1125. Jiṇṇohamasmi abalo vītavaṇṇo (iccāyasmā piṅgiyo) nettā na suddhā savanaṃ na phāsu, māhaṃ nassaṃ momuho antarāva ācikkha dhammaṃ yamahaṃ vijaññaṃ jātijarāya idha vippahānaṃ.

1125. (Tôn giả Piṅgiya nói:) “Tôi đã già, yếu sức, không còn vẻ đẹp, cặp mắt không còn trong sáng, việc nghe không thoải mái, mong rằng tôi chớ mệnh chung ngay trong lúc mê muội. Xin ngài hãy chỉ bảo về Giáo Pháp để tôi có thể nhận thức sự lìa bỏ đối với sanh và già ở nơi đây.”

1125. Tôn giả Pin-gi-ya:
Con đã già, yếu đuối,
Không còn có dung sắc,
Mắt không thấy rõ ràng,
Tai không nghe thông suốt,
Ðể con khỏi mệnh chung,
Với tâm tư si ám,
Mong Ngài nói Chánh pháp,
Nhờ rõ biết pháp ấy,
Chính tại ở đời này,
Con đoạn tận sanh già.

1126. Disvāna rūpesu vihaññamāne (piṅgiyāti bhagavā) rūppanti rūpesu janā pamattā, tasmā tuvaṃ piṅgiya appamatto jahassu rūpaṃ apunabbhavāya.

1126. (Đức Thế Tôn nói: “Này Piṅgiya,) sau khi nhìn thấy những người bị sầu khổ ở các sắc, các hạng người xao lãng bị khổ sở ở các sắc, này Piṅgiya, vì thế, (là người) không xao lãng, ngươi hãy từ bỏ sắc để không còn hiện hữu lại nữa.”

1126. Thế Tôn đáp lại rằng:
Hỡi này Pin-gi-ya,
Thấy được sự tác hại,
Trong các loại sắc pháp,
Chúng sanh sống phóng dật,
Bị phiền lụy trong sắc,
Do vậy, Pin-gi-ya,
Ông chớ có phóng dật,
Hãy từ bỏ sắc pháp
Chớ đi đến tái sanh.

1127. Disā catasso vidisā catasso uddhaṃ adho dasadisā imāyo na tuyhaṃ adiṭṭhaṃ asutaṃ ’mutaṃ vā, atho aviññāṇaṃ kiñci na matthi loke ācikkha dhammaṃ yamahaṃ vijaññaṃ jāti jarāya idha vippahānaṃ.

1127. “Bốn hướng chính, bốn hướng phụ, bên trên, bên dưới, đây là mười phương. Đối với ngài, không có điều gì ở thế gian là không được thấy, không được nghe, không được cảm giác, và không được nhận thức (bởi ngài). Xin ngài hãy chỉ bảo về Giáo Pháp để tôi có thể nhận thức sự lìa bỏ đối với sanh và già ở nơi đây.”

1127. Bốn phương chính, bốn phụ,
Cộng thêm trên và dưới,
Như vy có mưi phương,
Và trong thế giới này,
Không có sự việc gì,
Mà Ngài không được thấy,
Không nghe, không nghĩ đến,
Và không được thức tri,
Hãy nói đến Chánh pháp,
Nhờ rõ biết pháp này,
Con ngay tại đời này,
Ðoạn tận được sanh già.

1128. Taṇhādhipanne manuje pekkhamāno (piṅgiyāti bhagavā) santā pajā te jarasā parete, tasmā tuvaṃ piṅgiya appamatto jahassu taṇhaṃ apunabbhavāyāti.

1128. (Đức Thế Tôn nói: “Này Piṅgiya,) trong khi nhìn xem những người theo đuổi tham ái bị chế ngự bởi sự già, những con người ấy bị mệt mỏi, này Piṅgiya, vì thế, (là người) không xao lãng, ngươi hãy từ bỏ tham ái để không còn hiện hữu lại nữa.”

1128. Thế Tôn nói như sau:
Hỡi này Pin-gi-ya!
Thấy chúng sanh loài Người,
Rơi vào trong khát ái,
Bị già nua đốt cháy,
Bị già nua chinh phục
Do vậy, Pin-gi-ya,
Ông chớ có phóng dật
Hãy từ bỏ khát ái,
Không còn bị tái sanh.

Piṅgiyasuttaṃ soḷasamaṃ 

Kinh Piṅgiya là thứ mười sáu. 

 



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada