1. KINH XUẤT GIA (Ngài Indacanda dịch Việt, văn xuôi, chữ in thường)

1. KINH XUẤT GIA (Ngài Thích Minh Châu dịch Việt, văn vần, chữ in nghiêng)

407. Pabbajjaṃ kittayissāmi yathā pabbaji cakkhumā, yathā vīmaṃsamāno so pabbajjaṃ samarocayi.

407. Tôi[1] sẽ thuật lại việc xuất gia: Bậc Hữu Nhãn đã xuất gia ra sao, trong khi suy xét thế nào mà Ngài đã tỏ ra thích thú việc xuất gia.

[1] Lời của Ngài Ānanda (SnA. 2, 381).

Ananda:

405. Xuất gia, tôi tán thán,
Như Pháp nhãn xuất gia,
Sau khi Ngài quán sát,
Chấp thuận hạnh xuất gia.

408. Sambādho ’yaṃ gharāvāso rajassāyatanaṃ iti, abbhokāso va pabbajjā iti disvāna pabbaji.

408. Ngài đã xuất gia sau khi nhìn thấy rằng: ‘Cuộc sống tại gia này có sự chướng ngại, là địa bàn của ô nhiễm; việc xuất gia quả là bầu trời mở rộng.’

406.Trói buộc, sống gia đình,
Tụ hội mọi bụi đời,
Phóng khoáng, đời xuất gia,
Thấy vậy nên xuất gia.

409. Pabbajitvāna kāyena pāpaṃ kammaṃ vivajjayi, vacīduccaritaṃ hitvā ājīvaṃ parisodhayi.

409. Sau khi xuất gia, Ngài đã lánh xa nghiệp ác do thân. Sau khi từ bỏ uế hạnh về khẩu, Ngài đã làm trong sạch việc nuôi mạng.

407. Sau khi Ngài xuất gia,
Thân ác nghiệp Ngài tránh,
Từ bỏ lời nói ác,
Mạng sống Ngài thanh tịnh.

410. Agamā rājagahaṃ buddho magadhānaṃ giribbajaṃ, piṇḍāya abhihāresi ākiṇṇavaralakkhaṇo.

410. Đức Phật đã đi đến thành Rājagaha, vùng đất ở giữa các ngọn núi của xứ Magadha. Ngài đã dấn thân vào việc khất thực, với tướng mạo cao quý nổi bật.

408. Phật đi đến Vương Xá,
Ðến chỗ núi bao vây,
Tại nước Ma-kiệt-đà,
Ngài sống hạnh khất sĩ,
Mang theo thật đy đ,
Các tướng tốt quang minh.

411. Tamaddasā bimbisāro pāsādasmiṃ patiṭṭhito, disvā lakkhaṇasampannaṃ imamatthaṃ abhāsatha.

411. Đứng ở tòa lâu đài, đức vua Bimbisāra đã nhìn thấy Ngài. Sau khi nhìn thấy bậc có đầy đủ tướng mạo, đức vua đã nói lên ý nghĩa này:

409. Bình Sa vương thấy Ngài,
Ðứng trên sân lầu thượng,
Thấy đy đ tướng tốt,
Bèn nói lên lời này:

412. Imaṃ bhonto nisāmetha abhirūpo brahā suci, caraṇena ceva sampanno yugamattaṃ ca pekkhati.

412. ‘Này các khanh, hãy nhìn xem người này, vị có vóc dáng đẹp, cao cả, (làn da) trong sáng, và còn thành tựu về cử chỉ nữa; và vị này nhìn chỉ trong tầm của một cán cày.

410. Các Ông hãy chăm sóc
Ngưi đẹp, lớn, thanh tịnh,
Thành tựu với hạnh đức,
Chỉ nhìn vừa một tầm.

413. Okkhittacakkhu satimā nāyaṃ nīcā kulāmiva, rājadūtā vidhāvantu kuhiṃ bhikkhu gamissati.

413. Với mắt nhìn xuống, có niệm, vị này dường như không thuộc gia tộc hạ liệt. Hãy cho các sứ giả của vua chạy đến (hỏi xem) vị tỳ khưu (ấy) sẽ đi đến nơi nào?'

411. Mắt nhìn xuống, chánh niệm,
Gia đình không hạ tiện,
Hãy cho sứ giả theo,
Tỷ-kheo sẽ đi đâu?

414. Te pesitā rājadūtā piṭṭhito anubandhisuṃ, kuhiṃ gamissati bhikkhu kattha vāso bhavissati.

414. Được phái đi, các sứ giả ấy của vua đã đi theo sát ở phía sau (nghĩ rằng): ‘Vị tỳ khưu sẽ đi đến nơi nào? Chỗ trú ngụ sẽ là nơi đâu?’

412. Ðược sai, sứ giả ấy
Ði theo sau lưng Ngài,
Tỷ-kheo sẽ đi đâu?
Trú xứ sẽ chỗ nào?

415. Sapadānaṃ caramāno guttadvāro susaṃvuto, khippaṃ pattaṃ apūresi sampajāno patissato.

415. Trong khi bước đi (khất thực) tuần tự theo từng nhà, vị ấy có các căn đã được canh phòng, khéo thu thúc ở các giác quan, đã nhận đầy bình bát một cách nhanh chóng, có sự nhận biết rõ, có niệm.

413. Khất thực, từng nhà một,
Căn hộ trì chế ngự,
Bình bát đưc mau đầy,
Tỉnh giác và chánh niệm.

416. Piṇḍacāraṃ caritvāna nikkhamma nagarā muni, paṇḍavaṃ abhihāresi ettha vāso bhavissati.

416. Sau khi đi khất thực, vị hiền trí đã rời khỏi thành phố rồi đã leo lên núi Paṇḍava (nghĩ rằng): ‘Nơi này sẽ là chỗ trú ngụ.’

414. Sau khi đi khất thực,
Ẩn sĩ ra khỏi thành,
Leo lên Pandava,
Sẽ trú xứ tại đấy.

417. Disvāna vāsūpagataṃ tato dūtā upāvisuṃ, ekova dūto āgantvā rājino paṭivedayi.

417. Sau khi nhìn thấy vị ấy đi đến gần chỗ trú ngụ, do đó các sứ giả đã dừng lại. Và chỉ một vị sứ giả đã trở về thông báo cho đức vua rằng:

415. Thấy vị ấy đến chỗ,
Các sứ giả ngồi chờ,
Còn một vị đi v,
Kể lại chuyện vua hay.

418. Esa bhikkhu māhārāja paṇḍavassa purakkhato, nisinno vyagghusabhova sīhova girigabbhare.

418. ‘Tâu đại vương, vị tỳ khưu ấy ngồi tựa như con hổ hay con bò mộng ở phía trước núi Paṇḍava, tựa như con sư tử ở trong hang núi.’

416. Ðại vương, Tỷ-kheo ấy,
Phía đông Pandava,
Ngồi như cọp, bò chúa,
Như sư tử trong hang.

419. Sutvāna dūtavacanaṃ bhaddayānena khattiyo, taramānarūpo niyyāsi yena paṇḍavapabbato.

419. Sau khi đã nghe lời nói của viên sứ giả, vị Sát-đế-lỵ với dáng vẻ vội vã đã ra đi về phía núi Paṇḍava bằng cỗ xe xinh đẹp.

417. Nghe sứ giả, đức vua
Với cỗ xe thù thắng,
Vội vàng ra khỏi thành,
Ði đến Pandava.

420. Sa yānabhūmiṃ yāyitvā yānā oruyha khattiyo, pattiko upasaṅkamma āsajja taṃ upāvisi.

420. Sau khi đã đi hết vùng đất có thể đi bằng cỗ xe, đức vua ấy đã leo xuống cỗ xe rồi đã đi bộ đến gần, sau khi đến nơi đã ngồi kế cận vị tỳ khưu ấy.

418. Ði đưc, vua đi xe,
Rồi xuống xe đi b,
Ðức vua tiến lại gần,
Và vào chỗ Ngài ở.

421. Nisajja rājā sammodi kathaṃ sārāṇīyaṃ tato, kathaṃ so vītisāretvā imamatthaṃ abhāsatha.

421. Sau khi ngồi xuống, đức vua đã nói lời xã giao thân thiện. Kế đó, sau khi trao đổi lời chào hỏi, đức vua ấy đã nói ý nghĩa này:

419. Ngồi xuống, vua nói lên
Lời hỏi thăm chào đón,
Lời lẽ chào đón xong,
Vua nói lên nghĩa này.

422. Yuvā ca daharo cāsi paṭhamuppatito susu, vaṇṇārohena sampanno jātimā viya khattiyo.

422. ‘Ngươi là thanh niên và trẻ trung, vừa mới lớn, còn non trẻ, đươc thành tựu màu da và dáng vóc, có dòng dõi tựa như là Sát đế-lỵ.

420. Người thanh niên tuổi trẻ,
Ngây thơ, bưc vào đời,
Ðẹp cao được đy đ,
Thiện sanh dòng Sát-ly.

423. Sobhayanto aṇikaggaṃ nāgasaṃghapurakkhato, dadāmi bhoge bhuñjassu jātiṃ vakkhāhi pucchito.

423. Dẫn đầu đoàn voi trận, ngươi làm rạng rỡ đội binh tiên phong. Trẫm ban cho các của cải, ngươi hãy hưởng thụ. Đã được hỏi, ngươi hãy nói về dòng dõi.’

421. Trang hoàng binh đội ngũ,
Trước mắt cả binh đoàn,
Tài sản ta cho Người,
Hãy hưởng và trả lời
Về vấn đề thọ sanh.

424. Ujuṃ jānapado rājā himavantassa passato, dhanaviriyena sampanno kosalesu niketino.

424. ‘Tâu đức vua, thẳng ngay hướng này có một chủng tộc (sống) ở sườn núi Hi-mã-lạp, có đầy đủ tài sản và nghị lực, thuộc dân bản địa của xứ sở Kosala.

422. Thế Tôn:Trên sườn núi Tuyết sơn,
Sống dân tộc đoạn trực,
Tài sản nghị lực đ,
Ở xứ Kosala.

425. Ādiccā nāma gottena sākiyā nāma jātiyā, tamhā kulā pabbajitomhi rāja na kāme abhipatthayaṃ.

425. Với dòng họ có tên là Mặt Trời, với dòng dõi có tên là Sākiya (Thích Ca), tâu đức vua, trong khi không mong mỏi các dục, từ gia tộc ấy tôi đã xuất gia.

423. Dòng họ thuộc mặt trời,
Sanh tộc là Thích-ca,
Từ bỏ gia tộc ấy,
Thưa vua, Ta xuất gia,
Ta không có tha thiết,
Ðối với các loại dục.

426. Kāmesvādīnavaṃ disvā nekkhammaṃ daṭṭhu khemato, padhānāya gamissāmi ettha me rajjatī manoti.

 426. Sau khi nhìn thấy sự tai hại ở các dục, sau khi nhìn thấy sự xuất ly là an toàn, tôi sẽ ra đi nhằm (mục đích) ra sức nỗ lực, trong việc này tâm ý của tôi được vui thích.’

424. Thấy nguy hiểm trong dục,
Bỏ chúng, là an ổn,
Ta sẽ đi, tinh tấn,
Ý Ta, được hoan hỷ.

Pabbajjāsuttaṃ niṭṭhitaṃ.

Dứt Kinh Xuất Gia. 



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada