và quyết định đúng đắn cho bản thân, điều này là điềm lành tối thượng.

260. Ở trú xứ thích hợp,
Công đc trưc đã làm,
Chân chánh ớng tụ tâm,
Là điều lành tối thượng.

263. Bāhusaccañca sippañca vinayo ca susikkhito, subhāsitā ca yā vācā etaṃ maṅgalamuttamaṃ.

263. Kiến thức rộng và (giỏi) nghề thủ công, việc rèn luyện khéo được học tập, và lời nói được khéo nói, điều này là điềm lành tối thượng.

261. Học nhiều, nghề nghiệp giỏi,
Khéo huấn luyện học tập,
Nói những lời khéo nói
Là điềm lành tối thượng.

264. Mātāpitū upaṭṭhānaṃ puttadārassa saṅgaho, anākulā ca kammantā etaṃ maṅgalamuttamaṃ.

264. Phụng dưỡng mẹ và cha, cấp dưỡng các con và vợ, các nghề nghiệp không có xung đột (thuần là công việc), điều này là điềm lành tối thượng.

262. Hiếu dưỡng mẹ và cha,
Nuôi dưỡng vợ và con,
Làm nghề không rắc rối
Là điềm lành tối thượng.

265. Dānañca dhammacariyā ca ñātakānañca saṅgaho, anavajjāni kammāni etaṃ maṅgalamuttamaṃ.

265. Bố thí và thực hành Giáo Pháp, trợ giúp các thân quyến, những việc làm không bị chê trách, điều này là điềm lành tối thượng.

263. Bố thí, hành đúng pháp,
Săn sóc các bà con,
Làm nghiệp không lỗi lầm
Là điềm lành tối thượng.

266. Ārati virati pāpā majjapānā ca saññamo,
appamādo ca dhammesu etaṃ maṅgalamuttamaṃ.

266. Sự kiêng cữ, xa lánh điều ác, tự chế ngự trong việc uống các chất say, và không xao lãng trong các (thiện) pháp, điều này là điềm lành tối thượng.

264. Chấm dứt, từ bỏ ác,
Chế ngự đam mê rượu,
Trong pháp, không phóng dật
Là điềm lành tối thượng.

267. Gāravo ca nivāto ca santuṭṭhi ca kataññutā, kālena dhammasavaṇaṃ etaṃ maṅgalamuttamaṃ.

267. Sự cung kính, khiêm nhường, tự biết đủ, và biết ơn, sự lắng nghe Giáo Pháp vào đúng thời điểm, điều này là điềm lành tối thượng.

265. Kính lễ và hạ mình,
Biết đủ và biết ơn,
Ðúng thời, nghe Chánh pháp
Là điềm lành tối thượng.

268. Khantī ca sovacassatā samaṇānañca dassanaṃ, kālena dhammasākacchā etaṃ maṅgalamuttamaṃ.

268. Sự nhẫn nại, trạng thái người dễ dạy, và việc yết kiến các bậc Sa-môn, sự bàn luận Giáo Pháp lúc hợp thời, điều này là điềm lành tối thượng.

266. Nhẫn nhục, lời hòa nhã,
Yết kiến các Sa-môn,
Ðúng thời, đàm luận pháp,
Là điềm lành tối thượng.

269. Tapo ca brahmacariyañca ariyasaccānadassanaṃ, nibbānasacchikiriyā ca etaṃ maṅgalamuttamaṃ.

269. Sự khắc khổ, và thực hành Phạm hạnh, sự nhận thức các Chân Lý Cao Thượng, và việc chứng ngộ Niết Bàn, điều này là điềm lành tối thượng.

267. Khắc khổ và Phạm hạnh,
Thấy đưc lý Thánh đế,
Giác ngộ quả Niết bàn
Là điềm lành tối thượng.

270. Phuṭṭhassa lokadhammehi cittaṃ yassa na kampati, asokaṃ virajaṃ khemaṃ etaṃ maṅgalamuttamaṃ.

270. Tâm không dao động khi tiếp xúc với các pháp thế gian, không sầu muộn, có sự xa lìa bợn nhơ, được an ổn, điều này là điềm lành tối thượng.

268. Khi xúc chạm việc đời,
Tâm không động, không sầu,
Không uế nhiễm, an ổn
Là điềm lành tối thượng.

271. Etādisāni katvāna sabbatthamaparājitā, sabbattha sotthiṃ gacchanti taṃ tesaṃ maṅgalamuttaman ”ti. 

271. (Những người) đã thực hành những điều như thế này thì không bị thất bại ở mọi nơi, đi đến mọi nơi một cách hưng thịnh; đối với họ (những) điều ấy là điềm lành tối thượng.”

269. Làm sự việc như vậy,
Không chỗ nào thất bại,
Khắp nơi được an toàn,
Là điềm lành tối thượng.

Maṅgalasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

Dứt Kinh Điềm Lành.

 



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada