6. KINH UPASĪVA (Ngài Indacanda dịch Việt, văn xuôi, chữ in thường)

6. KINH UPASĪVA (Ngài Thích Minh Châu dịch Việt, văn vần, chữ in nghiêng)

VII. CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN UPASIVA

1073. Eko ahaṃ sakka mahantamoghaṃ (iccāyasmā upasīvo) anissito no visahāmi tārituṃ, ārammaṇaṃ brūhi samantacakkhu yaṃ nissito oghamimaṃ tareyyaṃ.

1073. (Tôn giả Upasīva nói:) “Thưa vị dòng Sakya, con, đơn độc, không nương tựa (nơi nào), không có khả năng vượt qua dòng lũ lớn. Thưa bậc Toàn Nhãn, xin ngài hãy nói về đối tượng; được nương tựa nơi ấy, con có thể vượt qua dòng lũ này.”

Upasiva:

1069. Tôn giả U-pa-si-va:
Kính thưa bậc Thích tử,
Một mình, không y chỉ,
Con không thể vượt khỏi,
Dòng nước lớn mạnh này,
Kính thưa bậc Biến nhãn,
Hãy nói cho sở duyên,
Y chỉ sở duyên này,
Có thể vượt qua khỏi,
Dòng nước chảy mạnh này.

1074. Ākiñcaññaṃ pekkhamāno satīmā (upasīvāti bhagavā) natthīti nissāya tarassu oghaṃ, kāme pahāya virato kathāhi taṇhakkhayaṃ nattamahābhipassa.

1074. (Đức Thế Tôn nói: “Này Upasīva,) vị không trông mong vô sở hữu xứ, có niệm, sau khi nương tựa vào (ý niệm) ‘không có gì,’ có thể vượt qua dòng lũ. Sau khi dứt bỏ các dục, đã xa lánh hẳn các điều nghi ngờ, ngươi hãy quán sát sự cạn kiệt của tham ái đêm và ngày.”

Thế Tôn:

1070. Ðây lời dạy Thế Tôn:
Này U-pa-si-va,
Biết gìn giữ chánh niệm,
Không mong đợi vật gì,
Ông sẽ vượt bộc lưu,
Nương tựa: "không có gì ",
Ngày đêm ngươi nhận thấy,
Ðoạn dục, ly nghi ngờ,
Ái diệt là Niết-bàn.

1075. Sabbesu kāmesu yo vītarāgo (iccāyasmā upasīvo) ākiñcaññaṃ nissito hitva yaññaṃ, saññāvimokkhe parame vimutto tiṭṭhe nu so tattha anānuyāyī.

1075. (Tôn giả Upasīva nói:): “Vị nào đã xa lìa sự luyến ái ở tất cả các dục, sau khi từ bỏ pháp (chứng đắc thấp thỏi) khác, không nương tựa vào vô sở hữu xứ, đã được giải thoát ở sự giải thoát tối thượng đối với tưởng, phải chăng vị ấy nên trụ lại ở nơi ấy, không đi theo nữa?”

Upasiva:

1071. U-pa-si-va nói:
Ai là người ly tham,
Ðối với tất cả dục,
Y chỉ không có gì,
Từ bỏ mọi gì khác,
Ðược giải thoát hoàn toàn,
Tưởng giải thoát tối thượng,
Tại đấy vị ấy trú,
Không tiếp tục đi tới.

1076. Sabbesu kāmesu yo vītarāgo (upasīvāti bhagavā) ākiñcaññaṃ nissito hitvā maññaṃ, saññāvimokkhe parame vimutto tiṭṭheyya so tattha anānuyāyī.

1076. (Đức Thế Tôn nói: “Này Upasīva,) vị nào đã xa lìa sự luyến ái ở tất cả các dục, sau khi từ bỏ pháp (chứng đắc thấp thỏi) khác, không nương tựa vào vô sở hữu xứ, đã được giải thoát ở sự giải thoát tối thượng đối với tưởng, vị ấy nên trụ lại ở nơi ấy, không đi theo nữa.”

Thế Tôn:

1072. Thế Tôn nói như sau:
Này U-pa-si-va,
Ai hoàn toàn ly tham,
Ðối với tất cả dục,
Y chỉ không có gì,
Từ bỏ mọi gì khác,
Ðược giải thoát hoàn toàn,
Tương giải thoát tối thượng,
Tại đấy, vị ấy trú,
Không tiếp tục đi tới.

1077. Tiṭṭhe ce so tattha anānuyāyī (iccāyasmā upasīvo) yugampi vassānaṃ samantacakkhu, tattheva so sīti siyā vimutto cavetha viññāṇaṃ tathāvidhassa.

1077. (Tôn giả Upasīva nói:) “Thưa bậc Toàn Nhãn, nếu vị ấy trụ lại ở nơi ấy, không đi theo nữa, thậm chí một số năm, có phải ngay tại chỗ ấy vị ấy có thể có sự mát mẻ, được giải thoát, và thức (tái sanh) của vị thuộc hạng như thế ấy có thể diệt tắt?”

Upasiva:

1073. Nếu vị ấy tại đấy,
An trú không đi tiếp,
Trong một số nhiều năm,
Ôi bậc có biến nhãn!
Nếu vị ấy tại đấy,
Ðược mát lạnh giải thoát,
Với vị được như vậy,
Còn có thức hay không?

1078. Acci yathā vātavegena khittā (upasīvāti bhagavā) atthaṃ paleti na upeti saṅkhaṃ, evaṃ munī nāmakāyā vimutto atthaṃ paleti na upeti saṅkhaṃ.

1078. (Đức Thế Tôn nói: “Này Upasīva,) giống như ngọn lửa đã bị dập tắt bởi lực đẩy của ngọn gió thời đi đến sự chấm dứt, không đạt đến danh xưng; tương tự như vậy, vị hiền trí đã được giải thoát khỏi danh thân (tập hợp các yếu tố thuộc về tâm) thời đi đến sự chấm dứt, không đạt đến danh xưng.

Thế Tôn:

1074. Ðây lời Thế Tôn nói:
Hỡi U-pa-si-va!
Cũng giống như ngọn lửa,
Bị sức gió mạnh thổi,
Ði đến chỗ tận cùng,
Không có thể ước lượng,
Cũng vậy, vị ẩn sĩ,
Ðược giải thoát danh thân,
Ði đến chỗ tận cùng,
Không có thể ước lượng.

1079. Atthaṃgato so uda vā so natthi (iccāyasmā upasīvo) udāhu ve sassatiyā arogo, taṃ me munī sādhu viyākarohi tathā hi te vidito esa dhammo.

1079. (Tôn giả Upasīva nói:) “Có phải vị ấy đi đến sự chấm dứt hay vị ấy không có (hiện hữu), hay là vị ấy thật sự ở vào trạng thái trường tồn, vô bệnh? Thưa bậc hiền trí, xin ngài hãy khéo léo giảng rõ điều ấy cho con, bởi vì pháp này đã được ngài biết đúng theo bản thể.”

Upasiva:

1075. Vị đi đến tận cùng,
Có phải không hiện hữu,
Hai vị ấy thường hằng,
Ðạt được sự không bệnh,
Lành thay, bậc ẩn sĩ,
Hãy trả lời cho con,
Có vậy, con hiểu được,
Pháp như thật Ngài giảng.

1080. Atthaṃgatassa na pamāṇamatthi (upasīvāti bhagavā) yena naṃ vajjuṃ taṃ tassa natthi, sabbesu dhammesu samūhatesu samūhatā vādapathāpi sabbeti.

1080. (Đức Thế Tôn nói: “Này Upasīva,) đối với vị đã đi đến sự chấm dứt, thì không có sự ước lượng (phỏng đoán). Với điều nào người ta có thể nói về vị ấy, thì điều ấy không còn có đối với vị ấy. Khi tất cả các pháp đã được bứng lên, các nền tảng cho việc nói đến cũng được bứng lên.”

Thế Tôn:

1076. Thế Tôn nói như sau:
Hỡi U-pa-si-va,
Người đi đến tận cùng,
Không thể còn ước lượng,
Với gì, nói đến nó,
Không còn có cái ấy,
Khi tất cả các pháp,
Ðã được nhổ hẳn lên,
Mọi con đường nói phô,
Ðược nhổ lên sạch hết. 

Upasīvasuttaṃ chaṭṭhaṃ. 

Kinh Upasīva là thứ sáu. 

 



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada