12. KINH BHADRĀVUDHA (Ngài Indacanda dịch Việt, văn xuôi, viết thường)

12. KINH BHADRĀVUDHA (Ngài Thích Minh Châu dịch Việt, văn vần, in nghiêng)

XIII. CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN BHADRĀVUDHA

1106. Okaṃ jahaṃ taṇhacchidaṃ anejaṃ (iccāyasmā bhadrāvudho) nandiṃ jahaṃ oghatiṇṇaṃ vimuttaṃ, kappaṃ jahaṃ abhiyāce sumedhaṃ sutvāna nāgassa apanamissanti ito.

1106. (Tôn giả Bhadrāvudha nói:) “Tôi khẩn cầu bậc khôn ngoan, bậc từ bỏ chỗ trú ngụ, bậc cắt đứt tham ái, bậc không còn dục vọng, bậc từ bỏ thú vui, bậc đã vượt qua dòng lũ, bậc đã được giải thoát, bậc từ bỏ sự sắp đặt (do tham ái và tà kiến). Sau khi lắng nghe (lời nói) của bậc Long Tượng, từ đây họ sẽ ra đi.

1106. Bha-đra-vu-đa nói:
Con có lời yêu cầu,
Bậc Thiện Tuệ nói lên,
Bậc bỏ nhà, đoạn ái,
Bất động, bỏ hỷ ái,
Giải thoát, vượt bộc lưu,
Thời gian, không chi phối,
Nghe xong, bậc Long tượng,
Từ đây, h ra đi.

1107. Nānā janā janapadehi saṅgatā tava vīra vākyaṃ abhikaṅkhamānā, tesaṃ tuvaṃ sādhu viyākarohi tathā hi te vidito esa dhammo.

1107. Thưa bậc anh hùng, vô số người từ các xứ sở đã tụ hội lại, mong muốn lời nói của ngài. Xin ngài hãy khéo léo giải thích cho họ, bởi vì pháp này đã được ngài biết đúng theo bản thể.”

1107. Quần chúng sai biệt ấy,
Từ quốc độ tụ họp,
Họ ao ước khát vọng,
Ðược nghe lời của Ngài,
Ôi anh hùng chiến thắng,
Ngài hãy khéo trả lời,
Pháp Ngài dạy thế này,
Như vậy họ hiểu biết.

1108. Ādānataṇhaṃ vinayetha sabbaṃ (bhadrāvudhāti bhagavā) uddhaṃ adho tiriyañcāpi majjhe, yaṃ yaṃ hi lokasmiṃ pādiyanti teneva māro anveti jantuṃ.

1108. (Đức Thế Tôn nói: “Này Bhadrāvudha,) nên xua đi sự nắm giữ và tham ái, ở bên trên, bên dưới, luôn cả chiều ngang và khoảng giữa. Bởi vì, mỗi một điều gì họ chấp thủ ở thế gian, do chính điều ấy Ma Vương theo đuổi loài người.

1108. Thế Tôn nói như sau:
Này Bha-đra-vu-đa!
Hãy nhiếp phục tất cả,
Mọi tham ái chấp thủ,
Trên, dưới cả bề ngang,
Và kể luôn chặng giữa,
Những ai có chấp thủ,
Sự gì ở trong đời,
Chính do sự việc ấy,
Ác ma theo người ấy.

1109. Tasmā pajānaṃ na upādiyetha bhikkhu sato kiñcanaṃ sabbaloke, ādānasatte iti pekkhamāno pajaṃ imaṃ maccudheyye visattanti.

1109. Vì thế, trong khi nhận biết rằng: ‘Họ bị dính mắc ở sự nắm giữ,’ trong khi xem xét nhân loại này bị vướng mắc ở lãnh địa của Thần Chết, vị tỳ khưu, có niệm, không nên chấp thủ bất cứ điều gì ở khắp thế gian.”

1109. Do vậy, bậc hiểu biết,
Không có chấp thủ gì,
Tỷ-kheo giữ chánh niệm,
Trong tất cả thế giới,
Phàm có sở hữu gì,
Vị ấy không mong ước,
Nhìn xem quần chúng này,
Là chúng sanh chấp thủ,
Trong lãnh vực của Ma,
Bị tham dính chấp trước.

Bhadrāvudhasutta dvādasamaṃ.

Kinh Bhadrāvudha là thứ mười hai.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada