5. KINH MĀGHA (Ngài Indacanda dịch Việt, văn xuôi, chữ in thường)
5. KINH MĀGHA (Ngài Thích Minh Châu dịch Việt, văn vần, chữ in nghiêng)
Evaṃ me sutaṃ Ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati gijjhakūṭe pabbate. Atha kho māgho māṇavo yena bhagavā tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodi, sammodanīyaṃ kathaṃ sārāṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho māgho māṇavo bhagavantaṃ etadavoca:
Tôi đã nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, ở núi Gijjhakūṭa. Lúc bấy giờ, thanh niên Bà-la-môn Māgha đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã tỏ vẻ thân thiện với đức Thế Tôn, sau khi trao đổi lời xã giao thân thiện rồi đã ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống ở một bên, thanh niên Bà-la-môn Māgha đã nói với đức Thế Tôn điều này:
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, trên núi Gijjhakàta. Rồi thanh niên Màgha đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, thanh niên Màgha bạch Thế Tôn:
Ahaṃ hi bho gotama, dāyako dānapatī vadaññū yācayogo dhammena bhoge pariyesāmi, dhammena bhoge pariyesitvā dhammaladdhehi bhogehi dhammādhigatehi ekassāpi dadāmi dvinnampi dadāmi tiṇṇampi dadāmi catunnampi dadāmi pañcannampi dadāmi channampi dadāmi sattannampi dadāmi aṭṭhannampi dadāmi navannampi dadāmi dasannampi dadāmi vīsāyapi dadāmi tiṃsāyapi dadāmi cattārīsāyapi dadāmi paññāsāyapi dadāmi satassapi dadāmi bhiyyopi dadāmi. Kaccāhaṃ gotama evaṃ dadanto evaṃ yajanto bahuṃ puññaṃ pasavāmīti.
“Thưa ngài Gotama, chính tôi là người bố thí, người thí chủ, ân cần, hào phóng, tôi tầm cầu các của cải một cách chân chánh; sau khi tầm cầu các của cải một cách chân chánh, với các của cải đã nhận được một cách chân chánh, đã thành đạt một cách chân chánh, tôi cho đến một người, tôi cho đến hai người, tôi cho đến ba người, tôi cho đến bốn người, tôi cho đến năm người, tôi cho đến sáu người, tôi cho đến bảy người, tôi cho đến tám người, tôi cho đến chín người, tôi cho đến mười người, tôi cho đến hai chục người, tôi cho đến ba chục người, tôi cho đến bốn chục người, tôi cho đến năm chục người, tôi cho đến một trăm người, tôi cho dến nhiều người hơn nữa. Thưa vị Gotama, trong khi cho như vậy, trong khi cống hiến như vậy, phải chăng tôi tạo ra được nhiều phước báu?”
- Thưa Tôn giả Gotama, con là người bố thí, là thí chủ, rộng rãi, mong muốn được yêu cầu. Con tầm cầu tài sản đúng pháp, sau khi tầm cầu tài sản đúng pháp, với những tài sản thâu hoạch đúng pháp, tạo dựng đúng pháp, con cho một nguời, con cho hai người, con cho ba người, con cho bốn người, con cho năm người, con cho sáu người, con cho bảy người, con cho tám người, con cho chín người, con cho mười người, con cho hai mươi người, con cho ba mươi người, con cho bốn mươi người, con cho năm mươi người, con cho một trăm người, con cho nhiều hơn nữa. Thưa Tôn giả Gotama, con cho như vậy, con bố thí như vậy, con có được nhiều phưóc đức không?
Taggha tvaṃ māṇava, evaṃ dadanto evaṃ yajanto bahuṃ puññaṃ pasavasi; yo ca kho māṇava dāyako dānapatī vadaññū yācayogo dhammena bhoge pariyesati dhammena bhoge pariyesitvā dhammaladdhehi bhogehi dhammādhigatehi ekassapi dadāti —pe— satassapi dadāti bhiyyopi dadāti, bahuṃ so puññaṃ pasavatīti.
“Này thanh niên Bà-la-môn, đúng thế. Trong khi cho như vậy, trong khi cống hiến như vậy, ngươi tạo ra được nhiều phước báu. Và này thanh niên Bà-la-môn, người nào là người bố thí, người thí chủ, rộng rãi, hào phóng, tầm cầu các của cải một cách chân chánh; sau khi tầm cầu các của cải một cách chân chánh, với các của cải đã nhận được một cách chân chánh, đã thành đạt một cách chân chánh, (người ấy) cho đến một người, —như trên—cho đến một trăm người, cho dến nhiều người hơn nữa, người ấy tạo ra được nhiều phước báu.”
- Này thanh niên, Con cho như vậy, Con bố thí như vậy Con được nhiều phước đức. Này thanh niên, ai là người bố thí, là người thí chủ rộng rãi, mong muốn được yêu cầu, ai tầm cầu tài sản đúng pháp sau khi tầm cầu tài sản đúng pháp, với những tài sản thâu hoạch đúng pháp, tạo dựng đúng pháp, ngưòi ấy cho một người... cho một trăm người, cho nhiều hơn nữa, người ấy được nhiều công đức.
Atha kho māgho māṇavo bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi:
Khi ấy, thanh niên Bà-la-môn Māgha đã nói với đức Thế Tôn bằng lời kệ này:
Rồi thanh niên Màgha nói lên lời Thế Tôn những bài kệ:
490. Pucchāmahaṃ gotamaṃ vadaññuṃ (iti māgho māṇavo)
kāsāyavāsiṃ agihaṃ carantaṃ yo yācayogo dānapatī gahaṭṭho,
puññatthiko yajati puññapekho dadaṃ paresaṃ idha annapānaṃ
kattha hutaṃ yajamānassa sujjhe.
490. (Lời thanh niên Bà-la-môn Māgha) “Tôi hỏi vị Gotama ân cần, mặc y màu ca-sa, không nhà, đang du hành rằng: Người thí chủ hào phóng, sống tại gia, có sự tầm cầu phước báu, cống hiến có sự mong mỏi phước báu, đang cho cơm nước đến những kẻ khác ở đây, như thế nào để vật cúng tế của người đang cống hiến có thể được trong sạch (có thể thành đạt phước báu)?”
Thanh niên Màgha:
487. Thanh niên Màgha thưa:
Tôn giả Gotama,
Con hỏi bậc Hiền hòa,
Mặc cà sa không nhà,
Ai ưa muốn được cầu,
Là thí chủ, gia chủ
Mong muốn được phước đức,
Bố thí, mong cầu phước.
Ở đây, thí người khác,
Ðồ ăn và đồ uống,
Tại đâu nên bố thí,
Ðể đồ cúng được tịnh.
491. Yo yācayogo dānapatī gahaṭṭho (māghāti bhagavā)
puññatthiko yajati puññapekho,
dadaṃ paresaṃ idha annapānaṃ
ārādhaye dakkhiṇeyye hi tādi.
491. (Lời đức Thế Tôn: “Này Māgha,) người thí chủ hào phóng, sống tại gia, có sự tầm cầu phước báu, cống hiến có sự mong mỏi phước báu, đang cho cơm nước đến những những kẻ khác ở đây, người như thế ấy có thể thành đạt (phước báu) nhờ vào những bậc xứng đáng được cúng dường.”
Thế Tôn:
488. Thế Tôn bèn trả lời:
Này thanh niên Màgha,
Ai ưa muốn được cầu,
Là thí chủ, gia chủ,
Mong muốn được phước đức,
Bố thí, mong cầu phước,
Ở đây, thí người khác
Ðồ ăn và đồ uống,
Người ấy cần phải thí,
Người xứng đáng cúng dường.
492. Yo yācayogo dānapatī gahaṭṭho (iti māgho māṇavo)
puññatthiko yajati puññapekho, dadaṃ paresaṃ idha annapānaṃ
akkhāhi me bhagavā dakkhiṇeyye.
492. (Lời thanh niên Bà-la-môn Māgha) “Người thí chủ hào phóng, sống tại gia, có sự tầm cầu phước báu, cống hiến có sự mong mỏi phước báu, đang cho cơm nước đến những những kẻ khác ở đây, xin đức Thế Tôn hãy giải thích cho tôi về những bậc xứng đáng được cúng dường.”
Màgha:
489. Thanh niên Màgha thưa:
Tôn giả Gotama,
Ai ưa muốn được cầu,
Là thí chủ, gia chủ,
Mong muốn được phước đức,
Bố thí, mong cầu phước,
Ở đây, thí người khác
Ðồ ăn và đồ uống,
Thế Tôn hãy nói con
Nên cúng dường cho ai?
493. Ye ve asattā vicaranti loke akiñcanā kevalino yatattā,
kālena tesu havyaṃ pavecche yo brāhmaṇo puññapekho yajetha.
493. “Quả vậy, những vị nào không bị dính mắc, du hành ở thế gian, không sở hữu gì, toàn hảo (đức hạnh), có bản thân đã được chế ngự, vào đúng thời điểm nên dâng phẩm vật hiến cúng đến các vị ấy. Người Bà-la-môn nào có sự mong mỏi về phước báu nên hiến dâng.
Thế Tôn:
490. Những ai sống ở đời,
Thật sự không nhiễm trước,
Hoàn toàn không sở hữu,
Tự ngã được nhiếp phục,
Ðúng thời, đối vị ấy,
Hãy cúng đồ tế tự.
Vị Phạm chí cầu phước,
Hãy bố thí như vậy.
494. Ye sabbasaṃyojanabandhanacchidā dantā vimuttā anīghā nirāsā, kālena tesu havyaṃ pavecche yo brāhmaṇo puññapekho yajetha.
494. Những vị nào đã cắt đứt tất cả các sự trói buộc, đã được huấn luyện, đã được giải thoát, không phiền muộn, không mong cầu, vào đúng thời điểm nên dâng phẩm vật hiến cúng đến các vị ấy. Người Bà-la-môn nào có sự mong mỏi về phước báu nên hiến dâng.
491. Những ai đã chặt đứt,
Mọi kiết sử trói buộc,
Nhiếp phục được giải thoát,
Không dao động, mong cầu.
Ðúng thời, đối vị ấy,
Hãy cúng đồ tế tự.
Vị Phạm chí cầu phước,
Hãy bố thí như vậy.
495. Ye sabbasaṃyojanavippamuttā dantā vimuttā anīghā nirāsā,
kālena tesu havyaṃ pavecche yo brāhmaṇo puññapekho yajetha.
495. Những vị nào đã được thoát ra khỏi tất cả các sự trói buộc, đã được huấn luyện, đã được giải thoát, không phiền muộn, không mong cầu, vào đúng thời điểm nên dâng phẩm vật hiến cúng đến các vị ấy. Người Bà-la-môn nào có sự mong mỏi về phước báu nên hiến dâng.
492. Những ai đã giải thoát
Mọi kiết sử trói buộc,
Nhiếp phục được giải thoát,
Không khổ, không mong cầu,
Ðúng thời, đối vị ấy,
Hãy cúng đồ tế tự.
Vị Phạm chí cầu phước,
Hãy bố thí như vậy.
496. Rāgañca dosañca pahāya mohaṃ khīṇāsavā vusitabrahmacariyā, kālena tesu havyaṃ pavecche yo brāhmaṇo puññapekho yajetha.
496. (Những vị nào) sau khi từ bỏ tham ái sân hận và si mê, có lậu hoặc đã được cạn kiệt, đã sống đời Phạm hạnh, vào đúng thời điểm nên dâng phẩm vật hiến cúng đến các vị ấy. Người Bà-la-môn nào có sự mong mỏi về phước báu nên hiến dâng.
493. Vị nào đã đoạn tận,
Tham, sân và cả si,
Các lậu hoặc đã đoạn,
Phạm hạnh đã thành tựu,
Ðúng thời, đối vị ấy,
Hãy cúng đồ tế tự.
Vị Phạm chí cầu phước,
Hãy bố thí như vậy.
497. Yesu na māyā vasati na māno ye vītalobhā amamā nirāsā,
kālena tesu havyaṃ pavecche yo brāhmaṇo puññapekho yajetha.
497. Ở những vị nào không có sự xảo quyệt trú ngụ, không có ngã mạn, là những vị có tham đã được xa lìa, không ích kỷ, không mong cầu, vào đúng thời điểm nên dâng phẩm vật hiến cúng đến các vị ấy. Người Bà-la-môn nào có sự mong mỏi về phước báu nên hiến dâng.
494. Ai sống không man trá,
Và không có kiêu mạn,
Những vị sống không tham,
Không ngã sở, không cầu,
Ðúng thời, đối vị ấy,
Hãy cúng đồ tế tự.
Vị Phạm chí cầu phước,
Hãy bố thí như vậy.
498. Ye ve na taṇhāsu upātipannā vitareyya oghaṃ amamā caranti, kālena tesu havyaṃ pavecche yo brāhmaṇo puññapekho yajetha.
498. Thật vậy, những vị nào không bị sa đọa ở các tham ái, sau khi đã vượt qua dòng lũ, sống không ích kỷ, vào đúng thời điểm nên dâng phẩm vật hiến cúng đến các vị ấy. Người Bà-la-môn nào có sự mong mỏi về phước báu nên hiến dâng.
495. Những ai đối với ai,
Không rơi vào hệ lụy,
Vượt khỏi được bộc lưu,
Du hành không ngã sở,
Ðúng thời, đối vị ấy,
Hãy cúng đồ tế tự,
Vị Phạm chí cầu phước,
Hãy bố thí như vậy.
499. Yesaṃ taṇhā natthi kuhiñci loke bhavābhavāya idha vā huraṃ vā, kālena tesu havyaṃ pavecche yo brāhmaṇo puññapekho yajetha.
499. Những vị nào không có tham ái về bất cứ điều gì ở thế gian, ở hữu hoặc phi hữu, ở đời này hoặc đời sau, vào đúng thời điểm nên dâng phẩm vật hiến cúng đến các vị ấy. Người Bà-la-môn nào có sự mong mỏi về phước báu nên hiến dâng.
496. Với ai không tham ái,
Một vật gì ở đời,
Không ái hữu, phi hữu,
Ðời này hay đời sau,
Ðúng thời, đối vị ấy,
Hãy cúng đồ tế tự.
Vị Phạm chí cầu phước,
Hãy bố thí như vậy.
500. Ye kāme hitvā agihā caranti susaññatattā tasaraṃva ujjuṃ,
kālena tesu havyaṃ pavecche yo brāhmaṇo puññapekho yajetha.
500. Những vị nào, sau khi từ bỏ các dục, không nhà, đang du hành, có bản thân đã khéo tự chế ngự, ngay thẳng tựa như con thoi, vào đúng thời điểm nên dâng phẩm vật hiến cúng đến các vị ấy. Người Bà-la-môn nào có sự mong mỏi về phước báu nên hiến dâng.
497. Những ai từ bỏ dục,
Sống không có gia đình,
Khéo léo biết chế ngự,
Như con thoi, chính trực,
Ðúng thời, đối vị ấy.
Hãy cúng đồ tế tự.
Vị Phạm chí cầu phước,
Hãy bố thí như vậy.
501. Ye vītarāgā susamāhit’ indriyā candova rāhuggahaṇā pamuttā, kālena tesu havyaṃ pavecche yo brāhmaṇo puññapekho yajetha.
501. Những vị nào đã xa lìa luyến ái, có các giác quan đã khéo được định tĩnh, đã được giải thoát tựa như mặt trăng đã thoát khỏi sự nắm giữ của thần Rāhu, vào đúng thời điểm nên dâng phẩm vật hiến cúng đến các vị ấy. Người Bà-la-môn nào có sự mong mỏi về phước báu nên hiến dâng.
498. Những ai, ly tham ái,
Các căn khéo định tĩnh,
Như mặt trăng thoát khỏi,
Nanh vuốt của Ràhu,
Ðúng thời, đối vị ấy,
Hãy cúng đồ tế tự.
Vị Phạm chí cầu phước,
Hãy bố thí như vậy.
502. Samitāvino vītarāgā akopā yesaṃ gatī natthi idha vippahāya,
kālena tesu havyaṃ pavecche yo brāhmaṇo puññapekho yajetha.
502. Những vị đã được yên lặng, đã xa lìa luyến ái, không còn giận dữ, là những vị không có cảnh giới tái sanh sau khi lìa bỏ nơi này, vào đúng thời điểm nên dâng phẩm vật hiến cúng đến các vị ấy. Người Bà-la-môn nào có sự mong mỏi về phước báu nên hiến dâng.
499. Những ai được an tịnh,
Ly tham, ly phẩn nộ,
Sau khi bỏ đời này,
Không còn có sanh thú,
Ðúng thời, đối vị ấy,
Hãy cúng đồ tế tự.
Vị Phạm chí cầu phước,
Hãy bố thí như vậy.
503. Jahitvā jātimaraṇaṃ asesaṃ kathaṃkathaṃ abbamupātivattā, kālena tesu havyaṃ pavecche yo brāhmaṇo puññapekho yajetha.
503. (Những vị nào) sau khi đã từ bỏ hoàn toàn sanh và tử, đã vượt lên trên tất cả hoài nghi, vào đúng thời điểm nên dâng phẩm vật hiến cúng đến các vị ấy. Người Bà-la-môn nào có sự mong mỏi về phước báu nên hiến dâng.
500. Ðoạn sanh tử đã xong,
Không còn chút dư tàn,
Nghi ngờ và phân vân,
Tất cả được nhiếp phục,
Ðúng thời, đối vị ấy,
Hãy cúng đồ tế tự.
Vị Phạm chí cầu phước,
Hãy bố thí như vậy.
504. Ye attadīpā cīvaranti loke akiñcanā sabbadhi vippamuttā,
kālena tesu havyaṃ pavecche yo brāhmaṇo puññapekho yajetha.
504. Những vị nào du hành ở thế gian, có (đức hạnh là) hòn đảo (nương nhờ) của bản thân, không sở hữu gì, đã được giải thoát về mọi phương diện, vào đúng thời điểm nên dâng phẩm vật hiến cúng đến các vị ấy. Người Bà-la-môn nào có sự mong mỏi về phước báu nên hiến dâng.
501. Những ai sống ở đời
Tự mình làm hòn đảo,
Không có vật sở hữu,
Giải thoát được trọn vẹn,
Ðúng thời, đối vị ấy,
Hãy cúng đồ tế tự.
Vị Phạm chí cầu phước,
Hãy bố thí như vậy.
505. Ye hettha jānanti yathā yathā idaṃ ayamantimā natthi punabbhavoti, kālena tesu havyaṃ pavecche yo brāhmaṇo puññapekho yajetha.
505. Những vị nào ở đây biết được điều này đúng theo bản thể: ‘Đây là lần cuối cùng, không còn tái sanh lại nữa,’ vào đúng thời điểm nên dâng phẩm vật hiến cúng đến các vị ấy. Người Bà-la-môn nào có sự mong mỏi về phước báu nên hiến dâng.
502. Những ai ngay đời này,
Như thật rõ biết được,
Ðây đời sống cuối cùng,
Không còn có tái sanh,
Ðúng thời, đối vị ấy,
Hãy cúng đồ tế tự
Vị Phạm chí cầu phước,
Hãy bố thí như vậy.
506. Yo vedagū jhānarato satīmā sambodhipatto saraṇaṃ bahunnaṃ, kālena tamhi havyaṃ pavecche yo brāhmaṇo puññapekho yajetha.
506. Vị nào là bậc đã đạt được sự thông hiểu, ưa thích việc tham thiền, có niệm, đã đạt đến quả vị Toàn Giác, nơi nương nhờ của nhiều người, vào đúng thời điểm nên dâng phẩm vật hiến cúng đến vị ấy. Người Bà-la-môn nào có sự mong mỏi về phước báu nên hiến dâng.”
503. Ai đạt tuệ tối thượng,
Ưa thiền, giữ chánh niệm,
Ðạt được sự giác ngộ,
Chỗ quy ngưỡng nhiều người.
Ðúng thời, đối vị ấy,
Hãy cúng đồ tế tự,
Vị Phạm chí cầu phước,
Hãy bố thí như vậy.
507. Addhā amoghā mama pucchanā ahū (iti māgho māṇāvo)
akkhāsi me bhagavā dakkhiṇeyye, tvaṃ hettha jānāsi yathā tathā idaṃ tathā hi te vidito esa dhammo.
507. (Lời thanh niên Bà-la-môn Māgha) “Thật vậy, câu hỏi của tôi đã không vô ích, đức Thế Tôn giải thích cho tôi về những bậc xứng đáng được cúng dường, bởi vì ở đây ngài biết điều này đúng theo bản thể, ngài biết pháp ấy đúng như thế.
Màgha:
504. Thật sự câu con hỏi,
Không trống không, vô ích,
Thế Tôn nói cho con,
Những ai đáng cúng dường.
Ở đây Ngài đã biết,
Sự thật như thế nào.
Như vậy chính là pháp,
Ngài được biết như vậy.
508. Yo yācayogo dānapatī gahaṭṭho puññatthiko yajati puññapekho, dadaṃ paresaṃ idha annapānaṃ akkhāhi me bhagavā yaññasampadaṃ.
508. Người nào là thí chủ hào phóng, sống tại gia, có sự tầm cầu phước báu, cống hiến có sự mong mỏi phước báu, đang cho cơm nước đến những những kẻ khác ở đây, xin đức Thế Tôn hãy giải thích cho tôi về sự thành tựu của lễ hiến tế.”
505. Rồi thanh niên Màgha,
Lại thưa thêm như sau:
Ai ưa muốn được cầu,
Là thí chủ, gia chủ,
Mong muốn được phước đức,
Bố thí, mong cầu phước,
Ở đây, thí người khác,
Ðồ ăn và đồ uống,
Thế Tôn hãy nói con,
Pháp tế tự hoàn toàn.
509. Yajassu yajamāno māghāti bhagavā sabbattha ca vippasādehi cittaṃ, ārammaṇaṃ yajamānassa yaññaṃ ettha patiṭṭhāya jahāti dosaṃ.
509. Đức Thế Tôn: “Này Māgha, hãy hiến dâng; trong lúc hiến dâng hãy khiến cho tâm được tịnh tín về mọi phương diện. Đối tượng của người đang hiến dâng là lễ hiến tế, do sự đứng vững ở tại nơi này người (ấy) từ bỏ sân hận.
Thế Tôn:
506. Thế Tôn nói Màgha,
Hãy tế đàn, tế tự,
Phải làm cho trong sạch,
Hoàn toàn mọi tâm tư,
Ðối người lễ tế đàn,
Ðối tượng là đồ cúng,
Hãy an trú ở đây,
Từ bỏ sự sân hận.
510. So vītarāgo pavineyya dosaṃ mettaṃ cittaṃ bhāvayaṃ appamāṇaṃ, rattindivaṃ satataṃ appamatto sabbādisā pharate appamaññaṃ.
510. Người ấy có luyến ái đã được xa lìa, có thể loại trừ sân hận. Trong khi phát triển tâm từ ái vô lượng, đêm và ngày, thường xuyên, không xao lãng, (người ấy) nên lan tỏa (tâm từ ái) không hạn lượng khắp tất cả các phương.”
507. Vị ấy đoạn tận tham,
Nhiếp phục cả sân hận,
Tu tập tâm từ bi,
Vô lượng khắp tất cả,
Với hạnh không phóng dật,
Ngày đêm luôn tu tập,
Cùng khắp mọi phương hướng,
Biến mãn vô lượng tâm.
511. Ko sujjhati muccati bajjhatī ca kenattanā gacchati brahmalokaṃ, ajānato me muni brūhi puṭṭho bhagavā hi me sakkhi brahmajja diṭṭho, tuvaṃ hi no brahmasamoti saccaṃ kathaṃ upapajjati brahmalokaṃ jutīmā.
511. “Ai trở nên trong sạch, ai được giải thoát, và ai bị trói buộc? Tự mình đi đến thế giới Phạm Thiên bằng cách nào? Thưa bậc hiền trí, được hỏi xin ngài hãy nói cho tôi, là kẻ không biết. Bởi vì đức Thế Tôn được tôi thấy rõ ràng hôm nay là đấng Phạm Thiên, bởi vì ngài ngang bằng dấng Phạm Thiên của chúng tôi’ là sự thật. Thưa bậc sáng chói, làm thế nào để được sanh về thế giới Phạm Thiên?”
Màgha:
508. Ai trong sạch, giải thoát,
Ai còn bị trói buộc,
Ai với tự thân mình,
Ði đến Phạm Thiên giới?
Vì không biết, con hỏi.
Hãy nói lên, ẩn sĩ,
Mong Thế Tôn chứng giám,
Cho con ngày hôm nay,
Con được thấy Phạm thiên,
Ngài đối với chúng con,
Thật sự Ngài ngang bằng,
Với Phạm thiên không khác,
Ôi! Bậc chói hào quang,
Làm thế nào được sanh,
Lên cảnh giới Phạm thiên?
512. Yo yajati tividhaṃ puññasampadaṃ (māghāti bhagavā)
ārādhaye dakkhiṇeyyehi tādi, evaṃ yajitvā sammā yācayogo
upapajjati brahmalokanti brūmīti.
512. (Lời đức Thế Tôn: “Này Māgha,) người nào cống hiến có sự thành tựu phước báu với ba yếu tố (ở vào ba thời điểm), người như thế ấy có thể thành đạt (phước báu) nhờ vào những bậc xứng đáng được cúng dường. Ta nói rằng: ‘Sau khi cống hiến một cách đúng đắn như vậy, người hào phóng được sanh về thế giới Phạm Thiên.’”
Thế Tôn:
509. Thế Tôn đáp Màgha:
Ai tổ chức tế đàn,
Ðầy đủ cả ba phần,
Tế đàn ấy tăng thịnh,
Với những người được cúng.
Xứng đáng được cúng dường.
Tế đàn như vậy xong,
Chơn chánh muốn được cầu,
Ta nói vị ấy sanh,
Tại cảnh giới Phạm thiên.
Evaṃ vutte māgho māṇavo bhagavantaṃ etadavoca:
Khi được nói như vậy, thanh niên Bà-la-môn đã nói với đức Thế Tôn điều này:
Khi nói được như vậy, thanh niên Màgha bạch Thế Tôn:“
Abhikkantaṃ bho gotama —pe— ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gatanti.
“Bạch ngài Gotama, thật là tuyệt vời!—như trên— đã đi đến nương nhờ kể từ hôm nay cho đến trọn đời.”
- Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama!.
Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama!... Từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
Māghasuttaṃ niṭṭhitaṃ.
Dứt Kinh Māgha.
III. MAHĀVAGGO - ĐẠI PHẨM (tiếp theo)
Buddha Jayanti Tripitaka Series (BJTS) - Tạng Sri Lanka - Lời tiếng Việt: (văn xuôi) Tỳ khưu Indacanda - Lời tiếng Việt: (văn vần) HT. Thích Minh Châu.
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada