11. KINH JATUKAṆṆI (Ngài Indacanda dịch Việt, văn xuôi, viết thường)

11. KINH JATUKAṆṆI(Ngài Thích Minh Châu dịch Việt, văn vần, in nghiêng)

XII. CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN JATUKANNI

1101. Sutvān’ ahaṃ vīraṃ akāmakāmiṃ (iccāyasmā jatukaṇṇi) oghātigaṃ puṭṭhumakāmamāgamaṃ, santipadaṃ brūhi sahājanetta yathātacchaṃ bhagavā brūhi metaṃ.

1101. (Tôn giả Jatukaṇṇi nói:) “Sau khi nghe về bậc anh hùng, vị không có lòng ham muốn các dục, tôi đã đi đến để hỏi bậc đã vượt qua dòng lũ, không có lòng ham muốn. Thưa bậc có nhãn quan (Toàn Giác) đã được đồng sanh, xin ngài hãy nói về vị thế an tịnh. Thưa đức Thế Tôn, xin ngài hãy nói cho tôi về điều này đúng theo sự thật.

1101. Ja-tu-kan-ni nói:
Ðược nghe bậc anh hùng,
Không tham đắm dục vọng,
Nên con đã đến đây,
Ðể hỏi bậc vô dục,
Ðã thoát khỏi bộc lưu,
Bậc sanh với con mắt,
Hãy nói đường an tịnh,
Thế Tôn hãy như thật,
Nói cho con được biết.

1102. Bhagavā hi kāme abhibhuyya iriyati ādiccova paṭhaviṃ teji tejasā, parittapaññassa me bhūripañña, ācikkha dhammaṃ yamahaṃ vijaññaṃ jātijarāya idha vippahānaṃ.

1102. Bởi vì sau khi đã chế ngự các dục, đức Thế Tôn hành sử (các oai nghi) ví như mặt trời có sức nóng (chế ngự) trái đất bằng sức nóng. Thưa bậc có tuệ bao la, đối với tôi là người có tuệ nhỏ nhoi, xin ngài hãy chỉ bảo về Giáo Pháp để tôi có thể nhận thức sự lìa bỏ đối với sanh và già ở nơi đây.”

1102. Chinh phục dục vọng xong,
Thế Tôn sống ở đời,
Như mặt trời chiếu sáng,
Cõi đất với hào quang,
Bậc trí tuệ rộng lớn,
Hãy nói pháp cho con,
Kẻ trí tuệ bé nhỏ,
Do rõ biết pháp này,
 đây, con đon được,
Kể cả sanh và già.

1103. Kāmesu vinaya gedhaṃ (jatukaṇṇīti bhagavā) nekkhammaṃ daṭṭhu khemato, uggahītaṃ nirattaṃ vā mā te vijjittha kiñcanaṃ.

1103. Đức Thế Tôn nói: “Này Jatukaṇṇi, ngươi hãy xua đi sự thèm khát ở các dục để nhìn thấy sự xuất ly là an toàn. Đối với ngươi, chớ có bất cứ điều gì được nắm bắt hay bị rời bỏ.

1103. Thế Tôn nói như sau:
Hỡi Ja-tu-kan-ni!
Hãy nhiếp phục lòng tham,
Ðối với các dục vọng;
Hãy nhìn hạnh xuất ly,
Ðưa đến sự an ổn;
Chớ chấp chờ, từ bỏ,
Sự vật gì ở đời.

1104. Yaṃ pubbe taṃ visosehi pacchā te māhu kiñcanaṃ, majjhe ce no gahessasi upasanto carissasi.

1104. Điều (ô nhiễm) nào trước đây (quá khứ), ngươi hãy làm cho nó khô héo. Chớ có bất cứ (ô nhiễm) gì ở nơi ngươi sau này (vị lai). Nếu ngươi sẽ không nắm lấy (điều gì) ở khoảng giữa (hiện tại), ngươi sẽ sống an tịnh.

1104. Những gì có trước Ông,
Hãy làm nó khô cạn,
Ðừng có sự vật gì,
 phía đàng sau Ông,
Ở giữa, Ông không chấp,
Ông sẽ sống an tịnh.

1105. Sabbaso nāmarūpasmiṃ vītagedhassa brāhmaṇa, āsavāssa na vijjanti yehi maccuvasaṃ vajeti.

1105. Này ông Bà-la-môn, đối với vị đã xa lìa sự thèm khát ở danh và sắc về mọi phương diện, đối với vị ấy các lậu hoặc không hiện hữu, bởi vì chúng con người rơi vào sự thống trị của Tử thần.”

1105. Hỡi này Bà-la-môn!
Ðối với danh và sắc,
Hoàn toàn không tham đắm,
Không có các lậu hoặc,
Chính do lậu hoặc này,
Bị thần chết chi phối.

Jatukaṇṇisuttaṃ ekādasamaṃ.

Kinh Jatukaṇṇi là thứ mười một.

 



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada