3. KINH PUṆṆAKA (Ngài Indacanda dịch Việt, văn xuôi, chữ in thường)
3. KINH PUṆṆAKA (Ngài Thích Minh Châu dịch Việt, văn vần, chữ in nghiêng)
IV. CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN PUNNAKA
1047. Anejaṃ mūladassāviṃ (iccāyasmā puṇṇako) atthi pañhena āgamaṃ kiṃ nissitā isayo manujā khattiyā brāhmaṇā devatānaṃ, yaññamakappayiṃsu puthū idha loke pucchāmi taṃ bhagavā brūhi me taṃ.
1047. (Tôn giả Puṇṇaka nói:) “Với ý định hỏi câu hỏi, tôi đã đi đến với bậc không dục vọng, bậc có sự nhìn thấy gốc rễ (của các pháp): ‘Nương tựa vào điều gì, các vị ẩn sĩ, loài người, các Sát-đế-lỵ, các Bà-la-môn đã chuẩn bị lễ hiến tế đến chư Thiên, đông đảo tại nơi này, ở thế gian. Thưa đức Thế Tôn, tôi hỏi ngài. Xin ngài hãy trả lời tôi về điều này.”
Punnaka:
1043. Tôn giả Pun-na-ka:
Với ai không dao động,
Thấy rõ được cội gốc,
Con đến với câu hỏi,
Liên hệ đến mục đích,
Bậc ẩn sĩ, loài Người,
Sát-đế-ly, Phạm chí,
Do họ y chỉ gì,
Tế đàn cho chư Thiên.
Ðã tổ chức rộng lớn?
Con hỏi bậc Thế Tôn,
Hãy trả lời cho con.
1048. Ye kecime isayo manujā (puṇṇakāti bhagavā) khattiyā brāhmaṇā devatānaṃ yaññamakappayiṃsu puthū idha loke, āsiṃsamānā puṇṇaka itthabhāvaṃ jaraṃ sitā yaññamakappayiṃsu.
1048. (Đức Thế Tôn nói: “Này Puṇṇaka,) bất cứ những ai, các vị ẩn sĩ, loài người, các Sát-đế-lỵ, các Bà-la-môn đã chuẩn bị lễ hiến tế đến chư Thiên, đông đảo tại nơi này, ở thế gian, này Puṇṇaka, trong khi mong ước bản thể này, bị phụ thuộc vào tuổi già, họ đã chuẩn bị lễ hiến tế.”
Thế Tôn:
1044. Thế Tôn bèn đáp rằng:
Hỡi này Pun-na-ka!
Bậc ẩn sĩ loài Người,
Sát-đế-ly, Phạm chí,
Ðã tổ chức rộng lớn,
Tế đàn cho chư Thiên.
Khi họ thành già yếu,
Họ tổ chức tế đàn,
Vì rằng họ hy vọng,
Ðược sanh ở đời này,
Hỡi này Pun-na-ka!
1049. Ye kecime isayo manujā (iccāyasmā puṇṇako) khattiyā brāhmaṇā devatānaṃ yaññamakappayiṃsu puthū idha loke, kaccissu te bhagavā yaññapathe appamattā ātāru jātiñca jarañca mārisa pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metaṃ.
1049. (Tôn giả Puṇṇaka nói:) “Bất cứ những ai, các bậc ẩn sĩ, loài người, các Sát-đế-lỵ, các Bà-la-môn đã chuẩn bị lễ hiến tế đến chư Thiên, đông đảo tại nơi này, ở thế gian, thưa đức Thế Tôn, những người ấy, không xao lãng ở đường lối tế lễ, thưa ngài, có phải họ đã vượt qua sanh và già? Thưa đức Thế Tôn, tôi hỏi ngài. Xin ngài hãy trả lời tôi về điều này.”
Punnaka:
1045. Tôn giả Pun-na-ka:
Bậc ẩn sĩ loài Người,
Sát-đế-ly, Phạm chí,
Ðã tổ chức rộng lớn,
Tế đàn cho chư Thiên.
Thế Tôn nghĩ thế nào,
Họ không có phóng dật
Trên con đường tế đàn,
Họ vượt qua già chết,
Ðược hay không, thưa Ngài,
Con hỏi đức Thế Tôn,
Con mong Ngài trả lời?
1050. Āsiṃsanti thomayanti abhijappanti juhanti (puṇṇakāti bhagavā) kāmābhijappanti paṭicca lābhaṃ, te yājayogā bhavarāgarattā nātariṃsu jātijaranti brūmi.
1050. (Đức Thế Tôn nói: “Này Puṇṇaka,) những kẻ mong ước, tán dương, cầu khấn, cúng tế, cầu khấn các dục bởi vì lợi lộc, Ta nói rằng: ‘Những kẻ ấy, do sự gắn bó vào tế lễ, bị luyến ái với sự ái luyến vào hiện hữu, đã không vượt qua sanh và già.’”
Thế Tôn:
1046. Thế Tôn trả lời rằng:
Hỡi này Pun-na-ka,
Họ hy vọng, tán thán,
Họ cầu nguyện, cúng lễ,
Họ cầu nguyện các dục,
Do duyên vì lợi dưỡng,
Chuyên tâm lo tế đàn,
Ưa thích, tham sanh hữu,
Họ không vượt già chết,
Ta nói lên như vậy.
1051. Te ve nātariṃsu yājayogā (iccāyasmā puṇṇako) yaññehi jātiñca jarañca mārisa, atha ko carahi devamanussaloke atāri jātiñca jarañca mārisa pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metaṃ.
1051. (Tôn giả Puṇṇaka nói:) “Thưa ngài, quả thật những kẻ ấy do sự gắn bó vào tế lễ đã không vượt qua sanh và già nhờ vào những lễ hiến tế, thưa ngài. Thưa ngài, vậy giờ đây người nào ở thế giới chư Thiên và nhân loại đã vượt qua sanh và già? Thưa đức Thế Tôn, tôi hỏi ngài. Xin ngài hãy trả lời tôi về điều này.”
Punnaka:
1047. Tôn giả Pun-na-ka:
Nếu chúng chuyên tế đàn,
Nhưng không thể vượt qua,
Già chết với tế đàn,
Thời ai sống ở đời,
Trong thế giới Nhơn, Thiên,
Ðã vượt qua già chết,
Ai được vậy, thưa Ngài,
Con hỏi đức Thế Tôn,
Ngài trả lời cho con?
1052. Saṅkhāya lokasmiṃ parovarāni (puṇṇakāti bhagavā) yassiñjitaṃ natthi kuhiñci loke, santo vidhūmo anīgho nirāso atāri so jātijaranti brūmīti.
1052. (Đức Thế Tôn nói: “Này Puṇṇaka,) sau khi đã suy xét nơi này và nơi khác ở thế gian, đối với vị nào sự dao động là không có bất cứ đâu ở thế gian, có sự an tịnh, không còn sân hận, không phiền muộn, không mong cầu, Ta nói rằng: ‘Vị ấy đã vượt qua sanh và già.’”
Thế Tôn:
1048. Thế Tôn trả lời rằng:
Hỡi này Pun-na-ka,
Ai tính toán cao thấp,
Ước lượng vậy ở đời,
Ai không bị dao động,
Bất cứ đâu ở đời,
An tịnh, không phun khói,
Không phiền não, không cầu,
Vị ấy vượt già chết,
Ta nói lên như vậy.
Puṇṇakasuttaṃ tatiyaṃ.
Kinh Puṇṇaka là thứ ba.
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada