67.Người mẹ ruột của ta là nữ nhân dòng Sát-đế-lỵ tên Phusatī. Bà ấy là hoàng hậu yêu quý của (Chúa Trời) Sakka vào những kiếp sống trước.[16]

68.Nhìn thấy sự dứt tuổi thọ của bà ấy, vị Chúa Trời đã nói điều này: “Này quý phi, trẫm ban cho khanh mưi điều ân huệ, hãy chọn lựa theo như ý thích.”

69.Và khi đưc nói như vậy, bà hoàng hậu ấy đã đáp lại (Chúa Trời) Sakka điều này: “Thiếp có lỗi lầm gì vậy? Phải chăng thiếp bị ngài ghét bỏ khiến ngài lưu đày thiếp khỏi chốn bồng lai như là ngọn gió thổi trốc gốc cây vậy?”

70.Và khi đưc nói như vậy, vị (Chúa Trời) Sakka ấy đã đáp li bà ta điều này: “Chẳng phải khanh đã làm điều sai trái và cũng chẳng phải là ta không yêu quý khanh.

71.Sở dĩ như thế ấy chính là vì tuổi thọ của khanh, thời điểm tử vong sắp đến. Hãy tiếp nhận mưi điều ân huệ quý báu tối cao đã được trẫm ban thưởng.”

72.Với mưi điều ân huệ được (Chúa Trời) Sakka ban thưởng, bà Phusatī ấy, hớn hở, mừng rỡ, vui sưng, đã lựa chọn mưi điều ân huệ sau khi đã tính gộp luôn cả ta (vào các điều ân huệ ấy).

73.Mệnh chung từ nơi đó, bà Phusatī y đã sanh vào dòng dõi Sát-đế-lỵ ở thành phố Jetuttara và đã kết hôn với Sañjaya.

74.Khi ấy, ta đã hạ sanh vào lòng bà Phusatī, người mẹ yêu quý. Do nhờ oai lực của ta, người mẹ của ta đã luôn luôn hứng thú trong việc bố thí.

75.Bà bố thí cho những người không có tài sản, người không có của cải, người bệnh hoạn, người già cả, ngưi ăn xin, ngưi đi đường, các vị Sa-môn, các Bà-la-môn, và những người bị khánh tận.

76.Sau khi mang thai ta đưc mười tháng, bà Phusatī trong lúc đang đi quanh thành ph đã sanh ta ở giữa đường phố của những ngưi thương buôn.

77.Tên của ta không liên quan đến họ mẹ, cũng không xuất phát từ họ cha. Ta đã được sanh ra ở đường phố của những ngưi thương buôn, vì thế ta đã là Vessantara.

78.Đến khi ta đã trở thành đa bé trai được tám tuổi tính từ lúc sanh, khi ấy ta đã ngồi ở tòa lâu đài và đã suy nghĩ về việc bố thí tặng vật.

79.Ta có thể bố thí tim, mắt, luôn cả thịt và máu của mình. Ta đã thông báo là ta có thể bố thí xác thân của mình nếu có người van xin.

80.Trong khi ta đang suy xét về bản tánh không dao động không hẹp hòi, tại nơi y trái đất với tràng hoa là khu rừng ở núi Sineru đã rúng động.

81.Mỗi nửa tháng, vào ngày mưi lăm và ngày cuối tháng là ngày trai giới, ta đã cưi lên con voi Paccaya và đã đi đến để bố thí tặng phẩm.

82.Những người Bà-la-môn từ lãnh thổ vương quốc Kaliṅga đã đi đến gặp ta. Họ đã cầu xin ta con long tưng được xem là biểu hiện của sự thịnh vượng và may mắn:

83.“Xứ sở chúng tôi không có mưa, thc ăn hiếm hoi, đói kém trầm trọng. Xin ngài hãy ban cho con long tượng cao quý, toàn màu trắng, tối thắng của loài voi.”

84.Ta bố thí điều mà những người Bà-la-môn yêu cầu ta; ta không rung động. Ta không thu giấu vật đang sở hữu. Tâm ý của ta hoan hỉ trong việc bố thí.

85.(Nghĩ rằng): “Đối với ta, khi có đưc người cầu xin thì sự từ chối là điu không đúng đắn. Sự thọ trì của ta chớ có bị đổ vỡ. Ta sẽ bố thí con voi vĩ đại.”

86.Sau khi nắm lấy con voi ở chiếc ngà và rưi nước từ chiếc bình làm bằng ngọc quý lên bàn tay, ta đã cho con voi đến các vị Bà-la-môn.

87.Lại một lần nữa, trong khi ta đang bố thí con voi tối thắng toàn màu trắng, khi ấy trái đất với tràng hoa là khu rừng ở núi Sineru cũng đã rúng động.

88.Do việc bố thí con voi ấy, những người dân xứ Sivi giận dữ đã tụ họp lại và đã trục xuất (ta) ra khỏi vương quốc của ta (nói rằng): “Hãy cho ông ta đi đến ngọn núi Vaṅka.”

89.Trong khi bọn họ xua đui, ta đã yêu cầu một ân huệ để tiến hành cuộc đại thí, không dao động, không hẹp hòi.

90.Khi được yêu cầu, tất cả những người dân xứ Sivi đã ban cho ta một ân huệ. Sau khi cho vỗ kêu hai chiếc trống lớn, ta đã trao tặng món quà vĩ đại.

91.Lúc bấy giờ, tại nơi ấy có âm thanh ầm ĩ, ồn ào, ghê rợn vang lên. Bởi sự bố thí (này), họ đã lôi kéo ta đi; một lần nữa ta đã trao tặng món quà vĩ đại.

92.Sau khi đã bố thí voi, ngựa, xe cộ, tôi trai, tớ gái, trâu bò, của cải, và đã ban phát cuộc đại thí, vào khi ấy ta đã rời khỏi thành phố.

93.Sau khi rời khỏi thành phố, ta đã quay người lại quan sát, khi ấy trái đất với tràng hoa là khu rừng ở núi Sineru cũng đã rúng động.

94.Sau khi bố thí cỗ xe bốn ngựa kéo, ta đứng ở ngã tư đường, chỉ một mình không người hầu cận, và ta đã nói với Hoàng Hậu Maddī điều này:

95.Này Maddī, nàng hãy ẵm Kaṇhā(jinā), con bé nhẹ và là em gái. Ta sẽ ẵm Jāli bởi vì nó nặng và là anh trai.”

96.Maddī đã ôm lấy Kaṇhājinā như thể ôm lấy đóa sen xanh hoc đóa sen trng. Ta đã ôm lấy vị Sát-đế-lỵ Jāli như thể ôm lấy bầu đng nước bằng vàng.

97.Bốn ngưi Sát-đế-lỵ, dòng dõi quý tộc, có vóc dáng mảnh mai, tiến bước trên mặt đất lúc gồ ghề lúc bằng phẳng đi v hướng ngọn núi Vaṅka.

98.Chúng tôi đã hỏi những ngưi đi cùng đường hoặc theo hưng ngược lại về lộ trình: “Ngọn núi Vaṅka ở nơi nào?

99.Nhìn thấy chúng tôi ở nơi ấy, họ đã thốt lên lời thương xót. Họ bày tỏ nỗi đau xót (nói rằng): “Ngọn núi Vaṅka ở xa lắm.”

100.Nếu hai đứa trẻ nhìn thấy những cây có trái ở trong khu rừng, hai đứa trẻ bật khóc vì nguyên nhân của những trái cây ấy.

101.Trông thấy hai đứa trẻ khóc lóc, những cội cây cao lớn xum xuê tự động khom mình xuống đến gần hai đứa trẻ.

102.Sau khi nhìn thấy điều kỳ diệu phi thường khiến lông tóc rởn ốc này, (hoàng hậu) Maddī, với sự rạng rỡ ở toàn thân, đã thốt lên lời tán thán (rằng):

103.Quả thật là điều kỳ diệu phi thường ở thế gian khiến lông tóc rởn ốc. Những cội cây đã tự động khom mình xuống bởi vì oai lực của Vessantara.”[17]

104.Vì lòng thương xót hai đứa trẻ, các hàng Dạ-xoa đã thâu ngắn đưng đi; chỉ nội trong ngày khởi hành họ đã đi đến vương quốc Ceta.

105.Lúc bấy giờ có sáu mươi ngàn vvua cư ngụ ở Mātulā.[18] Tất cả đã chắp tay lên, than khóc, và đã đi đến gần.

106.Ở tại nơi y, sau khi trao đổi trò chuyện cùng với các vị vương tử xứ Ceta ấy, rồi từ đó bn ngưi đã đi đến ngọn núi Vaṅka.

107.Chúa Trời đã triệu tập vị Vissakamma có đại thần lực (ra lệnh rằng): “Khanh hãy khéo biến hóa ra một khu ẩn cư được xây dựng tốt đẹp có gian nhà lá xinh xắn.”

108.Nghe theo lời của (Chúa Trời) Sakka, vị Vissakamma có đại thần lực đã khéo biến hóa ra một khu ẩn cư được xây dựng tốt đẹp có gian nhà lá xinh xắn.

109.Sau khi đã đi sâu vào khu rừng có ít tiếng động không có xáo trộn, bốn ngưi chúng tôi đã sống ở tại nơi ấy, phía bên trong ngọn núi.

110.Khi ấy, ta và Hoàng Hậu Maddī cùng với hai con là Jāli và Kaṇhājinā đã sống ở khu ẩn cư giúp nhau xóa tan nỗi niềm sầu muộn.

111.Trong khi chăm nom hai đứa trẻ, ta không có đơn độc ở khu ẩn cư. Nàng Maddī mang về trái cây; nàng ấy nuôi dưng ba người.

112.Khi ta đang sống ở trong khu rừng, có ngưi khách đi đưng đã đến gặp ta và đã cầu xin cả hai người con của ta là Jāli và Kaṇhājinā.

113.Khi trông thấy người cầu xin đi đến gần, sự mừng rỡ đã sanh khởi ở ta. Khi ấy, ta đã dắt cả hai ngưi con và đã trao tặng cho vị Bà-la-môn.

114.Khi ta dứt bỏ hai người con của chính bản thân cho vị Bà-la-môn Jūjaka, khi y trái đất với tràng hoa là khu rừng ở núi Sineru cũng đã rúng động.

115.Hơn thế nữa, (Chúa Trời) Sakka, sau khi ngự xuống với dáng vóc vị Bà-la-môn, đã cầu xin ta Hoàng Hậu Maddī là người vợ có giới hạnh và chung thủy.

116.Sau khi nắm lấy nàng Maddī  cánh tay và làm đầy hai bàn tay bụm lại với nưc, ta đã ban bố nàng Maddī cho vị ấy với tâm ý và tư duy hoan hỷ.

117.Khi nàng Maddī đang được bố thí, chư thiên ở cõi trời đã mừng rỡ. Khi ấy, trái đất với tràng hoa là khu rừng ở núi Sineru cũng đã rúng động.

118.Trong khi dứt bỏ (ngưi con trai) Jāli, người con gái Kaṇhājinā, và Hoàng Hậu Maddī người vợ chung thủy, ta đã không phải nghĩ ngợi với lý do chỉ là vì quả vị giác ngộ.

119.Cả hai người con không có bị ta ghét bỏ, Hoàng Hậu Maddī không có bị ta ghét bỏ, đối với ta quả vị Toàn Giác là yêu quý; vì thế ta đã bố thí những người thân yêu.

120.Vào một dịp khác nữa, khi hội ngộ cùng cha mẹ ở tại khu rừng bao la, trong khi bọn họ đang than khóc bi thảm nói về nỗi niềm hạnh phúc và khổ đau.

121.Do sự tôn kính, ta đã đến gặp song thân với sự hổ thẹn và ái ngại. Khi ấy trái đất với tràng hoa là khu rừng ở núi Sineru cũng đã rúng động.

122.Vào một dịp khác nữa, ta cùng với thân quyến đã lìa khỏi khu rừng bao la  và đi vào thành phố tráng lệ là kinh thành Jetuttara.

123.Khi ấy, bảy loại châu báu đã đổ xuống cơn mưa, có đám mây ln đã đ tuôn mưa. Lúc bấy giờ, trái đất với tràng hoa là khu rừng ở núi Sineru cũng đã rúng động.

124.Ngay cả trái đt vô tư này không nhận thức được nỗi niềm hạnh phúc và khổ đau, nó cũng đã rung chuyển bảy lần bởi vì năng lực bố thí của ta.

Hạnh của (đức Bồ-tát) Vessantara là phần thứ chín.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada