2. KINH MÙI TANH HÔI (Ngài Indacanda dịch Việt, văn xuôi, chữ in thường)

2. KINH HÔI THỐI (Ngài Thích Minh Châu dịch Việt, văn vần, chữ in nghiêng)

241. Sāmākaciṅguḷaka cīnakāni ca pattapphalaṃ mūlapphalaṃ gavipphalaṃ, dhammena laddhaṃ satamasnamānā na kāmakāmā alikaṃ bhaṇanti.

241. “Các bậc đức hạnh, trong khi ăn các loại hạt kê, hạt cỏ, đậu núi, lá cây, rễ củ, trái cây đã nhận được đúng pháp, các vị không vì ham muốn ngũ dục mà nói điều dối trá.

Bà-la-môn:

239. Các bậc Thiện chơn chánh,
Ăn hạt giống cây thuốc,
Ăn đu đũa, đậu rừng,
Ăn lá, ăn rễ cây,
Ăn trái các dây leo,
Nhận được thật đúng pháp.
Vị ấy không nói láo,
Vì các dục thúc đẩy.

242. Yadasnamāno sukataṃ suniṭṭhitaṃ parehi dinnaṃ payataṃ paṇītaṃ, sālīnamannaṃ paribhuñjamāno
so bhuñjatī kassapa āmagandhaṃ.

242. Còn kẻ nào, trong khi ăn vật thực hảo hạng được khéo làm, được khéo sửa soạn, được bố thí, được dâng hiến bởi những người khác, trong khi thọ dụng cơm nấu bằng gạo sālī, thưa Ngài Kassapa, kẻ ấy thọ thực vật có mùi tanh hôi.

240. Ôi ngài Kassapa,
Ai ăn các món ăn,
Do người khác bố thí,
Khéo làm, khéo chưng dọn,
Trong sạch và thù thắng;
Ăn lúa go thơm ngon.
Ai ăn ung như vậy
Là ăn thịt hôi thối.

243. Na āmagandho mama kappatīti icceva tvaṃ bhāsasi brahmabandhu, sālīnamannaṃ paribhuñjamāno
sakuntamaṃsehi susaṃkhatehi, pucchāmi taṃ kassapa etamatthaṃ kathaṃpakāro tava āmagandho.

243. ‘Vật có mùi tanh hôi không được phép đối với Ta,’
Ngài nói y như thế, thưa đấng quyến thuộc của Phạm Thiên, trong khi Ngài thọ dụng cơm nấu bằng gạo sālī
với các miếng thịt chim khéo được nấu nướng.
Thưa Ngài Kassapa, tôi hỏi Ngài ý nghĩa này,
đối với Ngài kiểu cách như thế nào là có mùi tanh hôi?”

241. Này bà con Phạm thiên,
Chính Ngài tuyên bố rằng:
Ta không ăn đồ thối,
Ðể nuôi sống thân Ta.
Nhưng Ngài ăn món ăn
Bằng lúa gạo thơm ngon,
Ăn thịt các loài chim,
Nấu ăn thật khéo léo
Ta hỏi Kassapa:
Ý nghĩa sự kiện này,
Ngài định nghĩa thế nào,
Là ăn đồ hôi thối?

244. Pāṇātipāto vadhachedabandhanaṃ theyyaṃ musāvādo nikatī vañcanāni, ajjhenakujjhaṃ paradārasevanā
esāmagandho na hi maṃsabhojanaṃ.

244. “Việc giết hại mạng sống, hành hạ, chặt chém, trói giam, trộm cướp, nói dối, gian lận, các sự lường gạt, làm ra vẻ học thức, ve vãn vợ người khác, việc ấy là có mùi tanh hôi, chẳng phải thức ăn thịt.

Ðức Phật Kassapa:

242. Sát sanh và hành hình,
Ðả thương và bắt trói,
Trộm cắp và nói láo,
Man trá và lừa đảo,
Giả bộ kẻ học thức,
Ði lại với vợ người,
Ðây là đ ăn thối,
Ăn thịt không phải thối.

245. Ye idha kāmesu asaññatā janā rasesu giddhā asucīkamissitā, natthikadiṭṭhi visamā durannayā esāmagandho na hi maṃsabhojanaṃ.

245. Ở đây, những kẻ nào không tự kiềm chế trong các dục, thèm khát ở các vị nếm, xen lẫn với sự (nuôi mạng) không trong sạch, theo tà kiến ‘không có gì hiện hữu,’ sái quấy, khó chỉ bảo, việc ấy là có mùi tanh hôi, chẳng phải việc ăn thịt

243. Ở đời, các hạng người,
Không chế ngự lòng dục,
Ðam mê các vị ngon,
Liên hệ đến bất tịnh,
Theo chủ nghĩa hư vô,
Bất chánh khó hướng dẫn,
Ðây là ăn đồ thối,
Ăn thịt không phải thối.

246. Ye lūkhasā dāruṇā piṭṭhimaṃsikā, mittadduno nikkaruṇātimānino, adānasīlā na ca denti kassaci esāmagandho na hi maṃsabhojanaṃ.

246. Những kẻ nào thô lỗ, bạo tàn, nói xấu sau lưng, hãm hại bạn bè, nhẫn tâm, ngã mạn thái quá, có bản tánh keo kiệt và không bố thí đến bất cứ ai, việc ấy là có mùi tanh hôi, chẳng phải việc ăn thịt.

244. Ai thô bạo, dã man,
Sau lưng nói gièm pha,
Phản bạn không từ bi,
Lại cống cao ngạo mạn,
Tánh không có bố thí,
Không cho ai vật gì,
Ðây là ăn đồ thối,
Ăn thịt không phải thối.

247. Kodho mado thambho paccuṭṭhāpanā ca māyā usūyā bhassasamussayo ca, mānātimāno ca asabbhi santhavo esāmagandho na hi maṃsayojanaṃ.

247. Giận dữ, đam mê, bướng bỉnh, và đối địch, xảo trá, ganh ghét, và nói khoác lác, ngã mạn, kiêu căng, và thân thiết với những kẻ không tốt, việc ấy là có mùi tanh hôi, chẳng phải việc ăn thịt.

245. Phẫn nộ và kiêu mạn,
Cứng đầu và chống đối
Man trá và tật đ,
Nói vô ích, huênh hoang,
Kiêu mạn và quá mạn,
Thân mật với kẻ ác,
Ðây là ăn đồ thối,
Ăn thịt không phải thối,

248. Ye pāpasīlā iṇaghātasūcakā vohārakūṭā idha pāṭirūpikā, narādhamā ye ’dha karonti kibbisaṃ esāmagandho na hi maṃsabhojanaṃ.

248. Những kẻ nào có hành vi ác độc, quỵt nợ, vu khống, gian lận trong giao dịch, những kẻ giả mạo trong giáo pháp, những kẻ đê tiện làm điều sái quấy ở thế gian này, việc ấy là có mùi tanh hôi, chẳng phải việc ăn thịt.

246. Ác giói, nợ không trả,
Làm ngưi điểm chỉ viên,
Làm những nghề dối trá,
 đây, kẻ giả vờ,
 đây người bần tiện,
Những người làm ác nghiệp,
Ðây là ăn đồ thối,
Ăn thịt không phải thối.

249. Ye idha pāṇesu asaññatā janā paresamādāya vihesamuyyutā, dussīlaluddā pharusā anādarā esāmagandho na hi maṃsabhojanaṃ.
 

249. Những kẻ nào ở đời này không tự kiềm chế đối với các sinh mạng, sau khi đoạt lấy vật sở hữu của những người khác còn ra sức hãm hại, có bản tánh tồi tệ, tàn bạo, thô lỗ, không có sự tôn trọng, việc ấy là có mùi tanh hôi, chẳng phải việc ăn thịt.

247. Ở đi đối hữu tình,
Người không biết kiềm chế,
Lấy cướp sở hữu người,
Chú tâm làm hại người,
Ác giới và tàn nhẫn
Ác ngữ, thiếu lễ đ,
Ðây là ăn đồ thối,
Ăn thịt không phải thối,

250. Etesu giddhā viruddhātipātino niccuyyutā pecca tamaṃ vajanti ye, patanti sattā nirayaṃ avaṃsirā esāmagandho na hi maṃsabhojanaṃ.

250. Những kẻ nào thèm khát ở những mạng sống này rồi chống đối, giết hại, thường xuyên ra sức (làm ác), sau khi chết đi về nơi tăm tối, là các chúng sanh rơi vào địa ngục, đầu đi xuống trước, việc ấy là có mùi tanh hôi, chẳng phải việc ăn thịt.

248. Hạng tham ô, thù nghịch,
Tìm cách để giết hại,
Luôn luôn hướng về ác,
Sau chết sanh tối tăm,
Chúng sanh ấy rơi vào,
Ðịa ngục đầu xuống trước.
Ðây là ăn đồ thối,
Ăn thịt không phải thối,

251. Na macchamaṃsaṃ nānāsakattaṃ na naggiyaṃ na muṇḍiyaṃ jaṭājallaṃ, kharājināni nāggihuttassūpasevanā vā ye vāpi loke amarā bahū tapā, mant ’āhutī yaññamutūpavesanā sodhenti maccaṃ avitiṇṇakaṅkhaṃ.

251. Không phải cá và thịt, không phải việc nhịn ăn, không phải việc lõa thể, không phải cái đầu cạo, tóc bện và cáu đất, các y da dê thô cứng, hoặc không phải việc thờ phượng cúng tế ngọn lửa, hoặc thậm chí vô số sự khổ hạnh cho việc bất tử ở thế gian, các chú thuật, các đồ hiến cúng, sự hy sinh, các việc hành xác rửa tội theo mùa tiết, mà (có thể) làm trong sạch con người còn chưa vượt qua sự nghi hoặc.

249. Không phải do cá thịt,
Cùng các loại nhịn ăn,
Không phải do lõa thể,
Ðầu trọc và bện tóc,
Không do tro trét mình,
Mặc da thú khô cứng,
Không phải do săn sóc,
Nuôi dưỡng lửa tế tự,
Không do nhiều khổ hạnh,
Ðể được chứng bất tử,
Không bùa chú tế tự,
Các tế đàn thời tiết,
Làm con người trong sạch,
Nếu nghi hoặc chưa đoạn.

252. Sotesu gutto viditindriyo care dhamme ṭhito ajjavamaddave rato, saṅgātigo sabbadukkhappahīno na lippatī diṭṭhasutesu dhīro.

252. Vị đã bảo vệ ở các dòng chảy (giác quan), có (sáu) căn đã được nhận biết, nên sống vững vàng ở Giáo Pháp, thích thú ở sự ngay thẳng và mềm mỏng, đã vượt qua sự quyến luyến, đã dứt bỏ tất cả khổ đau, bậc sáng trí không bị lấm lem bởi các điều đã được thấy hoặc đã được nghe.”

250. Do sống hộ trì căn,
Với các căn nhiếp phục,
Vững trú trên Chánh pháp,
Thích chân trực, hiền hòa,
ợt khỏi các tham ái,
Ðoạn tận mọi khổ đâu,
Bậc trí không nhiễm dính,
Ðiều được thấy, được nghe.

253. Iccetamatthaṃ bhagavā punappunaṃ akkhāsi naṃ vedayi mantapāragū, citrāhi gāthāhi munī pakāsayī nirāmagandho asito durannayo.

253. Đức Thế Tôn đã nói lập đi lập lại ý nghĩa này như thế, vị tinh thông chú thuật đã hiểu được điều ấy. Bậc Hiền Trí, không có mùi tanh hôi, không bị lệ thuộc, khó bị lôi kéo, đã giảng giải bằng các kệ ngôn đa dạng.

251. Nhiều lần, Thế Tôn thuyết,
Ý nghĩa lời dạy này,
Bậc bác học kệ chú,
Thâm hiểu ý nghĩa ấy.
Bậc ẩn sĩ nói lên,
Với những kệ tuyệt diệu,
Bậc không ăn đồ thối,
Ðộc lập, khó hướng dẫn.

254. Sutvāna buddhassa subhāsitaṃ padaṃ nirāmagandhaṃ sabbadukkhappanūdanaṃ,
nīcamano vandi tathāgatassa tattheva pabbajjamarocayitthāti.

254. Sau khi lắng nghe lời nói không có mùi tanh hôi, có sự xua đi tất cả sự khổ đau, đã khéo được nói lên của đức Phật, (vị đạo sĩ khổ hạnh) với tâm ý khiêm nhượng đã đảnh lễ đấng Như Lai, rồi ngay tại nơi ấy đã tuyên bố việc xuất gia.

252. Nghe xong những lời dạy,
Lời Thế Tôn khéo nói,
Chấm dứt ăn đồ thối,
Ðoạn tận mọi khổ đau,
Vị ấy đảnh lễ Phật,
Với tâm ý nhún nhường,
Thỉnh cầu được cho pháp,
Xuất gia tại nơi đây.

Āmagandhasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

Dứt Kinh Mùi Tanh Hôi.

 



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada