2. KINH TISSAMETTEYYA (Ngài Indacanda dịch Việt, văn xuôi, chữ in thường)

2. KINH TISSAMETTEYYA (Ngài Thích Minh Châu dịch Việt, văn vần, chữ in nghiêng)

III. CÁC CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN TISSAMETTEYYA

1044. Kodha saṃtusito loke (iccāyasmā tissa metatayyo) kassa no santi iñjitā, ko ubhantamabhiññāya majjhe mantā na lippati, kaṃ brūsi mahāpurisoti ko idha sibbanim accagā?

1044. (Tôn giả Tissametteyya hỏi:) “Ở đây, người nào được hài lòng ở thế gian? Đối với người nào các sự dao động không hiện hữu? Người nào, sau khi biết rõ cả hai đầu, nhờ vào trí tuệ không bị nhiễm bẩn ở khoảng giữa? Ngài nói ai là ‘bậc đại nhân’? Ở đây, người nào vượt qua thợ may (tham ái)?”

Tissa:

1040. Tissa Met-tey-ya:
Ai thỏa mãn ở đời,
Với ai không dao động,
Ai thắng tri hai biên,
Ở giữa, không dính líu,
Ai Ngài gọi đại nhân,
Ở đời, ai vượt khỏi,
Thêu dệt các ái nhiễm?

1045. Kāmesu brahmacariyavā (metteyyāti bhagavā) vītataṇho sadā sato, saṅkhāya nibbuto bhikkhu tassa no santi iñjitā.

1045. (Đức Thế Tôn nói: “Này Metteyya,) vị có Phạm hạnh về các dục, đã xa lìa tham ái, luôn luôn có niệm, sau khi đã suy xét, vị tỳ khưu được tịch tịnh. Đối với vị ấy các sự dao động không hiện hữu.

Thế Tôn:

1041. Thế Tôn liền đáp rằng:
Hỡi này Met-tê-ya!
Giữa dục, sống Phạm hạnh,
Không ái, luôn chánh niệm,
Tỷ-kheo lặng tính toán,
An tịnh, không dao động.

1046. So ubhantamabhiññāya majjhe mantā na lippati, taṃ brūmi mahāpurisoti sodha sibbanimaccagāti.

1046. Vị ấy, sau khi biết rõ cả hai đầu, nhờ vào trí tuệ không bị nhiễm bẩn ở khoảng giữa. Ta nói vị ấy là ‘bậc đại nhân.’ Ở đây, vị ấy vượt qua thợ may (tham ái).”

1042. Ai thắng tri hai biên,
Chặng giữa, nhờ suy tư,
Không dính líu bị nhiễm,
Ta gọi là đại nhân,
Vị ấy, ở đời này,
Vượt khỏi sự thêu dệt,
Các ái nhiễm tham muốn.

Tissametteyyasuttaṃ dutiyaṃ.

Kinh Tissametteyya là thứ nhì.

 



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada