13. KINH UDAYA (Ngài Indacanda dịch Việt, văn xuôi, viết thường)

13. KINH UDAYA(Ngài Thích Minh Châu dịch Việt, văn vần, in nghiêng)

XIV. CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN UDAYA

1110. Jhāyiṃ virajamāsīnaṃ (iccāyasmā udayo) katakiccaṃ anāsavaṃ pāraguṃ sabbadhammānaṃ atthi pañhena āgamaṃ, aññāvimokkhaṃ pabrūhi avijjāya pabhedanaṃ.

1110. (Tôn giả Udaya nói:) “Với ý định (hỏi) câu hỏi, tôi đã đi đến bậc có thiền chứng, không còn ô nhiễm, đã làm xong phận sự, không còn lậu hoặc, đã đi đến bờ kia của tất cả các pháp, xin ngài hãy nói về sự giải thoát do trí giác ngộ, về sự phá vỡ vô minh.

1110. Tôn giả U-da-ya:
Con đến với câu hỏi,
Về tất cả mọi pháp,
Ðể hỏi bậc tu thiền,
Bậc an tọa không bụi;
Trách nhiệm đã làm xong,
Bậc không có lậu hoặc,
Ðã đạt bờ bên kia,
Hãy nói trí giải thoát
Ðể phá hoại vô minh.

1111. Pahānaṃ kāmacchandānaṃ (udayāti bhagavā) domanassānaṃ cūbhayaṃ, thīnassa ca panūdanaṃ kukkuccānaṃ nivāraṇaṃ.

1111. (Đức Thế Tôn nói: “Này Udaya,) sự dứt bỏ đối với lòng mong muốn ngũ dục và nỗi ưu phiền, cả hai loại, sự xua đi dã dượi, và sự chế ngự các trạng thái hối hận.

1111. Ðây lời Thế Tôn nói:
Hỡi này U-đa-ya,
Ðoạn ước muốn, dục vọng,
Và cả hai loại ưu,
Và trừ bỏ hôn trầm,
Ngăn chận mọi hối hận.

1112. Upekhāsatisaṃsuddhaṃ dhammatakkapurejavaṃ, aññāvimokkhaṃ pabrūmi avijjāya pabhedanaṃ.

1112. Ta nói về sự giải thoát do trí giác ngộ, về sự phá vỡ vô minh có xả và niệm đã được thanh tịnh, có sự suy tầm đúng pháp đi trước.”1

1112. Ta nói trí giải thoát,
Ðể phá hoại vô minh,
Thanh tịnh nhờ xả niệm,
Suy tư pháp đi trước.

1113. Kiṃsu saṃyojano loko (iccāyasmā udayo) kiṃsu tassa vicāraṇā, kissassa vippahānena nibbānamiti vuccati.

1113. (Tôn giả Udaya nói:) “Thế gian có cái gì là sự ràng buộc? Cái gì là phương tiện xét đoán của nó? Do lìa bỏ cái gì được gọi là ‘Niết Bàn’?”

1113. Ðời cái gì trói buộc,
Cái gì, đời vận hành?
Do đon được cái gì,
Ðược gọi là Niết-bàn?

1114. Nandisaṃyojano loko (udayāti bhagavā) vitakkassa vicāraṇā, taṇhāya vippahānena nibbānamiti vuccati.

1114. (Đức Thế Tôn nói: “Này Udaya,) thế gian có vui thích là sự ràng buộc? Suy tầm là phương tiện xét đoán của nó. Do lìa bỏ tham ái được gọi là ‘Niết Bàn.’”

1114. Ðời bị hỷ trói buộc,
Suy tầm là sở hành,
Do đon được khát ái,
Ðược gọi là Niết-bàn.

1115. Kathaṃ satassa carato (iccāyasmā udayaṃ) viññāṇaṃ uparujjhati, bhagavantaṃ puṭṭhumāgamma taṃ suṇoma vaco tava.

1115. (Tôn giả Udaya nói:) “Đối với vị đang thực hành niệm, thức (của vị ấy) được hoại diệt như thế nào? Chúng tôi đã đi đến để hỏi đức Thế Tôn, hãy cho chúng tôi nghe lời nói của ngài.”

1115. Người sở hành chánh niệm,
Thức được diệt thế nào?
Con đến hỏi Thế Tôn,
Nghe lời Thế Tôn nói.

1116. Ajjhattañca bahiddhā ca vedanaṃ nābhinandito, evaṃ satassa carato viññāṇaṃ uparujjhatīti.

1116. “Đối với vị không thích thú cảm thọ ở nội phần và ngoại phần, đối với vị đang thực hành niệm như vậy, thức (của vị ấy) được hoại diệt.”

1116. Ai không có hoan hỷ,
Với nội và ngoại thọ,
Sở hành chánh niệm vậy,
Thức đt được hoại diệt.

Udayasuttaṃ terasamaṃ.

Kinh Udaya là thứ mười ba.

 

 

 

 

 



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada