125.Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là con thỏ lang thang ở trong rừng, có thức ăn là cỏ, lá cây, rau cải, và quả củ. Ta lánh xa việc hãm hại các kẻ khác.
126.Lúc bấy giờ, có một con khỉ, một con chó rừng, một con rái cá nhỏ, và ta sống trong cùng một khu vực, gặp gỡ nhau sáng chiều.
127.Ta giảng dạy cho chúng về các hành động lành dữ: “Các ngươi hãy xa lìa các điều ác, các ngươi hãy gắn bó với các việc thiện.”
128.Sau khi nhìn thấy mặt trăng đã tròn vào ngày trai giới, tại nơi ấy ta đã chỉ bảo chúng rằng: “Hôm nay là ngày trai giới.
129.Các ngươi hãy chuẩn bị những tặng phẩm để bố thí đến bậc xứng đáng được dâng cúng. Sau khi đã bố thí tặng phẩm đến bậc xứng đáng được dâng cúng, các ngươi hãy thực hành ngày trai giới.”
130.Chúng đã nói với ta rằng: “Sādhu, lành thay!” Rồi tùy theo khả năng, tùy theo sức lực, sau khi chuẩn bị các tặng phẩm chúng đã đi tìm bậc xứng đáng được dâng cúng.
131.Ta đã ngồi xuống và suy nghĩ về tặng phẩm thích hợp với bậc xứng đáng được dâng cúng: “Nếu ta đạt được một bậc xứng đáng được dâng cúng thì tặng phẩm của ta sẽ là gì?
132.Ta không có mè, đậu xanh, đậu tây, gạo, hay bơ. Ta sống bằng cỏ nhưng bố thí cỏ là không thể được.
133.Nếu có người là bậc xứng đáng được dâng cúng đi đến nơi ta để khất thực, ta sẽ cúng dường bản thân của mình; người ấy sẽ không (phải) ra đi mà không có gì.
134.Biết được ý định của ta, (Chúa Trời) Sakka với dáng vóc của vị Bà-la-môn đã đi đến chổ ngụ của ta nhằm việc xác định việc bố thí của ta.
135.Khi nhìn thấy vị ấy, ta đã hớn hở nói lên điều này: “Quả thật là tốt đẹp về việc ông đã đi đến chỗ tôi vì nguyên nhân thực phẩm.
136.Hôm nay, tôi sẽ biếu ông tặng phẩm cao quí chưa từng được bố thí trước đây. Ông là con người thành tựu giới đức nên việc hãm hại kẻ khác là không thích hợp đối với ông.
137.Ông hãy đi đến và đốt lên ngọn lửa. Hãy đem lại nhiều cây củi. Tôi sẽ nướng chín bản thân. Ông sẽ thọ thực vật đã được nấu chín.”
138.Vị ấy, với tâm ý mừng rỡ, (nói rằng): “Sādhu, lành thay!” rồi đã đem lại nhiều cây củi đốt lên đống lửa lớn và đã tạo nên một cụm than hồng.
139.Vị ấy đã đốt lên ngọn lửa ở tại nơi ấy và ngọn lửa ấy đã mau chóng trở nên mãnh liệt như thế. Sau khi rủ sạch các chi thể bị lấm bụi,[19] ta đã tiến vào một bên (đống lửa).
140.Khi đống cây củi to lớn đã phát cháy bùng lên mạnh mẽ, ta đã nhảy lên và rơi vào ở chính giữa ngọn lửa.
141.Giống như bất cứ ai đã đi vào trong làn nước mát lạnh thì được dịu đi nỗi bực bội và cơn phiền muộn (của mình) đồng thời làm sanh khởi[20] sự hứng thú và phỉ lạc.
142.Tương tợ y như thế, khi ta đi vào ngọn lửa đang cháy rực, tất cả nỗi bực bội đã được dịu đi, tợ như (đi vào) làn nước mát lạnh vậy.
143.Ta đã bố thí đến vị Bà-la-môn hết thảy toàn bộ thân thể gồm có lớp da ngoài, da trong, thịt, gân, xương, và cơ tim.
Hạnh của Con Thỏ Hiền Triết là phần thứ mười.
144.Bà-la-môn Akitti, Saṅkha, Dhañanjaya vua xứ Kuru, đức vua Mahāsudassana, Bà-la-môn Mahāgovinda,
145.Nimi, hoàng tử Canda, Sivi, Vessantara, và con thỏ chính là ta vào lúc bấy giờ, và là người đã bố thí những tặng phẩm cao quý.
146.Những hạnh này là những phần cơ bản của sự bố thí. Những hạnh này là các sự toàn hảo của sự bố thí. Sau khi bố thí mạng sống đến người cầu xin, ta đã làm đầy đủ sự toàn hảo (về bố thí) này.
147.Sau khi nhìn thấy người đi đến gần để khất thực, ta đã xả bỏ bản thân mình. Không có ai bằng ta về sự bố thí; đây là sự toàn hảo về bố thí của ta.
Dứt sự toàn hảo về bố thí.
--ooOoo--
[1] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 480.
[2] ettha caritanti cariyā = ở đây, điều đã được thực hành là hạnh, CpA. 17.
[3] Đức Phật đang giảng giải cho ngài Sāriputta (Xá-lợi-phất), CpA. 20.
[4] Tidivādhibhū là Chúa cõi trời Tidivā, tức là cõi Tāvatiṃsa (Đạo Lợi), CpA. 24.
[5] Bị oi bức do hơi nóng phát ra ở tảng đá ngồi có phủ gấm vàng của vị ấy CpA. 24.
[6] Mô tả tính chất bố thí bất cứ vật gì thuộc về bản thân không phân biệt, CpA. 24. Như vậy, lúc này, đức Bồ-tát chỉ sử dụng lá cây ở trong rừng để làm thức ăn.
[7] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 442.
[8] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 276.
[9] Kinh Đại Thiện Kiến Vương, Trường Bộ Kinh II; Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 95.
[10] So sánh với Kinh Đại Điền-tôn (Mahāgovindasuttaṃ), Trường Bộ Kinh II.
[11] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 541.
[12] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 542.
[13] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 499.
[14] Sīvaka là tên vị ngự y của đức vua Sivi, CpA. 66.
[15] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 547.
[16] Chú giải ghi rằng: vào kiếp sống quá khứ liền trước đó, CpA. 74.
[17] Do nhờ năng lực phước báu của Vessantara, CpA. 87.
[18] Mātulā là tên của một thành phố thuộc vương quốc Ceta, CpA. 87.
[19] Nếu có các chúng sanh ở trong bộ lông thì “chớ để chúng bị chết,” (nghĩ thế) ta đã rúng rẩy các phần thân thể đang bị lấm bụi của ta ba lần, CpA. 106.
[20] deti được giải thích là uppādeti (làm sanh khởi), CpA. 107.
[21] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 543.
[22] Cõi trời này là cõi trời Tāvatiṃsa (Đạo Lợi) và Virūpakkha là một vị thủ lãnh của loài rồng rắn (nāgādhipati), CpA. 117.
[23] Đi đến bằng phương thức tái sanh (uppattivasena), CpA. 117.
[24] Là thực hiện việc chăm sóc cơ thể như rửa mặt, v.v... CpA. 117.
[25] Bốn chi phần của cơ thể là da (ngoài và trong), thịt, gân, xương, CpA. 117, như sẽ được đề cập đến ở câu kế.
[26] Câu chuyện được ghi lại ở CpA. 118-122.
[27] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 506.
[28] dhammiko (người nghiêm túc) được giải thích là dhammacārī (người hành pháp) (CpA. 126). Kế đó, dhammacārī được giải thích là “người thực hành thập thiện nghiệp đạo như là bố thí, trì giới, v.v... và không thực hành điều sai trái dầu là nhỏ nhen” (CpA. 129-30).
[29] Người luyện rắn này hành hạ ta vô cùng tàn bạo và không biết ta thần lực của ta. Khi nỗi cơn giận dữ, ta đã nghĩ rằng: “Vậy thì ta sẽ phô bày thần lực của ta đối với gã này.” Cho dầu chỉ là một sự suy xét, nhưng nếu như ta thể hiện năng lực của tâm thì gã ấy đã bị phân tác tương tợ như một nắm bụi phấn (CpA. 130).
[30] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 443.
[31] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 278.
[32] Là sự giải thoát khỏi khổ đau và sự giết hại sanh mạng, CpA. 143.
[33] Là đạt được trí Toàn Giác theo như ước muốn.
[34] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 482.
[35] Tên con sông này được ghi lại theo âm là Hằng Hà.
[36] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 497.
[37] Đức Bồ-tát đã bảo dùng cục đất sét đặt ở trên đầu của vị Bà-la-môn rồi cho vị ấy lội xuống và đứng ở trong nước. Khi mặt trời mọc lên thì vị Bà-la-môn hụp xuống, đầu chìm ở trong nước. Còn cục đất sét (thay thế cái đầu) ở trên mặt nước đã bị mặt trời làm vỡ tan thành bảy mảnh (CpA. 159).
[38] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 457.
[39] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 513.
[40] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 524.
[41] Có bốn răng nanh, hai trên hai dưới, CpA. 175.
[42] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 460.
[43] Do tác động của sự tưởng đến vô thường, CpA. 183.
[44] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 505.
[45] tattha, được giải thích là: “với sự ra lệnh của đức vua ...,” CpA. 191.
[46] Lúc ấy, đức Bồ-tát được bảy tuổi, CpA. 189.
[47] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 510.
[48] Đức Bồ-tát đã được nuôi lớn lên trong ngôi nhà lớn hoàn toàn bằng sắt được xây dựng theo hình thức gian nhà hình tứ giác nhằm mục đích ngăn ngừa các tai họa do phi nhân. Hai người anh trai của đức Bồ-tát đã bị con nữ Dạ-xoa ăn thịt lúc mới sanh ra (CpA. 195-6).
[49] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 488.
[50] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 532.
[51] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 538.
[52] Vào ngày đức Bồ-tát được sanh ra, trời đã đổ cơn mưa xuống toàn thể vương quốc Kāsi, nên được gọi là Temiya (được ầm ướt), CpA. 216-7.
[53] Là thoát khỏi vương quốc xui xẻo này, CpA. 218.
[54] Dịch theo kathāhaṃ imaṃ muñcissaṃ thay vì kadāhaṃ ...? (Khi nào ta sẽ ...?)
[55] Vị này ngự ở trên chiếc lọng ấy và là người mẹ ruột trong một kiếp sống trước đây, CpA. 218.
[56] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 57.
[57] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 35.
[58] Jina (đấng Chiến Thắng) cũng là danh hiệu đề cập đến đức Phật.
[59] karīsa là đơn vị đo diện tích.
[60] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 75.
[61] Lúc này, hồ đã bị cạn nước, các con cá nằm trong các bãi bùn rải rác đó đây, CpA. 237.
[62] Dịch theo câu văn Pāḷi ở phần cước chú.
[63] Dịch theo Chú Giải ... pajjuno megho abhivassatu, CpA. 238.
[64] Kho lương dự trữ ám chỉ đến các con cá đang vướng trong bùn. Nếu trời đổ mưa làm đầy nước trong hồ thì kho lương dự trữ của loài quạ sẽ bị tiêu tan (CpA. 238-9).
[65] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 444.
[66] Trong thời quá khứ, tiền thân vị này đã dùng một mảnh gỗ mun đâm xuyên qua con ruồi, CpA. 243.
[67] Tên của đứa bé trai, CpA. 245.
[68] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 537.
[69] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 540.
[70] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 303.
[71] Đã cai quản vùng đất rộng lớn ở vương quốc Kāsi ba trăm do-tuần, CpA. 264.
[72] Dabbasena là đức vua xứ Kosala, CpA. 264.
[73] Có thể liên quan đến Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 94.
[74] Câu kệ 372 không có ở Tạng Tích Lan, nhưng được thấy ở Tạng Thái, Miến Điện, Anh:
Pamādaṃ bhayato disvā, appamādañca khemato
bhāvethaṭṭhaṅgikaṃ maggaṃ esā buddhānusāsanī.
[75] Buddhāpadāniyaṃ là đề tài được thuyết giảng, là đề tài được trình bày có liên quan đến công hạnh khó làm thuộc thời xa xưa nghĩa là việc làm quá khứ của chư Phật (CpA. 335).
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada