Atha attadaṇḍasuttaniddeso vuccate:

Giờ phần Diễn Giải Kinh ‘Uế Hạnh của Bản Thân’ được nói đến:  

Attadaṇḍā bhaya jātaṃ janaṃ passatha medhagaṃ, saṃvegaṃ kittayissāmi yathā saṃvijitaṃ mayā.

Sự sợ hãi sanh lên do uế hạnh của bản thân. Các ngươi hãy nhìn xem loài người đang gây gổ. Ta sẽ thuật lại  rạng thái chấn động đúng theo sự việc đã làm cho Ta bị chấn động

(XV) Kinh Chấp trượng (Sn 182)

Thế Tôn:

Từ người cầm các trượng,
Sợ hãi được sanh ra,
Hãy xem các loài người,
Trong khi đấu tranh nhau,
Ta sẽ nói sợ hãi,
Như Ta đã được biết.

(Kinh Tập, câu kệ 935)

Attadaṇḍā bhaya jātan ’ti - Daṇḍā ’ti tayo daṇḍā: kāyadaṇḍo vacīdaṇḍo manodaṇḍo. Tividhaṃ kāyaduccaritaṃ kāyadaṇḍo, catubbidhaṃ vacīduccaritaṃ vacīdaṇḍo, tividhaṃ manoduccaritaṃ manodaṇḍo. Bhayan ’ti dve bhayāni: diṭṭhadhammikañca bhayaṃ samparāyikañca bhayaṃ.

Sự sợ hãi sanh lên do uế hạnh của bản thân - Uế hạnh:  Có ba uế hạnh: uế hạnh về thân, uế hạnh về khẩu, uế hạnh về ý. Ba loại hành động xấu xa của thân là uế hạnh về thân, bốn loại hành động xấu xa của khẩu là uế hạnh về khẩu, ba loại hành động xấu xa của ý là uế hạnh về ý. Sự sợ hãi: Có hai sự sợ hãi: sợ hãi liên quan đời này và sợ hãi liên quan đời sau.

Katamaṃ diṭṭhadhammikaṃ bhayaṃ? Idhekacco kāyena duccaritaṃ carati, vācāya duccaritaṃ carati, manasā duccaritaṃ carati, pāṇampi hanti, adinnampi ādiyati, sandhimpi chindati, nillopampi harati, ekāgārikampi karoti, paripanthepi tiṭṭhati, paradārampi gacchati, musāpi bhaṇati. Tamenaṃ gahetvā rañño dassenti: ‘Ayaṃ deva coro āgucārī. Imassa yaṃ icchati, taṃ daṇḍaṃ paṇehī ’ti. Tamenaṃ rājā paribhāsati. So paribhāsapaccayā bhayaṃ uppādeti, dukkhaṃ domanassaṃ paṭisaṃvedeti. Etaṃ bhayaṃ dukkhaṃ domanassaṃ kuto tassa? Attadaṇḍato jātaṃ sañjātaṃ nibbattaṃ abhinibbattaṃ pātubhūtaṃ

Sợ hãi liên quan đời này là việc nào? Ở đây, một người nào đó làm hành động xấu xa bằng thân, làm hành động xấu xa bằng khẩu, làm hành động xấu xa bằng ý, giết hại mạng sống, lấy vật chưa được cho, đột nhập gia cư, mang đi vật cướp được, làm kẻ đạo tặc, đứng cướp đường, đi đến với vợ người khác, nói lời dối trá. Dân chúng sau khi bắt lấy kẻ ấy rồi trình lên đức vua: ‘Tâu bệ hạ, gã trộm cướp này là kẻ phạm tội. Đối với kẻ này, xin ngài hãy giáng hình phạt theo ý muốn. Đức vua mắng nhiếc kẻ ấy. Kẻ ấy, do duyên mắng nhiếc, khởi lên sự sợ hãi, cảm thọ khổ ưu. Sự sợ hãi, khổ, ưu này do đâu mà sanh lên cho kẻ ấy? Do uế hạnh của bản thân mà việc ấy đã sanh ra, đã sanh khởi, đã hạ sanh, đã phát sanh, đã xuất hiện. 

Ettakenapi rājā na tussati. Tamenaṃ rājā bandhāpeti andubandhanena vā rajjubandhanena vā saṅkhalikabandhanena vā vettabandhanena vā latābandhanena vā pakkhepa bandhanena vā parikkhepabandhanena vā gāmabandhanena vā nigamabandhanena vā nagarabandhanena vā raṭṭhabandhanena vā janapadabandhanena vā antamaso savacanīyampi karoti ‘na te labbhā ito pakkamitun ’ti. So bandhanapaccayāpi dukkhaṃ domanassaṃ paṭisaṃvedeti. Etaṃ bhayaṃ dukkhaṃ domanassaṃ kuto tassa? Attadaṇḍato jātaṃ sañjātaṃ nibbattaṃ abhinibbattaṃ pātubhūtaṃ.

Chỉ với chừng ấy, đức vua không được vui. Đức vua ra lệnh giam cầm kẻ ấy với việc trói bằng xiềng, hoặc trói bằng dây thừng, hoặc trói bằng dây xích, hoặc trói bằng dây mây, hoặc trói bằng dây leo, hoặc với việc giam trong hố, hoặc giam trong hào, hoặc giam trong làng, hoặc giam trong thị trấn, hoặc giam trong thành phố, hoặc giam trong quốc độ, hoặc giam trong xứ sở, thậm chí còn khuyên bảo rằng: ‘Ngươi không được phép ra khỏi nơi này.’ Kẻ ấy, do duyên giam cầm, cảm thọ khổ ưu. Sự sợ hãi, khổ, ưu này do đâu mà sanh lên cho kẻ ấy? Do uế hạnh của bản thân mà việc ấy đã sanh ra, đã sanh khởi, đã hạ sanh, đã phát sanh, đã xuất hiện.

Ettakenapi rājā na tussati. Rājā tassa dhanaṃ āharāpeti: sataṃ vā sahassaṃ vā satasahassaṃ vā. So dhanajānipaccayāpi dukkhaṃ domanassaṃ paṭisaṃvedeti. Etaṃ bhayaṃ dukkhaṃ domanassaṃ kuto tassa? Attadaṇḍato jātaṃ sañjātaṃ nibbattaṃ abhinibbattaṃ pātubhūtaṃ

Chỉ với chừng ấy, đức vua không được vui. Đức vua ra lệnh lấy đi tài sản của kẻ ấy: một trăm, một ngàn, hoặc một trăm ngàn. Kẻ ấy, do duyên mất mát tài sản, cảm thọ khổ ưu. Sự sợ hãi, khổ, ưu này do đâu mà sanh lên cho kẻ ấy? Do uế hạnh của bản thân mà việc ấy đã sanh ra, đã sanh khởi, đã hạ sanh, đã phát sanh, đã xuất hiện.

Ettakenapi rājā na tussati. Tamenaṃ rājā vividhā kammakaraṇā kārāpeti: kasāhipi tāḷeti, vettehipi tāḷeti, addha daṇḍakehipi tāḷeti, hatthampi chindati, pādampi chindati, hatthapādampi chindati, kaṇṇampi chindati, nāsampi chindati, kaṇṇanāsampi chindati, bilaṅgathālikampi karoti, saṅkhamuṇḍikampi karoti, rāhumukhampi karoti, jotimālikampi karoti, hatthapajjotikampi karoti, erakavattikampi karoti, cīrakavāsikampi karoti, eṇeyyakampi karoti, balisamaṃsikampi karoti, kahāpaṇikampi karoti, khārāpatacchikampi karoti, palighaparivattikampi karoti, palālapiṭṭhikampi karoti, tattenapi telena osiñcati, sunakhehipi khādāpeti, jīvantampi sūle uttāseti, asināpi sīsaṃ chindati. So kammakāraṇapaccayāpi dukkhaṃ domanassaṃ paṭisaṃvedeti. Etaṃ bhayaṃ dukkhaṃ domanassaṃ kuto tassa? Attadaṇḍato jātaṃ sañjātaṃ nibbattaṃ abhinibbattaṃ pātubhūtaṃ. Rājā imesaṃ catuṇṇaṃ daṇḍānaṃ issaro.

Chỉ với chừng ấy, đức vua không được vui. Đức vua ra lệnh nhiều loại hình phạt ở thân: đánh bằng các cây roi, đánh bằng các dây mây, đánh bằng các gậy ngắn, chặt bàn tay, chặt bàn chân, chặt bàn tay và bàn chân, cắt tai, xẻo mũi, cắt tai và xẻo mũi, đốt nóng đầu, lột da đầu bôi vôi, đốt lửa ở miệng, thiêu sống, đốt cháy ở bàn tay, lột da thành sợi, mặc y phục vỏ cây, kéo căng thân người ở trên đất, xiên da thịt bằng lưỡi câu, khoét thịt thành đồng tiền, chà xát với chất kiềm, quay tròn ở trên thập tự giá, ngồi ở ghế rơm, rưới bằng dầu sôi, cho những con chó gặm, đặt trên giáo nhọn, chặt đầu bằng gươm. Kẻ ấy, do duyên các hình phạt ở thân, cảm thọ khổ ưu. Sự sợ hãi, khổ, ưu này do đâu mà sanh lên cho kẻ ấy? Do uế hạnh của bản thân mà việc ấy đã sanh ra, đã sanh khởi, đã hạ sanh, đã phát sanh, đã xuất hiện. Đức vua là chúa tể của bốn hình phạt này.

So sakena kammena kāyassa bhedā parammaraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjati. Tamenaṃ nirayapālā pañcavidhabandhanaṃ nāma kāraṇaṃ kārenti, tattaṃ ayokhīlaṃ hatthe gamenti, tattaṃ ayokhīlaṃ8 dutiye hatthe gamenti, tattaṃ ayokhīlaṃ pāde gamenti, tattaṃ ayokhīlaṃ8 dutiye pāde gamenti, tattaṃ ayokhīlaṃ8 majjhe urasmiṃ gamenti. So tattha dukkhā kaṭukā tippā vedanā vedeti; na ca tāva kālaṃ karoti yāva na taṃ pāpaṃ kammaṃ byantīhoti. Etaṃ bhayaṃ dukkhaṃ domanassaṃ kuto tassa? Attadaṇḍato jātaṃ sañjātaṃ nibbattaṃ abinibbattaṃ pātubhūtaṃ.

Kẻ ấy, với nghiệp  của mình, do sự hoại rã của thân, do sự chết đi, bị sanh vào chốn bất hạnh, cõi khổ, nơi trừng phạt, địa ngục. Những người giữ địa ngục cho thực hiện hình phạt ‘trói buộc năm cách’ đối với kẻ ấy: Họ dùng cọc sắt đã được đốt nóng đóng vào ở bàn tay, họ dùng cọc sắt đã được đốt nóng đóng vào ở bàn tay thứ hai, họ dùng cọc sắt đã được đốt nóng đóng vào ở bàn chân, họ dùng cọc sắt đã được đốt nóng đóng vào ở bàn chân thứ hai, họ dùng cọc sắt đã được đốt nóng đóng vào ở giữa ngực. Kẻ ấy, ở tại nơi ấy, cảm nhận các thọ khổ, sắc bén, nhức nhối; nhưng kẻ ấy không thể chết đi chừng nào ác nghiệp ấy còn chưa chấm dứt. Sự sợ hãi, khổ, ưu này do đâu mà sanh lên cho kẻ ấy? Do uế hạnh của bản thân mà việc ấy đã sanh ra, đã sanh khởi, đã hạ sanh, đã phát sanh, đã xuất hiện.

Tamenaṃ nirayapālā saṃvesetvā kuṭhārīhi tacchenti. So tattha dukkhā tippā kaṭukā vedanā vedeti; na ca tāva kālaṃ karoti yāva na taṃ pāpaṃ kammaṃ byantīhoti. Tamenaṃ nirayapālā uddhapādaṃ adhosiraṃ gahetvā vāsīhi tacchenti. Tamenaṃ nirayapālā rathe yojetvā ādittāya paṭhaviyā sampajjalitāya sajotibhūtāya sārentipi paccāsārentipi ―pe― Tamenaṃ nirayapālā mahantaṃ aṅgārapabbataṃ ādittaṃ sampajjalitaṃ sajotibhūtaṃ āropentipi oropentipi –pe– Tamenaṃ nirayapālā uddhapādaṃ adhosiraṃ gahetvā tattāya lohakumbhiyā pakkhipanti ādittāya sampajjalitāya sajotibhūtāya. So tattha pheṇuddehakaṃ paccati. So tattha pheṇuddehakaṃ paccamāno sakimpi uddhaṃ gacchati, sakimpi adho gacchati, sakimpi tiriyaṃ gacchati. So tattha dukkhā tippā kaṭukā vedanā vedeti; na ca tāva kālaṃ karoti yāva na taṃ pāpaṃ kammaṃ byantīhoti. Etaṃ bhayaṃ dukkhaṃ domanassaṃ kuto tassa? Attadaṇḍato jātaṃ sañjātaṃ nibbattaṃ abhinibbattaṃ pātubhūtaṃ. Tamenaṃ nirayapālā mahāniraye pakkhipanti. So kho pana mahānirayo

Những người giữ địa ngục bắt kẻ ấy nằm xuống và dùng những cái rìu thái mỏng. Kẻ ấy, ở tại nơi ấy, cảm nhận các thọ khổ, sắc bén, nhức nhối; nhưng kẻ ấy không thể chết đi chừng nào ác nghiệp ấy còn chưa chấm dứt. Những người giữ địa ngục nắm lấy kẻ ấy, chân phía trên đầu phía dưới, và dùng những cái búa thái mỏng. Những người giữ địa ngục cột kẻ ấy vào cỗ xe rồi cho kéo tới kéo lui ở trên đất đã được đốt cháy, sáng rực, đỏ rực. –nt– Những người giữ địa ngục bắt kẻ ấy trèo lên, trèo xuống ở ngọn núi than hừng to lớn đã được đốt cháy, sáng rực, đỏ rực. –nt– Những người giữ địa ngục nắm lấy kẻ ấy, chân phía trên đầu phía dưới, rồi ném vào chảo đồng đã được đốt nóng, đốt cháy, sáng rực, đỏ rực. Kẻ ấy, ở tại nơi ấy, bị nung nấu ở bọt nước sôi sục. Kẻ ấy, ở tại nơi ấy, trong khi bị nung nấu ở bọt nước sôi sục, lúc thì nổi lên trên, lúc thì chìm xuống dưới, lúc thì trôi ngang. Kẻ ấy, ở tại nơi ấy, cảm nhận các thọ khổ, sắc bén, nhức nhối; nhưng kẻ ấy không thể chết đi chừng nào ác nghiệp ấy còn chưa chấm dứt. Sự sợ hãi, khổ, ưu này do đâu mà sanh lên cho kẻ ấy? Do uế hạnh của bản thân mà việc ấy đã sanh ra, đã sanh khởi, đã hạ sanh, đã phát sanh, đã xuất hiện. Những người giữ địa ngục ném kẻ ấy vào đại địa ngục. Quả vậy, đại địa ngục ấy là:

1. Catukkaṇṇo catudvāro vibhatto bhāgaso mito, ayopākārapariyanto ayasā paṭikujjito.

1. (Đại địa ngục) có bốn góc, có bốn cửa lớn, được chia thành các phần cân đối, được bao quanh bằng tường sắt, được đậy lại bằng mái sắt.

2. Tassa ayomayā bhūmi jalitā tejasā yutā, samantā yojanasata pharitvā tiṭṭhati sabbadā.

2. Nền của (đại địa ngục) làm bằng sắt, được thiêu đốt, cháy với lửa ngọn, luôn luôn tỏa khắp và tồn tại xung quanh một trăm do-tuần.

3. Kadariyā tapanā ghorā accimanto durāsadā, lomahasanarūpā ca bhismā paibhayā dukhā.

3. (Các đại địa ngục) có sự đốt nóng khổ sở, ghê rợn, có ngọn lửa khó lại gần, có hình dạng làm rởn lông, ghê rợn, gây ra sự sợ hãi, khó chịu.

4. Puratthimāya ca bhittiyā accikkhandho samuṭṭhito, dahanto pāpakammante pacchimāya paṭihaññati.

4. Khối lửa được phát khởi ở bức tường hướng đông, trong khi thiêu đốt những kẻ có ác nghiệp, đi đến chạm vào (khối lửa) ở hướng tây.

5. Pacchimāya ca bhittiyā accikkhandho samuṭṭhito, dahanto pāpakammante puratthimāya paṭihaññati.

5. Khối lửa được phát khởi ở bức tường hướng tây, trong khi thiêu đốt những kẻ có ác nghiệp, đi đến chạm vào (khối lửa) ở hướng đông.

6. Uttarāya ca bhittiyā accikkhandho samuṭṭhito, dahanto pāpakammante dakkhiāya paṭihaññati.

6. Khối lửa được phát khởi ở bức tường hướng bắc, trong khi thiêu đốt những kẻ có ác nghiệp, đi đến chạm vào (khối lửa) ở hướng nam.

7. Dakkhiṇāya ca bhittiyā accikkhandho samuṭṭhito. dahanto pāpakammante uttarāya paṭihaññati.

7. Khối lửa được phát khởi ở bức tường hướng nam, trong khi thiêu đốt những kẻ có ác nghiệp, đi đến chạm vào (khối lửa) ở hướng bắc.

8. Heṭṭhato ca samuṭṭhāya accikkhandho bhayānako, dahanto pāpakammante chadanasmiṃ paṭihaññati.

8. Khối lửa khủng khiếp phát xuất từ bên dưới, trong khi thiêu đốt những kẻ có ác nghiệp, đi đến chạm vào (khối lửa) ở mái che (bên trên).

9. Chadanamhā samuṭṭhāya accikkhandho bhayānako, dahanto pāpakammante bhūmiyaṃ paṭihaññati.

9. Khối lửa khủng khiếp phát xuất từ mái che, trong khi thiêu đốt những kẻ có ác nghiệp, đi đến chạm vào (khối lửa) ở mặt đất (bên dưới).

10. Ayokapālamādittaṃ santattaṃ jalitaṃ yathā, eva avīcinirayo heṭṭhā upari passato.

10. Cái chảo sắt đã được đốt cháy, nóng đỏ, sáng chói như thế nào thì địa ngục Avīci, ở bên dưới, bên trên, và bên hông là như vậy.

11. Tattha sattā mahāluddā mahākibbisakārino, accantapāpakammantā paccanti na ca miyyare.

11. Ở nơi ấy, những chúng sanh vô cùng hung dữ, đã gây ra trọng tội, có hành động cực kỳ ác độc, bị nung nấu và không thể chết đi.

12. Jātavedasamo kāyo tesa nirayavāsina. passa kammānaṃ daḷhattaṃ na bhasmā hoti na masi.

12. Thân thể của họ, những cư dân ở địa ngục, giống như ngọn lửa. Hãy nhìn xem tính chất vững bền của nghiệp, không như tro, không như bụi.

13. Puratthimenapi dhāvanti tato dhāvanti pacchima, uttarenapi dhāvanti tato dhāvanti dakkhiṇaṃ.

13. Họ chạy về hướng đông, rồi từ đó chạy về hướng tây. Họ chạy về hướng bắc, rồi từ đó họ chạy về hướng nam.

14. Yaṃ yaṃ disaṃ padhāvanti taṃ taṃ dvāra pithīyati, abhinikkhamitāsā te sattā mokkhagavesino.

14. Họ chạy đến bất cứ hướng nào, cánh cửa hướng ấy đều được đóng lại. Với niềm mong mỏi được thoát ra, các chúng sanh ấy có sự tìm kiếm lối thoát.

15. Na te tato nikkhamituṃ labhanti kammapaccayā, tesa ca pāpakammantaṃ avipakkaṃ kataṃ bahun ”ti

15. Họ không thể đi ra khỏi nơi ấy bởi vì nghiệp duyên, khi ác nghiệp của họ đã tạo có nhiều và còn chưa trả xong.

Etaṃ bhayaṃ dukkhaṃ domanassaṃ kuto tassa? Attadaṇḍato jātaṃ sañjātaṃ nibbattaṃ abhinibbattaṃ pātubhūtaṃ. Yāni ca nerayikāni dukkhāni yāni ca tiracchānayonikāni dukkhāni yāni ca pettivisayikāni dukkhāni yāni ca mānusikāni dukkhāni, tāni kuto jātāni, kuto sañjātāni, kuto nibbattāni, kuto abhinibbattāni, kuto pātubhūtāni? Attadaṇḍato jātāni sañjātāni nibbattāni abhinibbattāni pātubhūtānī ’ti – attadaṇḍā bhayaṃ jātaṃ.

Sự sợ hãi, khổ, ưu này do đâu mà sanh lên cho kẻ ấy? Do uế hạnh của bản thân mà việc ấy đã sanh ra, đã sanh khởi, đã hạ sanh, đã phát sanh, đã xuất hiện. Những khổ đau ở địa ngục, những khổ đau ở thai bào của loài thú, những khổ đau ở cảnh giới ngạ quỷ, những khổ đau của loài người, những khổ đau ấy do đâu sanh ra, do đâu sanh khởi, do đâu hạ sanh, do đâu phát sanh, do đâu xuất hiện? Do uế hạnh của bản thân mà chúng đã sanh ra, đã sanh khởi, đã hạ sanh, đã phát sanh, đã xuất hiện; – ‘Sự sợ hãi sanh lên do uế hạnh của bản thân’ là như thế.

Janaṃ passatha medhagan ’ti – khattiyā ca brāhmaṇā ca vessā ca suddā ca gahaṭṭhā ca pabbajitā ca devatā ca manussā ca medhagaṃ janaṃ kalahaṃ janaṃ viruddhaṃ janaṃ paṭiviruddhaṃ janaṃ āhataṃ janaṃ paccāhataṃ janaṃ āghātitaṃ janaṃ paccāghātitaṃ janaṃ passatha dakkhatha oloketha nijjhāyetha upaparikkhathā ’ti - janaṃ passatha medhagaṃ.

Các ngươi hãy nhìn xem loài người đang gây gổ – Các Sát-đế-lỵ, các Bà-la-môn, các thương buôn, các nô lệ, các người tại gia, các vị xuất gia, chư Thiên, và nhân loại, các ngươi hãy nhìn xem, hãy nhìn ngắm, hãy quan sát, hãy suy xét, hãy xem xét loài người đang gây gỗ, loài người đang cãi cọ, loài người đang chống đối, loài người đang đối chọi, loài người đang hằn học, loài người đang thù hằn, loài người đang căm hờn, loài người đang thù hận; – ‘các ngươi hãy nhìn xem loài người đang gây gổ’ là như thế.

Saṃvegaṃ kittayissāmī ’ti - Saṃvegaṃ ubbegaṃ utrāsaṃ bhayaṃ pīḷanaṃ ghaṭṭanaṃ upaddavaṃ upassaggaṃ. Kittayissāmī ’ti pakittayissāmi ācikkhissāmi desissāmi paññapissāmi paṭṭhapissāmi vicarissāmi vibhajissāmi uttānīkarissāmi pakāsissamī ’ti - saṃvegaṃ kittayissāmi.

Ta sẽ thuật lại trạng thái chấn động – Trạng thái chấn động là sự hốt hoảng, sự khiếp sợ, sự sợ hãi, sự hành hạ, sự va chạm, sự bất hạnh, sự nguy hiểm. Ta sẽ thuật lại: Ta sẽ bộc lộ, Ta sẽ nêu ra, Ta sẽ thuyết giảng, Ta sẽ thông báo, Ta sẽ ấn định, Ta sẽ khai mở, Ta sẽ chia sẻ, Ta sẽ làm rõ, Ta sẽ bày tỏ; – ‘Ta sẽ thuật lại trạng thái chấn động’ là như thế.

Yathā saṃvijitaṃ mayā ’ti - Yathā mayā attanāyeva attā saṃvejito ubbejito saṃvegamāpādito ’ti - yathā saṃvijitaṃ mayā.

Đúng theo sự việc đã làm cho Ta bị chấn động – Đúng theo sự việc đã làm cho chính bản thân Ta bị chấn động, bị hốt hoảng, bị đưa đến trạng thái chấn động; – ‘đúng theo sự việc đã làm cho Ta bị chấn động’ là như thế.

Tenāha bhagavā: "Attadaṇḍā bhaya jātaṃ janaṃ passatha medhagaṃ, saṃvegaṃ kittayissāmi yathā saṃvijitaṃ mayā ”ti.

 Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:  “Sự sợ hãi sanh lên do uế hạnh của bản thân. Các ngươi hãy nhìn xem loài người đang gây gổ. Ta sẽ thuật lại trạng thái chấn động đúng theo sự việc đã làm cho Ta bị chấn động.”

Phandamānaṃ pajaṃ disvā macche appodake yathā, aññamaññehi byāruddhe disvā ma bhayamāvisi. 

Sau khi nhìn thấy nhân loại đang chao động tựa như những con cá ở chỗ ít nước, sau khi nhìn thấy chúng chống đối lẫn nhau, sự sợ hãi đã xâm nhập Ta

Thấy loài, người vùng vẫy,
Như cá trong nước cạn,
Thấy họ chống đối nhau,
Ta rơi vào sợ hãi.

(Kinh Tập, câu kệ 936)

Phandamānaṃ pajaṃ disvā ’ti - Pajā ’ti sattādhivacanaṃ. Pajaṃ taṇhāphandanāya phandamānaṃ, diṭṭhiphandanāya phandamānaṃ, kilesaphandanāya phandamānaṃ, duccaritaphandanāya phandamānaṃ, payogaphandanāya phandamānaṃ, vipākaphandanāya phandamānaṃ, rattaṃ rāgena phandamānaṃ, duṭṭhaṃ dosena phandamānaṃ, mūḷhaṃ mohena phandamānaṃ, vinibaddhaṃ mānena phandamānaṃ, parāmaṭṭhaṃ diṭṭhiyā phandamānaṃ, vikkhepagataṃ uddhaccena phandamānaṃ, aniṭṭhāgataṃ vicikicchāya phandamānaṃ, thāmagataṃ anusayehi phandamānaṃ, lābhena phandamānaṃ, alābhena phandamānaṃ, yasena phandamānaṃ, ayasena phandamānaṃ, pasaṃsāya phandamānaṃ, nindāya phandamānaṃ, sukhena phandamānaṃ, dukkhena phandamānaṃ, jātiyā phandamānaṃ, jarāya phandamānaṃ, byādhinā phandamānaṃ, maraṇena phandamānaṃ, soka-parideva-dukkha-domanassūpāyāsehi phandamānaṃ, nerayikena dukkhena phandamānaṃ, tiracchānayonikena dukkhena phandamānaṃ, pettivisayikena dukkhena phandamānaṃ, –– mānusikena dukkhena phandamānaṃ, gabbhokkantimūlakena dukkhena – gabbhaṭṭhitimūlakena dukkhena – gabbhavuṭṭhānamūlakena dukkhena – jātassūpanibandhakena dukkhena – jātassa parādheyyakena dukkhena attūpakkamena dukkhena – parūpakkamena dukkhena – dukkhadukkhena saṅkhāradukkhena – vipariṇāmadukkhena – cakkhurogena dukkhena sotarogena – ghānarogena – jivhārogena – kāyarogena – sīsarogena – kaṇṇarogena – mukharogena – dantarogena – kāsena – pināsena – ḍahena – jarena – kucchirogena – mucchāya – pakkhandikāya – sūlāya – visūcikāya – kuṭṭhena – gaṇḍena – kilāsena – sosena – apamārena – dadduyā – kaṇḍuyā – kacchuyā – nakhasāya – vitacchikāya – lohitapittena – madhumehena – aṃsāya – piḷakāya – bhagandalena – pittasamuṭṭhānena ābādhena – semhasamuṭṭhānena ābādhena – vātasamuṭṭhānena ābādhena – sannipātikena ābādhena – utupariṇāmajena ābādhena – visamaparihārajena ābādhena – opakkamikena ābādhena – kammavipākajena ābādhena – sītena – uṇhena – jighacchāya – pipāsāya – uccārena – passāvena – ḍaṃsamakasavātātapasiriṃsapa -samphassena dukkhena – mātumaraṇena dukkhena – pitumaraṇena dukkhena – bhātumaraṇena dukkhena – bhaginimaraṇena dukkhena – puttamaraṇena dukkhena – dhītumaraṇena dukkhena – ñātimaraṇena dukkhena – bhogavyasanena dukkhena – rogavyasanena dukkhena – sīlavyasanena dukkhena – diṭṭhivyasanena dukkhena phandamānaṃ samphandamānaṃ viphandamānaṃ vedhamānaṃ pavedhamānaṃ sampavedhamānaṃ. Disvā ’ti disvā passitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā ’ti – phandamānaṃ pajaṃ disvā.

Macche appodake yathā ’ti - Yathā macchā appodake udakapariyādāne kākehi vā kulalehi vā balākāhi vā paripātiyamāni ukkhipiyamānā khajjamānā phandanti samphandanti vipphandanti vedhanti pavedhanti sampavedhanti; evamevaṃ pajā taṇhāphandanāya phandanti ―pe― diṭṭhivyasanena dukkhena phandanti samphandanti vipphandanti vedhanti pavedhanti sampavedhantī14 ’ti - macche appodake yathā.

Aññamaññehi byāruddhe ’ti - Aññamaññaṃ sattā viruddhā paṭiviruddhā āhatā paccāhatā āghātitā paccāghātitā rājānopi rājūhi vivadanti, khattiyāpi khattiyehi vivadanti, brāhmaṇāpi brāhmaṇehi vivadanti, gahapatīpi gahapatīhi vivadanti, mātāpi puttena vivadati, puttopi mātarā vivadati, pitāpi puttena vivadati, puttopi pitarā vivadati, bhātāpi bhātarā vivadati, bhaginīpi bhaginiyā vivadati, bhātāpi bhaginiyā vivadati –– bhaginīpi bhātarā vivadati, sahāyopi sahāyena vivadati. Te tattha kalahaviggahavivādāpannā aññamaññaṃ pāṇīhipi upakkamanti, leḍḍūhipi upakkamanti, daṇḍehipi upakkamanti, satthehipi upakkamanti. Te tattha maraṇampi nigacchanti, maraṇamattampi dukkhan ’ti - aññamaññehi byāruddhe.

Disvā ma bhayamāvisī ’ti - Disvā ’ti disvā passitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā bhayaṃ pīḷanaṃ ghaṭṭanaṃ upaddavo upassaggo āvisī ’ti - disvā maṃ bhayamāvisi.

Tenāha bhagavā: “Phandamānaṃ pajaṃ disvā macche appodake yathā, aññamaññehi byāruddhe disvā ma bhayamāvisī ”ti. 

Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Sau khi nhìn thấy nhân loại đang chao động tựa như những con cá ở chỗ ít nước, sau khi nhìn thấy chúng chống đối lẫn nhau, sự sợ hãi đã xâm nhập Ta.”

Samantamasāro loko disā sabbā sameritā, iccha bhavanamattano nāddasāsiṃ anositaṃ.

Toàn bộ thế giới là không có cốt lõi, tất cả các phương đều bị chuyển động. Trong khi ước muốn chỗ trú ngụ cho bản thân, Ta đã không nhìn thấy (một nơi nào là) không bị áp chế.

Ðời toàn không lõi cây,
Mọi phương đu dao động
Muốn cho mình ngôi nhà,
Ta không thấy nhà ở.

(Kinh Tập, câu kệ 937)

Samantamasāro loko ’ti - Loko ’ti nirayaloko tiracchānayoniloko pettivisayaloko manussaloko devaloko khandhaloko dhātuloko āyatanaloko ayaṃ loko paro loko brahmaloko devaloko; ayaṃ vuccati loko. Nirayaloko asāro nissāro sārāpagato niccasārasārena vā sukhasārasārena vā attasārasārena vā niccena vā dhuvena vā sassatena vā avipariṇāmadhammena vā. Tiracchānāyoniloko – pettivisayaloko6 – manussaloko – devaloko – khandhaloko – dhātuloko – āyatanaloko – ayaṃ loko paro loko brahmaloko – devaloko asāro nissāro sārāpagato niccasārasārena vā sukhasārasārena vā attasārasārena vā niccena vā dhuvena vā sassatena vā avipariṇāmadhammena vā.
 
Yathā pana naḷo asāro nissāro sārāpagato, yathā eraṇḍo asāro nissāro sārāpagato, yathā udumbaro asāro nissāro sārāpagato, yathā setakaccho asāro nissāro sārāpagato, yathā pāribhaddako asāro nissāro sārāpagato, yathā pheṇapiṇḍo asāro nissāro sārāpagato, yathā udakabubbuḷakaṃ asāraṃ nissāraṃ sārāpagataṃ, yathā marīci asāro nissāro sārāpagato, yathā kadalikkhandho asāro nissāro sārāpagato, yathā māyā asārā nissārā sārāpagatā, evameva nirayaloko asāro nissāro sārāpagato niccasārasārena vā sukhasārasārena vā attasārasārena vā niccena vā dhuvena vā sassatena vā avipariṇāmadhammena vā; –– tiracchānayoniloko – pettivisayaloko manussaloko – devaloko asāro nissāro sārāpagato niccasārasārena vā sukhasārasārena vā attasārasārena vā niccena vā dhuvena vā sassatena vā avipariṇāmadhammena vā. Khandhaloko – dhātuloko – āyatanaloko – ayaṃ loko – paro loko – brahmaloko – devaloko asāro nissāro sārāpagato niccasārasārena vā sukhasārasārena vā attasārasārena vā niccena vā dhuvena vā sassatena vā avipariṇāmadhammena vā ’ti - samantamasāro loko.

Disā sabbā sameritā ’ti - Ye puratthimāya disāya saṅkhārā, tepi eritā sameritā calitā ghaṭṭitā aniccatāya, jātiyā anugatā, jarāya anusaṭā, byādhinā abhibhūtā, maraṇena abbhāhatā, dukkhe patiṭṭhitā, atāṇā alenā asaraṇā asaraṇībhūtā. Ye pacchimāya disāya saṅkhārā – Ye uttarāya disāya saṅkhārā – Ye dakkhiṇāya disāya saṅkhārā – Ye puratthimāya anudisāya saṅkhārā – Ye pacchimāya anudisāya saṅkhārā – Ye uttarāya anudisāya saṅkhārā – Ye dakkhiṇāya anudisāya saṅkhārā – Ye heṭṭhimāya disāya saṅkhārā – Ye uparimāya disāya saṅkhārā – Ye dasasu disāsu saṅkhārā, tepi eritā sameritā calitā ghaṭṭitā aniccatāya, jātiyā anugatā, jarāya anusaṭā, byādhinā abhibhūtā, maraṇena abbhāhatā dukkhe patiṭṭhitā, atāṇā alenā asaraṇā asaraṇībhūtā.

Bhāsitampi cetaṃ: 1. “Kiñcāpi teta jalate vimāna obhāsayaṃ uttarassaṃ disāya, rūpe raṇaṃ disvā sadā pavedhita tasmā na rūpe ramatī sumedho.”

Và điều này cũng đã được nói đến: 1. “Mặc dầu cung điện ấy của ngài rực sáng, trong khi đang chiếu sáng ở phương bắc. Sau khi nhìn thấy khuyết tật ở sắc, luôn luôn biến đổi, vì thế, bậc Thiện Trí không vui thích ở sắc.”

2. “Maccunābbhāhato loko jarāya parivārito, tahāsallena otiṇṇo icchādhūmāyito sadā.”

2. “Thế gian bị hành hạ bởi sự chết, bị bao trùm bởi sự già, bị đâm vào bởi mũi tên tham ái, luôn luôn cháy âm ỉ bởi ước muốn.”

3. “Sabbo ādīpito loko sabbo loko padhūpito, sabbo pajjalito loko sabbo loko pakampito ”ti; – disā sabbā sameritā

3. Toàn bộ thế giới bị đốt cháy, toàn bộ thế giới bị bốc khói, toàn bộ thế giới bị phát cháy, toàn bộ thế giới bị lay động.” – ‘tất cả các phương đều bị chuyển động’ là như thế.  

Icchaṃ bhavanamattano ’ti - Attano bhavanaṃ tāṇaṃ lenaṃ saraṇaṃ gatiṃ parāyanaṃ icchanto sādiyanto patthayanto pihayanto abhijappanto ’ti - icchaṃ bhavanamattano.

Nāddasāsiṃ anositan ’ti - Ajjhositaṃ yeva addasaṃ, anajjhositaṃ nāddasaṃ. Sabbaṃ yobbaññaṃ jarāya ositaṃ, sabbaṃ ārogyaṃ byādhinā ositaṃ, sabbaṃ jīvitaṃ maraṇena ositaṃ, sabbaṃ lābhaṃ alābhena ositaṃ, sabbaṃ yasaṃ ayasena ositaṃ, sabbaṃ pasaṃsaṃ nindāya ositaṃ, sabbaṃ sukhaṃ dukkhena ositaṃ.

4. “Lābho alābho ayaso yaso ca nindā pasasā ca sukhaṃ dukhañca, ete aniccā manujesu dhammā asassatā vipariāmadhammā ”ti; – nāddasāsiṃ anositaṃ.

4. “Lợi lộc và không lợi lộc, không danh tiếng và danh tiếng, khen ngợi và chê bai, hạnh phúc và khổ đau,các pháp này ở nơi loài người là vô thường, không trường tồn, có tánh chất biến đổi;”

– ‘Ta đã không nhìn thấy (một nơi nào là) không bị áp chế’ là như thế.

Tenāha bhagavā: “Samantamasāro loko disā sabbā sameritā, iccha bhavanamattano nāddasāsiṃ anositan ”ti. 

Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:  “Toàn bộ thế giới là không có cốt lõi, tất cả các phương đều bị chuyển động.Trong khi ước muốn chỗ trú ngụ cho bản thân, Ta đã không nhìn thấy (một nơi nào là) không bị áp chế.”

Osāne tveva byāruddhe disvā me aratī ahu, athettha sallamaddakkhiṃ duddasaṃ hadayassitaṃ.

Nhưng sau khi nhìn thấy chúng chống chõi ở giai đoạn kết thúc, sự chán ngán đã khởi lên ở Ta. Và ở đây, Ta đã nhìn thấy mũi tên khó thể nhìn thấy đã được cắm vào trái tim (tâm thức)

Cuối cùng là xung đột,
Thấy vậy Ta chán ngắt,
Ðây Ta thấy mũi tên,
Khó thấy, gắn vào tim.

(Kinh Tập, câu kệ 938)

Osāne tveva byāruddhe ’ti - Osāne tvevā ’ti sabbaṃ yobbaññaṃ jarā osāpeti; sabbaṃ ārogyaṃ byādhi osāpeti; sabbaṃ jīvitaṃ maraṇaṃ osāpeti; sabbaṃ lābhaṃ alābho osāpeti; sabbaṃ yasaṃ ayaso osāpeti; sabbaṃ pasaṃsaṃ nindā osāpeti; sabbaṃ sukhaṃ dukkhaṃ osāpetī ’ti – osāne tveva. Byāruddhe ’ti yobbaññakāmā sattā jarāya paṭiviruddhā; ārogyakāmā sattā byādhinā paṭiviruddhā; jīvitukāmā sattā maraṇena paṭiviruddhā; lābhakāmā sattā alābhena paṭiviruddhā; yasakāmā sattā ayasena paṭiviruddhā; pasaṃsākāmā sattā nindāya paṭiviruddhā; sukhakāmā sattā dukkhena paṭiviruddhā āhatā paccāhatā āghātitā paccāghātitā ’ti – osāne tveva byāruddhe.

Disvā me aratī ahū ’ti - Disvā ’ti disvā passitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā ’ti – disvā. Me aratī ’ti yā arati yā anabhirati yā anabhiramaṇā yā ukkaṇṭhitatā yā paritasitā ahū ’ti – disvā me aratī ahu.

Athettha sallamaddakkhin ’ti - Athā ’ti padasandhi –pe– padānupubbatā metaṃ athāti. Etthā ’ti sattesu. Sallan ’ti satta sallāni: rāgasallaṃ dosasallaṃ mohasallaṃ mānasallaṃ diṭṭhisallaṃ sokasallaṃ kathaṅkathāsallaṃ. Addakkhin ’ti addasaṃ adakkhiṃ apassiṃ paṭivijjhin ’ti – athettha sallamaddakkhiṃ.

Duddasaṃ hadayassitan ’ti - Duddasan ’ti duddasaṃ duddakkhaṃ duppassaṃ dubbujjhaṃ duranubujjhaṃ duppaṭivijjhan ’ti – duddasaṃ. Hadayassitan ’ti hadayaṃ vuccati cittaṃ; yaṃ cittaṃ mano mānasaṃ hadayaṃ paṇḍaraṃ mano manāyatanaṃ manindriyaṃ viññāṇaṃ viññāṇakkhandho tajjā manoviññāṇadhātu; hadayassitaṃ hadayanissitaṃ cittasitaṃ cittanissitaṃ cittena sahajātaṃ sahagataṃ saṃsaṭṭhaṃ sampayuttaṃ ekuppādaṃ ekanirodhaṃ ekavatthukaṃ ekārammaṇan ’ti – duddasaṃ hadayassitaṃ.

Tenāha bhagavā: “Osāne tveva byāruddhe disvā me aratī ahu, athettha sallamaddakkhiṃ duddasaṃ hadayassitan ”ti.

 Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Nhưng sau khi nhìn thấy chúng chống chõi ở giai đoạn kết thúc, sự chán ngán đã khởi lên ở Ta. Và ở đây, Ta đã nhìn thấy mũi tên khó thể nhìn thấy đã được cắm vào trái tim (tâm thức).” 

Yena sallena otiṇṇo disā sabbā vidhāvati, tameva sallamabbuyha na dhāvati na sīdati.

Ai bị mũi tên đâm,
Chạy khắp mọi phương hướng,
Ai rút mũi tên ra,
Không chạy, liền ngồi xuống.

(Kinh Tập, câu kệ 939)

Yena sallena otiṇṇo disā sabbā vidhāvatī ’ti - Sallan ’ti satta sallāni: rāgasallaṃ dosasallaṃ mohasallaṃ mānasallaṃ diṭṭhisallaṃ sokasallaṃ kathaṅkathāsallaṃ.

Katamā rāgasallaṃ? Yo rāgo sārāgo anunayo anurodho nandirāgo cittassa sārāgo –pe– abhijjhā lobho akusalamūlaṃ; idaṃ rāgasallaṃ.

Katamaṃ dosasallaṃ? Anatthaṃ me acarīti āghāto jāyati, anatthaṃ me caratīti āghāto jāyati, anatthaṃ me carissatī ’ti āghāto jāyati –pe– caṇḍikkaṃ asuropo anattamanatā cittassa; idaṃ dosasallaṃ.

Katamaṃ mohasallaṃ? Dukkhe aññāṇaṃ –pe– dukkhanirodhagāminiyā paṭipadāya aññāṇaṃ, pubbante aññāṇaṃ, aparante aññāṇaṃ, pubbantāparante aññāṇaṃ, idappaccayatāpaṭiccasamuppannesu dhammesu aññāṇaṃ, yaṃ evarūpaṃ adassanaṃ anabhisamayo ananubodho asambodho appaṭivedho asaṅgāhanā apariyogāhanā asamapekkhanā apaccavekkhanā apaccakkhakammaṃ dummejjhaṃ bālyaṃ moho pamoho sammoho avijjā avijjogho avijjāyogo avijjānusayo avijjāpariyuṭṭhānaṃ avijjālaṅgī moho akusalamūlaṃ; idaṃ mohasallaṃ.   

Katamaṃ mānasallaṃ? Seyyohamasmīti māno, sadisohamasmīti māno, hīnohamasmīti māno; yo evarūpo māno maññanā maññitattaṃ unnati unnamo dhajo sampaggāho ketukamyatā cittassa; idaṃ mānasallaṃ

Katamaṃ diṭṭhisallaṃ? Vīsativatthukā sakkāyadiṭṭhi, dasavatthukā micchādiṭṭhi, dasavatthukā antaggāhikā diṭṭhi; yā evarūpā diṭṭhi diṭṭhigataṃ diṭṭhigahanaṃ diṭṭhikantāro diṭṭhivisūkāyikaṃ diṭṭhivipphanditaṃ diṭṭhisaññojanaṃ gāho patiṭṭhāho abhiniveso parāmāso kummaggo micchāpatho micchattaṃ titthāyatanaṃ vipariyesagāho viparītagāho vipallāsagāho micchāgāho ayāthāvatasmiṃ yāthāvatanti gāho yāvatā dvāsaṭṭhi diṭṭhigatāni; idaṃ diṭṭhisallaṃ. 

Katamaṃ sokasallaṃ? Ñātivyasanena vā phuṭṭhassa bhogavyasanena vā phuṭṭhassa rogavyasanena vā phuṭṭhassa sīlavyasanena vā phuṭṭhassa diṭṭhivyasanena vā phuṭṭhassa aññataraññatarena vyasanena samannāgatassa aññataraññatarena dukkhadhammena phuṭṭhassa soko socanā socitattaṃ antosoko antoparisoko antodāho antoparidāho cetaso parijjhāyanā domanassaṃ ; idaṃ sokasallaṃ.

Katamaṃ kathaṅkathāsallaṃ? Dukkhe kaṅkhā dukkhasamudaye kaṅkhā dukkhanirodhe kaṅkhā dukkhanirodhagāminiyā paṭipadāya kaṅkhā pubbante kaṅkhā aparante kaṅkhā pubbantāparante kaṅkhā idappaccayatāpaṭiccasamuppannesu dhammesu kaṅkhā, yā evarūpā kaṅkhā kaṅkhāyanā kaṅkhāyitattaṃ vimati vicikicchā dveḷhakaṃ dvedhāpatho saṃsayo anekaṃsagāho āsappanā parisappanā apariyogāhanā chambhitattaṃ cittassa manovilekho; idaṃ kathaṅkathāsallaṃ.

Yena sallena otiṇṇo disā sabbā vidhāvatī ’ti - Rāgasallena otiṇṇo viddho phuṭṭho pareto samohito samannāgato kāyena duccaritaṃ carati, vācāya duccaritaṃ carati, manasā duccaritaṃ carati, pāṇampi hanti, adinnampi ādiyati, sandhimpi chindati, nillopampi harati, ekāgārikampi karoti, paripanthepi tiṭṭhati, paradārampi gacchati, musāpi bhaṇati. Evampi rāgasallena otiṇṇo viddho phuṭṭho pareto samohito samannāgato dhāvati vidhāvati saṃdhāvati saṃsarati. Athavā rāgasallena otiṇṇo viddho puṭṭho pareto samohito samannāgato bhoge pariyesanto nāvāya mahāsamuddaṃ pakkhandati: sītassa purakkhato uṇhassa purakkhato ḍaṃsamakasavātātapasiriṃsapasamphassehi rissamāno khuppipāsāhi mīyamāno tigumbaṃ gacchati, takkolaṃ gacchati, takkasilaṃ gacchati, kālamukhaṃ gacchati, parammukhaṃ gacchati, vesuṅgaṃ gacchati, verāpathaṃ gacchati, javaṃ gacchati, tāmaliṃ gacchati, vaṅgaṃ gacchati, eḷavaddhanaṃ gacchati, suvaṇṇakūṭaṃ gacchati, suvaṇṇabhūmiṃ gacchati, tambapaṇṇiṃ gacchati, suppārakaṃ gacchati, bharukacchaṃ gacchati, suraṭṭhaṃ gacchati, aṅgalokaṃ gacchati, gaṅgaṇaṃ gacchaṃ, paramagaṅgaṇaṃ gacchati, yonaṃ gacchati, paramayonaṃ gacchati, navakaṃ gacchati, mūlapadaṃ gacchati, marukantāraṃ gacchati, jaṇṇupathaṃ gacchati, ajapathaṃ gacchati, meṇḍapathaṃ gacchati, saṅkupathaṃ gacchati, chattapathaṃ gacchati, vaṃsapathaṃ gacchati, sakuṇapathaṃ gacchati, mūsikapathaṃ gacchati, darīpathaṃ gacchati, vettādhāraṃ gacchati. Pariyesanto na labhati, alābhamūlakampi dukkhaṃ domanassaṃ paṭisaṃvedeti. Pariyesanto labhati, laddhā ārakkhamūlakampi dukkhaṃ domanassaṃ paṭisaṃvedeti: ‘Kinti me bhoge neva rājāno hareyyuṃ, na corā hareyyuṃ, na aggi daheyya, na udakaṃ vaheyya, na appiyā dāyādā hareyyun ’ti? Tassa evaṃ ārakkhato gopayato te bhogā vippalujjanti. So vippayogamūlakampi dukkhaṃ domanassaṃ paṭisaṃvedeti. Evampi rāgasallena otiṇṇo viddho phuṭṭho pareto samohito samannāgato dhāvati vidhāvati saṃdhāvati saṃsarati.

Dosasallena – mohasallena – mānasallena otiṇṇo viddho phuṭṭho pareto samohito samannāgato kāyena duccaritaṃ carati, vācāya duccaritaṃ carati, manasā duccaritaṃ carati, pāṇampi hanti, adinnampi ādiyati, sandhimpi chindati, nillopampi harati, ekāgārikampi karoti, paripanthepi tiṭṭhati, paradārampi gacchati, musāpi bhaṇati. Evaṃ mānasallena otiṇṇo viddho phuṭṭho pareto samohito samannāgato dhāvati vidhāvati sandhāvati saṃsarati.

Diṭṭhisallena otiṇṇo viddho phuṭṭho pareto samohito samannāgato acelako hoti muttācāro hatthāpalekhano, na ehibhadantiko, na tiṭṭhabhadantiko, nābhihaṭaṃ na uddissa kataṃ na nimantanaṃ sādiyati. So na kumbhimukhā patigaṇhāti, na khaḷopimukhā patigaṇhāti, na eḷakamantaraṃ na daṇḍamantaraṃ na musalamantaraṃ na dvinnaṃ bhuñjamānānaṃ na gabbhiniyā na pāyamānāya na purisantaragatāya na saṅkittīsu, na yattha sā upaṭṭhito hoti, na yattha makkhikā saṇḍasaṇḍacārinī, na macchaṃ, na maṃsaṃ, na suraṃ, na merayaṃ, na thusodakaṃ pivati. So ekāgāriko vā hoti ekālopiko, dvāgāriko vā hoti dvālopiko –pe– sattāgāriko vā hoti sattālopiko. Ekissāpi dattiyā yāpeti, dvīhipi dattīhi yāpeti –pe– sattahipi dattīhi yāpeti. Ekāhikampi āhāraṃ āhāreti, dvāhikampi āhāraṃ āhāreti –pe– sattāhikampi āhāraṃ āhāreti. Iti evarūpaṃ aḍḍhamākikampi pariyāyabhattabhojanānuyogamanuyutto viharati. Evampi diṭṭhisallena otiṇṇo viddho phuṭṭho pareto samohito samannāgato dhāvati vidhāvati sandhāvati saṃsarati.

Athavā diṭṭhisallena otiṇṇo viddho phuṭṭho pareto samohito samannāgato so sākabhakkho vā hoti, sāmākabhakkho vā hoti, nīvārabhakkho vā hoti, daddulabhakkho vā hoti, haṭabhakkho vā hoti, kaṇabhakkho vā hoti, ācāmabhakkho vā hoti, piññākabhakkho vā hoti, tilabhakkho vā hoti, tiṇabhakkho vā hoti, gomayabhakkho vā hoti, vanamūlaphalāhāro vā yāpeti pavattaphalabhojano. So sāṇānipi dhāreti, masāṇānipi dhāreti, chavadussānipi dhāreti, paṃsukūlānipi dhāreti, –– tirīṭānipi dhāreti, ajinānipi dhāreti, ajinakkhipampi dhāreti, kusacīrampi dhāreti, vākacīrampi dhāreti, phalakacīrampi dhāreti, kesakambalampi dhāreti, vālakambalampi dhāreti, ulūkapakkhampi dhāreti, kesamassulocakopi hoti, kesamassulocanānuyogamanuyutto viharati. Ubbhaṭṭhakopi hoti āsanapaṭikkhitto, ukkuṭikopi hoti ukkuṭikappadhānamanuyutto, kaṇṭakāpassayikopi hoti, kaṇṭakāpassaye seyyaṃ kappeti, phalakaseyyampi kappeti, thaṇḍilaseyyampi kappeti, ekāpassayiko hoti rajojalladharo, abbhokāsiko hoti yathāsanthatiko, vekaṭikopi hoti vikaṭabhojanānuyogamanuyutto, apānakopi hoti apānabhattam anuyutto, sāyatatiyakampi udakorohanānuyogamanuyutto viharati. Iti evarūpaṃ anekavihitaṃ kāyassa ātāpanaparitāpanānuyogamanuyutto viharati. Evampi diṭṭhisallena otiṇṇo viddho phuṭṭho pareto samohito samannāgato dhāvati vidhāvati sandhāvati saṃsarati.

Sokasallena otiṇṇo viddho phuṭṭho pareto samohito samannāgato socati kilamati paridevati urattāḷiṃ kandati sammohaṃ āpajjati. Vuttaṃ hetaṃ bhagavatā:

“Bhūtapubbaṃ brāhmaṇa, imissāyeva sāvatthiyā aññatarissā itthiyā mātā kālamakāsi. Sā tassā kālakiriyāya ummattikā khittacittā rathiyāya rathiyaṃ siṅghāṭakena siṅghāṭakaṃ upasaṅkamitvā evamāha: ‘Api me mātaraṃ addasatha? Api me mātaraṃ addasathā ’ti.

Bhūtapubbaṃ brāhmaṇa, imissāyeva sāvatthiyā aññatarissā itthiyā pitā kālamakāsi – bhātā kālamakāsi – bhaginī kālamakāsi – putto kālamakāsi – dhītā kālamakāsi – sāmiko kālamakāsi. Sā tassa kālakiriyāya ummattikā khittacittā rathiyāya rathiyaṃ siṅghāṭakena siṅghāṭakaṃ upasaṅkamitvā evamāha: ‘Api me sāmikaṃ addasatha? Api me sāmikaṃ addasathā ’ti.

Bhūtapubbaṃ brāhmaṇa, imissāyeva sāvatthiyā aññatarassa purisassa mātā kālamakāsi. So tassā kālakiriyāya ummattako khittacitto rathiyāya rathiyaṃ siṅghāṭakena siṅghāṭakaṃ upasaṅkamitvā evamāha: ‘Api me mātaraṃ addasatha? Api me mātaraṃ addasathā ’ti.

Bhūtapubbaṃ brāhmaṇa, imissāyeva sāvatthiyā aññatarassa purisassa pitā kālamakāsi – bhātā kālamakāsi – bhaginī kālamakāsi – putto kālamakāsi – dhītā kālamakāsi – pajāpatī kālamakāsi. So tassā kālakiriyāya ummattako khittacitto rathiyāya rathiyaṃ siṅghāṭakena siṅghāṭakaṃ upasaṅkamitvā evamāha: ‘Api me pajāpatiṃ addasatha? Api me pajāpatiṃ addasathā ’ti.

Bhūtapubbaṃ brāhmaṇa, imissāyeva sāvatthiyā aññatarā itthī ñātikulaṃ agamāsi. Tassā te ñātakā sāmikaṃ acchinditvā aññassa dātukāmā. Sā ca naṃ na icchati. Atha kho sā itthī sāmikaṃ etadavoca: ‘Ime maṃ ayyaputta, ñātakā tava acchinditvā aññassa dātukāmā. Ubho mayaṃ marissāmā ’ti. Atha kho so puriso taṃ itthiṃ dvidhā chetvā attānaṃ opātesi, ‘Ubho pecca bhavissāmā ’ti. Evaṃ sokasallena otiṇṇo viddho puṭṭho pareto samohito samannāgato dhāvati vidhāvati sandhāvati saṃsarati.

Kathaṅkathāsallena otiṇṇo viddho phuṭṭho pareto samohito samannāgato saṃsayapakkhanno hoti vimatipakkhanno dveḷhakajāto: ‘Ahosiṃ nu kho ahaṃ atītamaddhānaṃ? Na nu kho ahosiṃ atītamaddhānaṃ? Kiṃ nu kho ahosiṃ atītamaddhānaṃ? Kathaṃ nu kho ahosiṃ atītamaddhānaṃ? Kiṃ hutvā kiṃ ahosiṃ nu kho atītamaddhānaṃ? Bhavissāmi nu kho ahaṃ anāgatamaddhānaṃ? Na nu kho bhavissāmi anāgatamaddhānaṃ? Kiṃ nu kho bhavissāmi anāgatamaddhānaṃ? Kathaṃ nu kho bhavissāmi anāgatamaddhānaṃ? Kiṃ hutvā kiṃ bhavissāmi nu kho anāgatamaddhānaṃ? Etarahi vā paccuppannaṃ addhānaṃ ārabbha kathaṅkathī hoti: Ahaṃ nu khosmi? No nu khosmi? Kiṃ nu khosmi? Kathaṃ nu khosmi? Ayaṃ nu kho satto kuto āgato? So kuhiṃ gāmī bhavissatī ’ti. Evaṃ kathaṅkathāsallena otiṇṇo viddho phuṭṭho pareto samohito samannāgato dhāvati vidhāvati sandhāvati saṃsarati.

Te salle abhisaṅkharoti; te salle abhisaṅkharonto sallābhisaṅkhāravasena puratthimaṃ disaṃ dhāvati, pacchimaṃ disaṃ dhāvati, uttaraṃ disaṃ dhāvati, dakkhiṇaṃ disaṃ dhāvati. Te sallābhisaṅkhārā appahīnā; sallābhisaṅkhārānaṃ appahīnattā gatiyā dhāvati, niraye dhāvati, tiracchānayoniyā dhāvati, pettivisaye dhāvati, manussaloke dhāvati, devaloke dhāvati, gatiyā gatiṃ uppattiyā upapattiṃ paṭisandhiyā paṭisandhiṃ bhavena bhavaṃ saṃsārena saṃsāraṃ vaṭṭena vaṭṭaṃ dhāvati vidhāvati sandhāvati saṃsaratī ’ti - yena sallena otiṇṇo disā sabbā vidhāvati.

Tameva sallamabbuyha na dhāvati na sīdatī ’ti - Tameva rāgasallaṃ dosasallaṃ mohasallaṃ mānasallaṃ diṭṭhisallaṃ sokasallaṃ kathaṅkathāsallaṃ abbuyha abbuhitvā uddharitvā samuddharitvā uppāṭayitvā samuppāṭayitvā pajahitvā vinodetvā byantīkaritvā anabhāvaṃ gametvā neva puratthimaṃ disaṃ dhāvati, na pacchimaṃ disaṃ dhāvati, na uttaraṃ disaṃ dhāvati, na dakkhiṇaṃ disaṃ dhāvati. Te sallābhisaṅkhārā pahīnā; sallābhisaṅkhārānaṃ pahīnattā gatiyā na dhāvati, niraye na dhāvati, tiracchānayoniyā na dhāvati, pettivisaye na dhāvati, manussaloke na dhāvati, devaloke na dhāvati, na gatiyā gatiṃ - na upapattiyā upapattiṃ - na paṭisandhiyā paṭisandhiṃ - na bhavena bhavaṃ - na saṃsārena saṃsāraṃ - na vaṭṭena vaṭṭaṃ dhāvati vidhāvati saṃdhāvati saṃsaratī ’ti – tamevasallamabbuyha na dhāvati. Na sīdatī ’ti kāmoghe na sīdati, bhavoghe na sīdati, diṭṭhoghe na sīdati, avijjoghe na sīdati na saṃsīdati na avasīdati na gacchati na avagacchatī ’ti - tameva sallamabbuyha na dhāvati na sīdati. 

Tenāha bhagavā: “Yena sallena otiṇṇo disā sabbā vidhāvati, tameva sallamabbuyha na dhāvati na sīdatī ”ti.

Tattha sikkhānugīyanti yāni loke gathitāni, na tesu pasuto siyā nibbijjha sabbaso kāme, sikkhe nibbānamattano.

Ở nơi ấy, các môn học tập được truyền tụng. Những gì bị trói buộc ở thế gian, không nên quan tâm đến chúng. Sau khi thấu suốt các dục về mọi phương diện, nên học tập về sự tịch diệt cho bản thân.

 đây sự học tập,
Ðã được nói rõ lên,
Phàm triền phược ở đời,
Chớ liên hệ với chúng,
Ðâm thủng dục hoàn toàn,
Tự học tập Niết-bàn.

(Kinh Tập, câu kệ 940)

Tattha sikkhānugīyanti yāni loko gathitānī ’ti - Sikkhā ’ti hatthisikkhā assasikkhā rathasikkhā sālākiyaṃ sallakattiyaṃ kāyatikicchaṃ bhūtiyaṃ komārabhaccaṃ. Gīyantī ’ti niggīyanti kathīyanti bhaṇīyanti dīpīyanti voharīyanti. Athavā gīyanti - gaṇhīyanti uggaṇhīyanti dhārīyanti upadhārīyanti upalakkhīyanti gathitapaṭilābhāya. Gathitā vuccanti pañca kāmaguṇā: cakkhuviññeyyā rūpā iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā. Kiṃ kāraṇā gathitā vuccanti pañca kāmaguṇā? Yebhuyyena devamanussā pañca kāmaguṇe icchanti sādiyanti patthayanti pihayanti abhijappanti; taṅkāraṇā gathitā vuccanti pañca kāmaguṇā. Loke ’ti manussaloke ’ti - tattha sikkhānugīyanti yāni loke gathitāni.
 
Na tesu pasuto siyā ’ti - Tāsu vā sikkhāsu tesu vā pañcasu kāmaguṇesu na pasuto siyā, na tanninno assa, na tappoṇo na tappabbhāro na tadadhimutto na tadādhipateyyo ’ti - na tesu pasuto siyā.
 
Nibbijjha sabbaso kāme ’ti - Nibbijjhā ’ti paṭivijjhitvā; sabbe saṅkhārā aniccā ’ti paṭivijjhitvā, sabbe saṅkhārā dukkhā ’ti paṭivijjhitvā –pe– ‘yaṃ kiñci samudayadhammaṃ sabbaṃ taṃ nirodhadhamman ’ti paṭivijjhitvā. Sabbaso ’ti sabbena sabbaṃ sabbathā sabbaṃ asesaṃ nissesaṃ pariyādiyanavacanametaṃ sabbaso ’ti. Kāmā ’ti uddānato dve kāmā: vatthukāmā ca kilesakāmā ca –pe– Ime vuccanti vatthukāmā. –pe– Ime vuccanti kilesakāmā ’ti – nibbijjha sabbaso kāme.
 
Sikkhe nibbānamattano ’ti - Sikkhā ’ti tisso sikkhā: adhisīlasikkhā adhicittasikkhā adhipaññāsikkhā –pe– ayaṃ adhipaññāsikkhā. Nibbānamattano ’ti attano rāgassa nibbāpanāya dosassa nibbāpanāya mohassa nibbāpanāya –pe– sabbākusalābhisaṅkhārānaṃ samāya upasamāya vūpasamāya nibbāpanāya paṭinissaggāya paṭippassaddhiyā adhisīlampi sikkheyya, adhicittampi sikkheyya, adhipaññampi sikkheyya.

Imā tisso sikkhāyo āvajjanto sikkheyya jānanto sikkheyya, –pe– sacchikātabbaṃ sacchikaronto sikkheyya ācareyya samācareyya samādāya vatteyyā ’ti – sikkhe nibbānamattano.

Tenāha bhagavā: “Tattha sikkhānugīyanti yāni loke gathitāni, na tesu pasuto siyā nibbijjha sabbaso kāme, sikkhe nibbānamattano ”ti. 

Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:  “Ở nơi ấy, các môn học tập được truyền tụng. Những gì bị trói buộc ở thế gian, không nên quan tâm đến chúng. Sau khi thấu suốt các dục về mọi phương diện, nên học tập về sự tịch diệt cho bản thân.”

Sacco siyā appagabbho amāyo rittapesuno, akkodhano lobhapāpaṃ vevicchaṃ vitare muni.

Nên chân thật, không xấc xược, không xảo trá, việc nói đâm thọc không còn nữa, không giận dữ, bậc hiền trí có thể vượt qua sự xấu xa của tham (và) sự keo kiệt.

941. Chân thật không xông xáo,
Không man trá, hai lưỡi,
Không phẫn nộ, ẩn sĩ,
ợt tham ác, xan tham.

(Kinh Tập, câu kệ 941)

Sacco siyā appagabbho ’ti - Sacco siyā ’ti saccavācāya samannāgato siyā, sammādiṭṭhiyā samannāgato siyā, ariyena aṭṭhaṅgikena maggena samannāgato siyā ’ti – sacco siyā. Appagabbho’ti tīṇi pāgabbhiyāni: kāyikaṃ pāgabbhiyaṃ vācasikaṃ pāgabbhiyaṃ cetasikaṃ pāgabbhiyaṃ –pe– Idaṃ cetasikaṃ pāgabbhiyaṃ. Yassimāni tīṇi pāgabbhiyāni pahīnāni samucchinnāni vūpasantāni paṭippassaddhāni abhabbuppattikāni ñāṇagginā daḍḍhāni, so vuccati appagabbho ’ti – appagabbho.

Amāyo rittapesuno ’ti - Māyā vuccati vañcanikā cariyā. Idhekacco kāyena duccaritaṃ caritvā vācāya duccaritaṃ caritvā manasā duccaritaṃ caritvā tassa paṭicchādanahetu pāpikaṃ icchaṃ paṇidahati: ‘Mā maṃ jaññā ’ti icchati, ‘Mā maṃ jaññā ’ti saṅkappeti, ‘Mā maṃ jaññā ’ti vācaṃ bhāsati, ‘Mā maṃ jaññā ’ti kāyena parakkamati. Yā evarūpā māyā māyāvitā accasarā vañcanā nikati nikaraṇā pariharaṇā gūhanā parigūhanā chādanā paṭicchādanā anuttānīkammaṃ anāvīkammaṃ vocchadanā pāpakiriyā; ayaṃ vuccati māyā. Yassesā māyā pahīnā samucchinnā vūpasannā paṭippassaddhā abhabbuppattikā ñāṇagginā daḍḍhā. So vuccati amāyo. Rittapesuno ’ti pesuññan ’ti: Idhekacco pisunavāco hoti –pe– Evaṃ bhedādhippāyo pesuññaṃ upasaṃharati; yassetaṃ pesuññaṃ pahīnaṃ samucchinnaṃ vūpasantaṃ paṭippassaddhaṃ abhabbuppattikaṃ ñāṇagginā daḍḍhaṃ, so vuccati rittapesuno vivittapesuno pavivittapesuno ’ti - amāyo rittapesuno.

Akkodhano lobhapāpaṃ vevicchaṃ vitare munī ’ti – Akkodhano ’ti hi vuttaṃ. Api ca kodho tāva vattabbo. Dasahākārehi kodho jāyati: Anatthaṃ me acarī ’ti kodho jāyati –pe– yasseso kodho pahīno samucchinno vūpasanto paṭippassaddho abhabbuppattiko ñāṇagginā daḍḍho, so vuccati akkodhano. Kodhassa pahīnattā akkodhano. Kodhavatthussa pariññātattā akkodhano. Kodhahetussa upacchinnattā akkodhano. Lobho ’ti yo lobho lubbhatā lubbhitattaṃ –pe– abhijjhā lobho akusalamūlaṃ. Vevicchaṃ vuccati pañca macchariyāni āvāsamacchariyaṃ –pe– gāho vuccati macchariyaṃ. Munī ’ti monaṃ vuccati ñāṇaṃ –pe– saṅgajālamaticca so muni.Akkodhano lobhapāpaṃ vevicchaṃ vitare munī ’ti - Muni lobhapāpañca vevicchañca atari uttari patari samatikkami vītikkami vītivattayī ’ti - akkodhano lobhapāpaṃ vevicchaṃ vitare muni.

Tenāha bhagavā: “Sacco siyā appagabbho amāyo rittapesuno, akkodhano lobhapāpaṃ vevicchaṃ vitare munī ”ti. 

Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Nên chân thật, không xấc xược, không xảo trá, việc nói đâm thọc không còn nữa, không giận dữ, bậc hiền trí có thể vượt qua sự xấu xa của tham (và) sự keo kiệt.” 

Niddaṃ tandiṃ sahe thīna pamādena na savase, atimāne na tiṭṭheyya nibbānamānaso naro.

 Người có tâm ý hướng Niết Bàn nên khắc phục trạng thái ngủ gà ngủ gật, sự uể oải, sự dã dượi, không nên cộng trú với sự xao lãng, không nên trụ lại ở sự ngã mạn thái quá.

Ngưi nghĩ đến Niết-bàn,
Bỏ ngủ, nhác, thụy miên,
Không sống với phóng dật,
Không an trú, quá mạn.

(Kinh Tập, câu kệ 942)

Niddaṃ tandiṃ sahe thīnan ’ti - Niddā ’ti yā kāyassa akalyatā akammaññatā onāho pariyonāho antosamorodho middhaṃ soppaṃ pacalāyikā soppanā supanā supitattaṃ. Tandin ’ti yā tandi tandiyanā tandimanakatā ālassaṃ ālasiyaṃ ālasyāyanā ālasāyitattaṃ. Thīnan ’ti yā cittassa akalyatā akammaññatā olīyanā sallīyanā līnaṃ līyanā līyitattaṃ thīnaṃ thīyanā thīyitattaṃ cittassa. Niddaṃ tandiṃ sahe thīnan ’ti niddañca tandiñca thīnañca sahe saheyya parisaheyya abhibhaveyya ajjhotthareyya pariyādiyeyya maddeyyā ’ti - niddaṃ tandiṃ sahe thīnaṃ.

Pamādena na saṃvase ’ti - Pamādo vattabbo: kāyaduccarite vā vacīduccarite vā manoduccarite vā pañcasu vā kāmaguṇesu cittassa vossaggo vossaggānuppadānaṃ vā, kusalānaṃ vā dhammānaṃ bhāvanāya asakkaccakiriyatā asātaccakiriyatā anaṭṭhitakiriyatā olīnavuttitā nikkhittachandatā nikkhittadhuratā anāsevanā abhāvanā abahulīkammaṃ anadhiṭṭhānaṃ ananuyogo pamādo, yo evarūpo pamādo pamaññanā pamaññitattaṃ; ayaṃ vuccati pamādo. Pamādena na saṃvase ’ti pamādena na vaseyya na saṃvaseyya na āvaseyya na parivaseyya, pamādaṃ pajaheyya vinodeyya byantīkareyya anabhāvaṃ gameyya, pamādā ārato assa virato paṭivirato nikkhanto nissaṭo vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā vihareyyā ’ti - pamādena na saṃvase.

Atimāne na tiṭṭheyyā ’ti – Atimāno ’ti Idhekacco paraṃ atimaññati jātiyā vā gottena vā – pe– aññataraññatarena vā vatthunā. Yo evarūpo māno maññanā maññitattaṃ unnati unnamo dhajo sampaggāho ketukamyatā cittassa; ayaṃ vuccati atimāno. Atimāne na tiṭṭheyyā ’ti – Atimāne na tiṭṭheyya na santiṭṭheyya, atimānaṃ pajaheyya vinodeyya byantīkareyya, anabhāvaṃ gameyya, atimānā ārato assa virato paṭivirato nikkhanto nissaṭo vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā vihareyyā ’ti - atimāne na tiṭṭheyya.

Nibbānamānaso naro ’ti - Idhekacco dānaṃ dento sīlaṃ samādiyanto uposathakammaṃ karonto pānīyaṃ paribhojanīyaṃ upaṭṭhapento pariveṇaṃ sammajjanto cetiyaṃ vandanto cetiye gandhamālaṃ āropento cetiyaṃ padakkhiṇaṃ karonto yaṃ kiñci tedhātukaṃ kusalābhisaṅkhāraṃ abhisaṅkharonto na gatihetu na upapattihetu na paṭisandhihetu na bhavahetu na saṃsārahetu na vaṭṭahetu sabbaṃ taṃ visaṃyogādhippāyo nibbānaninno nibbānapoṇo nibbānapabbhāro abhisaṅkharotī ’ti; evampi nibbānamānaso naro. Athavā sabbasaṅkhāradhātuyā cittaṃ paṭivāpetvā amatāya dhātuyā cittaṃ upasaṃharati: ‘Etaṃ santaṃ etaṃ paṇītaṃ yadidaṃ sabbasaṅkhārasamatho sabbūpadhipaṭinissaggo taṇhakkhayo virāgo nirodho nibbānan ’ti; evampi nibbānamānaso naro.

1. “Na paṇḍitā upadhisukhassa hetu dadanti dānāni punabbhavāya, kāmañca te upadhiparikkhayāya dadanti dāna apunabbhavāya.

2. Na paṇḍitā upadhisukhassa hetu bhāventi jhānāni punabbhavāya, kāmañca te upadhiparikkhayāya bhāventi jhāna apunabbhavāya.

3. Te nibbutiṃ āsisamānā dadanti tanninnacittā tadādhimuttā, najjo yathā sāgaramajjhupetā bhavanti nibbānaparāyaā te ”ti. – nibbānamānaso naro.

Tenāha bhagavā: “Niddaṃ tandiṃ sahe thīnapamādena na savase, atimāne na tiṭṭheyya nibbānamānaso naro ”ti
 

Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:

 “Người có tâm ý hướng Niết Bàn nên khắc phục trạng thái ngủ gà ngủ gật, sự uể oải, sự dã dượi, không nên cộng trú với sự xao lãng, không nên trụ lại ở sự ngã mạn thái quá.”

Mosavajje na niyyetha rūpe sneha na kubbaye, mānañca parijāneyya sāhasā virato care.

Không nên bị lôi kéo vào việc nói lời dối trá, không nên tạo ra sự yêu mến ở sắc, và nên biết toàn diện về ngã mạn, nên hành xử tránh xa sự vội vàng.

Không rơi vào nói láo,
Không tham ái các sắc,
Cần liễu tri quá mạn,
Sống từ bỏ bạo ác.

(Kinh Tập, câu kệ 943)

Mosavajje na niyyethā ’ti - Mosavajjaṃ vuccati musāvādo. Idhekacco sabhaggato vā parisaggato vā ñātimajjhagato vā pūgamajjhagato vā rājakulamajjhagato vā abhinīto sakkhipuṭṭho: ‘Ehambho purisa, yaṃ jānāsi taṃ vadehī ’ti. So ajānaṃ vā āha: ‘Jānāmī ’ti, jānaṃ vā āha: ‘Na jānāmī ’ti; apassaṃ vā āha: ‘Passāmī ’ti, passaṃ vā āha: ‘Na passāmī ’ti. Iti attahetu vā parahetu vā āmisakiñcikkhahetu vā sampajānamusā bhāsati; idaṃ vuccati mosavajjaṃ. Api ca tihākārehi – catuhākārehi – pañcahākārehi – chahākārehi – sattahākārehi – aṭṭhahākārehi –pe– imehi aṭṭhahākārehi musāvādo hoti.

Mosavajje na niyyethā ’ti - mosavajje na yāyeyya na niyyāyeyya na vuyheyya na saṃhareyya, mosavajjaṃ pajaheyya vinodeyya byantīkareyya anabhāvaṃ gameyya, mosavajjā ārato assa virato paṭivirato nikkhanto nissaṭo vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā vihareyyā ’ti - mosavajje na niyyetha.

Rūpe snehaṃ na kubbaye ’ti - Rūpan ’ti cattāro ca mahābhūtā catunnañca mahābhūtānaṃ upādāyarūpaṃ. Rūpe snehaṃ na kubbaye ’ti rūpe snehaṃ na kareyya, chandaṃ na kareyya, pemaṃ na kareyya, rāgaṃ na kareyya na janeyya na sañjaneyya na nibbatteyya nābhinibbatteyyā ’ti - rūpe snehaṃ na kubbaye.

nañca parijāneyyā ’ti - Māno ti ekavidhena māno: yā cittassa unnati. Duvidhena māno: attukkaṃsanamāno paravambhanamāno. Tividhena māno: seyyohamasmīti māno sadisohamasmīti māno hīnohamasmīti māno. Catubbidhena māno: lābhena mānaṃ janeti, yasena mānaṃ janeti, pasaṃsāya mānaṃ janeti, sukhena mānaṃ janeti. Pañcavidhena māno: lābhī’mhi manāpikānaṃ rūpānanti mānaṃ janeti, lābhī’mhi manāpikānaṃ saddānaṃ – gandhānaṃ – rasānaṃ phoṭṭhabbānanti mānaṃ janeti. Chabbidhena māno: cakkhusampadāya mānaṃ janeti, sotasampadāya – ghānasampadāya – jivhāsampadāya kāyasampadāya – manosampadāya mānaṃ janeti. Sattavidhena māno: māno atimāno mānātimāno omāno adhimāno asmimāno micchāmāno. Aṭṭhavidhena māno: lābhena mānaṃ janeti, alābhena omānaṃ janeti, yasena mānaṃ janeti, ayasena omānaṃ janeti, pasaṃsāya mānaṃ janeti, nindāya omānaṃ janeti, sukhena mānaṃ janeti, dukkhena omānaṃ janeti. Navavidhena māno: seyyassa seyyohamasmīti māno, seyyassa sadisohamasmīti māno, seyyassa hīnohamasmīti māno, sadisassa seyyohamasmīti māno, sadisassa sadisohamasmīti māno, sadisassa hīnohamasmīti māno, hīnassa seyyohamasmīti māno, hīnassa sadisohamasmīti māno, hīnassa hīnohamasmīti māno. Dasavidhena māno: Idhekacco mānaṃ janeti jātiyā vā gottena vā –pe– aññataraññatarena vā vatthunā. Yo evarūpo māno maññanā maññitattaṃ unnati unnāmo dhajo sampaggāho ketukamyatā cittassa; ayaṃ vuccati māno.

Mānañca parijāneyyā ’ti - Mānaṃ tīhi pariññāhi parijāneyya: ñātapariññāya tīraṇapariññāya pahānapariññāya.

Katamā ñātapariññā? Mānaṃ jānāti: ayaṃ ekavidhena māno: yā cittassa unnati; ayaṃ duvidhena māno: attukkaṃsanamāno paravambhanamāno –pe– ayaṃ dasavidhena māno: Idhekacco mānaṃ janeti jātiyā vā gottena vā –pe– aññataraññatarena vā vatthunāti jānāti passati; ayaṃ ñātapariññā.

Katamā tīraṇapariññā? Etaṃ ñātaṃ katvā mānaṃ tīreti: aniccato dukkhato –pe– anissaraṇato tīreti; ayaṃ tīraṇapariññā.

Katamā pahānapariññā? Evaṃ tīrayitvā mānaṃ pajahati vinodeti byantīkaroti anabhāvaṃ gameti; ayaṃ pahānapariññā. Mānañca parijāneyyā ’ti mānaṃ imāhi tīhi pariññāhi parijāneyyā ’ti - mānañca parijāneyya.

Sāhasā virato care ’ti - Katamā sāhasā cariyā? Rattassa rāgacariyā sāhasā cariyā, duṭṭhassa dosacariyā sāhasā cariyā, mūḷhassa mohacariyā sāhasā cariyā; vinibaddhassa mānacariyā sāhasā cariyā, parāmaṭṭhassa diṭṭhicariyā sāhasā cariyā, vikkhepagatassa uddhaccacariyā sāhasā cariyā, aniṭṭhāgatassa vicikicchācariyā sāhasā cariyā, thāmagatassa anusayacariyā sāhasā cariyā; ayaṃ sāhasā cariyā. Sāhasā virato care ’ti sāhasācariyā ārato assa, virato paṭivirato nikkhanto nissaṭo vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā vihareyya careyya vicareyya irīyeyya vatteyya pāleyya yapeyya yāpeyyā ’ti - sāhasā virato care.

Tenāha bhagavā: “Mosavajje na niyyetha rūpe sneha na kubbaye, mānañca parijāneyya sāhasā virato care ”ti. 

Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Không nên bị lôi kéo vào việc nói lời dối trá, không nên tạo ra sự yêu mến ở sắc, và nên biết toàn diện về ngã mạn, nên hành xử tránh xa sự vội vàng.”

Purāṇaṃ nābhinandeyya nave khanti na kubbaye, hīyamāne na soceyya ākāsa na sito siyā.

Không nên thích thú cái cũ (ngũ uẩn quá khứ), không nên tạo ra sự ưa chuộng cái mới (ngũ uẩn vị lai), trong khi (cái gì) đang bị tiêu hoại, không nên sầu muộn, không nên nương tựa hư không (tham ái)

Không hoan hỷ việc cũ,
Không nhẫn chịu sự mới,
Trong tổn giảm không sầu,
Không liên hệ tham ái,

(Kinh Tập, câu kệ 944)

Purāṇaṃ nābhinandeyyā ’ti - Purāṇaṃ vuccati atītā rūpā vedanā saññā saṅkhārā viññāṇaṃ. Atīte saṅkhāre taṇhāvasena diṭṭhivasena nābhinandeyya nābhivadeyya na ajjhoseyya, abhinandanaṃ abhivadanaṃ ajjhosānaṃ gāhaṃ parāmāsaṃ abhinivesaṃ pajaheyya vinodeyya byantīkareyya anabhāvaṃ gameyyā ’ti - purāṇaṃ nābhinandeyya.
 
Trang 600: Trang 601: Nave khantiṃ na kubbaye ’ti - Navā vuccanti paccuppannā rūpā vedanā saññā saṅkhārā viññāṇaṃ. Paccuppanne saṅkhāre taṇhāvasena diṭṭhivasena khantiṃ na kareyya, chandaṃ na kareyya, pemaṃ na kareyya, rāgaṃ na kareyya na janeyya na sañjaneyya na nibbatteyya nābhinibbatteyyā ’ti - nave khantiṃ na kubbaye.

Hīyamāne na soceyyā ’ti - Hīyamāne hāyamāne parihāyamāne vemāne vigacchamāne antaradhāyamāne na soceyya na kilameyya na parāmaseyya na parideveyya na urattāḷiṃ kandeyya na sammohaṃ āpajjeyya. Cakkhusmiṃ hīyamāne hāyamāne parihāyamāne vemāne vigacchamāne antaradhāyamāne – sotasmiṃ – ghānasmiṃ – jivhāya – kāyasmiṃ – rūpasmiṃ – saddasmiṃ – gandhasmiṃ – rasasmiṃ – phoṭṭhabbasmiṃ – kulasmiṃ – gaṇasmiṃ – āvāsasmiṃ – lābhasmiṃ – yasasmiṃ – pasaṃsāya – sukhasmiṃ – cīvarasmiṃ – piṇḍapātasmiṃ – senāsanasmiṃ – gilānapaccayabhesajjaparikkhārasmiṃ hīyamāne hāyamāne parihāyamāne vemāne vigacchamāne antaradhāyamāne na soceyya na kilameyya na parāmaseyya na parideveyya na urattāḷiṃ kandeyya na sammohaṃ āpajjeyyā ’ti - hīyamāne na soceyya.

Ākāsa na sito siyā ’ti - Ākāsaṃ vuccati taṇhā: yo rāgo sārāgo –pe– abhijjhā lobho akusalamūlaṃ. Kiṃkāraṇā ākāsaṃ vuccati taṇhā? Yāya taṇhāya rūpaṃ ākassati samākassati gaṇhāti parāmasati abhinivisati, vedanaṃ – saññaṃ – saṅkhāre – viññāṇaṃ – gatiṃ – upapattiṃ – paṭisandhiṃ – bhavaṃ – saṃsāraṃ – vaṭṭaṃ ākassati samākassati gaṇhāti parāmasati abhinivisati, taṃkāraṇā ākāsaṃ vuccati taṇhā.

Ākāsa na sito siyā ’ti - Taṇhānissito na siyā, taṇhaṃ pajaheyya vinodeyya byantīkareyya anabhāvaṃ gameyya, taṇhāya ārato assa virato paṭivirato nikkhanto nissaṭo vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā vihareyyā ’ti - ākāsaṃ na sito siyā.

Tenāha bhagavā: “Purāṇaṃ nābhinandeyya nave khanti na kubbaye, hīyamāne na soceyya ākāsa na sito siyā ”ti. 

Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Không nên thích thú cái cũ (ngũ uẩn quá khứ), không nên tạo ra sự ưa chuộng cái mới (ngũ uẩn hiện tại), trong khi (cái gì) đang bị tiêu hoại, không nên sầu muộn, không nên nương tựa hư không (tham ái).”

Gedhaṃ brūmi mahoghoti, ājava brūmi jappana, ārammaṇaṃ pakampanaṃ, kāmapaṅko duraccayo

Ta gọi thèm khát là ‘dòng lũ lớn,’ Ta gọi tham muốn là dòng nước mạnh, (sự bám vào) đối tượng là rung động, dục là bãi lầy khó vượt qua được

Ái, Ta gọi bộc lưu,
Mong cầu gọi bọt nước,
Sở duyên gọi biến kể,
Bùn dục khó vượt qua.

(Kinh Tập, câu kệ 945)

Gedhaṃ brūmi mahoghotī ’ti - Gedho vuccati taṇhā, yo rāgo sārāgo –pe– abhijjhā lobho akusalamūlaṃ. Mahogho vuccati taṇhā, yo rāgo sārāgo –pe– abhijjhā lobho akusalamūlaṃ. Gedhaṃ brūmi mahoghotī ’ti gedhaṃ mahoghoti brūmi ācikkhāmi desemi paññapemi paṭṭhapemi vivarāmi vibhajāmi uttānīkaromi pakāsemī ’ti - gedhaṃ brūmi mahoghoti.

Ājava brūmi jappanan ’ti - Ājavā vuccati taṇhā, yo rāgo sārāgo –pe– abhijjhā lobho akusalamūlaṃ. Jappanāpi vuccati taṇhā, yo rāgo sārāgo –pe– abhijjhā lobho akusalamūlaṃ. Ājava brūmi jappanan ’ti ājavaṃ jappanāti brūmi ācikkhāmi –pe– uttānīkaromi pakāsemī ’ti - ājavaṃ brūmi jappanaṃ.

Ārammaṇaṃ pakampanan ’ti - Ārammaṇampi vuccati taṇhā, yo rāgo sārāgo –pe– abhijjhā lobho akusalamūlaṃ. Pakampanampi vuccati taṇhā, yo rāgo sārāgo –pe– abhijjhā lobho akusalamūlan ’ti - ārammaṇaṃ pakampanaṃ.

Kāmapaṅko duraccayo ’ti - Kāmapaṅko kāmakaddamo kāmakileso kāmapalipo kāmapaḷirodho duraccayo durativatto duttaro duppataro dussamatikkamo dubbītivatto ’ti - kāmapaṅko duraccayo.

Tenāha bhagavā: “Gedhaṃ brūmi mahoghoti ājavaṃ brūmi jappana, ārammaṇaṃ pakampanaṃ kāmapaṅko duraccayo ”ti. 

Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Ta gọi thèm khát là ‘dòng lũ lớn,’ Ta gọi tham muốn là dòng nước mạnh, (sự bám vào) đối tượng là rung động, dục là bãi lầy khó vượt qua được.”

Saccā avokkamaṃ muni thale tiṭṭhati brāhmaṇo, sabbaṃ so paṭinissajja sa ve santo ’ti vuccati.

Không chệch khỏi sự thật (gọi là) bậc hiền trí, đứng ở đất liền (gọi là) vị Bà-la-môn. Vị ấy sau khi xả bỏ tất cả, vị ấy quả thật được gọi là ‘bậc an tịnh.’ 

Ẩn sĩ không rời chân,
Phạm chí trú đất liền,
Vị từ bỏ tất cả,
Thật được gọi an tịnh.

(Kinh Tập, câu kệ 946)

Saccā avokkama munī ’ti - Saccavācāya avokkamanto, sammādiṭṭhiyā avokkamanto, ariyā aṭṭhaṅgikā maggā avokkamanto. Munī ’ti monaṃ vuccati ñāṇaṃ –pe– saṅgajālamaticca so munī ’ti - saccā avokkamaṃ muni.

Thale tiṭṭhati brāhmaṇo ’ti - Thalaṃ vuccati amataṃ nibbānaṃ, yo so sabbasaṅkhārasamatho sabbūpadhipaṭinissaggo taṇhakkhayo virāgo nirodho nibbānaṃ. Brāhmaṇo ’ti sattannaṃ dhammānaṃ bāhitattā brāhmaṇo –pe– asito tādi pavuccate sa brahmā. Thale tiṭṭhati brāhmaṇo’ti thale tiṭṭhati, dīpe tiṭṭhati, tāṇe tiṭṭhati, leṇe tiṭṭhati, saraṇe tiṭṭhati, abhaye tiṭṭhati, accute tiṭṭhati, amate tiṭṭhati, nibbāne tiṭṭhatī ’ti - thale tiṭṭhati brāhmaṇo.

Sabbaṃ so paṭinissajjā ’ti - Sabbaṃ vuccati dvādasāyatanāni: cakkhuñceva rūpā ca –pe– mano ceva dhammā ca. Yato ajjhattikabāhiresu āyatanesu chandarāgo pahīno hoti ucchinnamūlo tālāvatthukato anabhāvakato āyatiṃ anuppādadhammo, ettāvatāpi sabbaṃ cattaṃ hoti vantaṃ muttaṃ pahīnaṃ paṭinissaṭṭhaṃ. Yato taṇhā ca diṭṭhi ca māno ca pahīnā honti acchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvakatā āyatiṃ anuppādadhammā, ettāvatāpi sabbaṃ cattaṃ hoti vantaṃ muttaṃ pahīnaṃ paṭinissaṭṭhaṃ. Yato puññābhisaṅkhāro ca apuññābhisaṅkhāro ca āneñjābhisaṅkhāro ca pahīnā honti, ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvakatā āyatiṃ anuppādadhammā, ettāvatāpi sabbaṃ cattaṃ hoti vantaṃ muttaṃ pahīnaṃ paṭinissaṭṭhan ’ti - sabbaṃ so paṭinissajja.

Sa ve santoti vuccatī ’ti - So santo upasanto vūpasanto nibbuto paṭippassaddhoti vuccati kathīyati bhaṇīyati dīpīyati voharīyatī ’ti - sa ve santoti vuccati.

Tenāha bhagavā: “Saccā avokkamaṃ muni thale tiṭṭhati brāhmaṇo, sabbaṃ so paṭinissajja sa ve santoti vuccatī ”ti.

Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Không chệch khỏi sự thật (gọi là) bậc hiền trí, đứng ở đất liền (gọi là) vị Bà-la-môn. Vị ấy sau khi xả bỏ tất cả, vị ấy quả thật được gọi là ‘bậc an tịnh.’”

Sa ve vidvā sa vedagū ñatvā dhamma anissito, sammā so loke irīyāno na pihetīdha kassaci.  

Quả thật, vị ấy là bậc đã hiểu biết, vị ấy là bậc đã đạt được sự thông hiểu, sau khi biết được pháp, vị ấy không nương tựa (vào tham ái và tà kiến). Vị ấy, trong khi cư xử chân chánh ở thế gian, không mong cầu đối với bất cứ người nào ở nơi đây

Biết vậy, gọi người biết,
Biết rồi không y pháp,
Chơn chánh sống ở đời,
Không tham ái một ai.

(Kinh Tập, câu kệ 947)

Sa ve vidvā sa vedagū ’ti - Vidvā ’ti vidvā vijjāgato ñāṇī vibhāvī medhāvī. Vedagū ’ti vedā vuccanti catusu maggesu ñāṇaṃ –pe– sabbavedanāsu vītarāgo sabbaṃ vedam aticca vedagū so ’ti; – sa ve vidvā sa vedagū.

Ñatvā dhammaṃ anissito ’ti - Ñatvā ’ti ñatvā jānitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā: ‘sabbe saṅkhārā aniccā ’ti ñatvā jānitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā, ‘sabbe saṅkhārā dukkhā ’ti –pe– ‘yaṃ kiñci samudayadhammaṃ, sabbaṃ taṃ nirodhadhamman ’ti ñatvā jānitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā. Anissito ’ti dve nissayā: taṇhānissayo ca diṭṭhinissayo ca. –pe– ayaṃ taṇhānissayo –pe– ayaṃ diṭṭhinissayo. Taṇhānissayaṃ pahāya diṭṭhinissayaṃ paṭinissajitvā cakkhuṃ anissito – sotaṃ anissito – ghānaṃ anissito –pe– diṭṭha-suta-muta-viññātabbe dhamme anissito anallīno anupagato anajjhosito anadhimutto nikkhanto nissaṭo vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā viharatī ’ti - ñatvā dhammaṃ anissito.

Sammā so loke irīyāno ’ti - Yato ajjhattikabāhiresu āyatanesu chandarāgo pahīno hoti ucchinnamūlo tālāvatthukato anabhāvakato āyatiṃ anuppādadhammo, ettāvatāpi sammā loke carati viharati irīyati vattati pāleti yapeti yāpeti. Yato puññābhisaṅkhāro ca apuññābhisaṅkhāro ca āneñjābhisaṅkhāro ca pahīnā honti acchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvakatā āyatiṃ anuppādadhammā, ettāvatāpi sammā loke carati viharati irīyati vattati pāleti yapeti yāpetī ’ti - sammā so loke irīyāno.

Na pihetīdha kassacī ’ti - Pihā vuccati taṇhā, yo rāgo sārāgo –pe– abhijjhā lobho akusalamūlaṃ. Yassesā pihā taṇhā pahīnā samucchinnā vūpasantā paṭippassaddhā abhabbuppattikā ñāṇagginā daḍḍhā, so kassaci na piheti khattiyassa vā brāhmaṇassa vā vessassa vā suddassa vā gahaṭṭhassa vā pabbajitassa vā devassa vā manussassa vāti - na pihetīdha kassaci.

Tenāha bhagavā: “Sa ce vidvā sa vedagū ñatvā dhamma anissito, sammā so loke irīyāno na pihetīdha kassacī ”ti.

Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Quả thật, vị ấy là bậc đã hiểu biết, vị ấy là bậc đã đạt được sự thông hiểu, sau khi biết được pháp, vị ấy không nương tựa (vào tham ái và tà kiến). Vị ấy, trong khi cư xử chân chánh ở thế gian, không mong cầu đối với bất cứ người nào ở nơi đây.”

Yodha kāme accatari saṅgaṃ loke duraccayaṃ, na so socati nājjheti chinnasoto abandhano. 

Ở đây, vị nào vượt qua các dục, sự quyến luyến ở thế gian khó vượt qua được, vị ấy không sầu muộn, không ưu tư, có dòng chảy đã được cắt đứt, không còn sự trói buộc.

Ai ở đây vượt dục,
Ái khó vượt ở đời,
Không sầu, không tham muốn,
Cắt dòng không trói buộc.

(Kinh Tập, câu kệ 948)

Yodha kāme accatari saṅgaṃ loke duraccayan ’ti - Yo ’ti yo sādiso yathā yutto yathā vihito yathāpakāro yaṃṭhānaṃpatto yaṃdhammasamannāgato khattiyo vā brāhmaṇo vā vesso vā suddo vā gahaṭṭho vā pabbajito vā devo vā manusso vā. Kāmā ’ti uddānato dve kāmā vatthukāmā ca kilesakāmā ca –pe– ime vuccanti vatthukāmā. –pe– ime vuccanti kilesakāmā.
 
Saṅ ’ti satta saṅgā: rāgasaṅgo dosasaṅgo mohasaṅgo mānasaṅgo diṭṭhisaṅgo kilesasaṅgo duccaritasaṅgo. Loke ’ti apāyaloke manussaloke devaloke khandhaloke dhātuloke āyatanaloke. Saṅgaṃ loke duraccayan ’ti yo kāme ca saṅge ca loke duraccaye durativatte duttare duppatare dussamatikkame dubbinivatte atari uttari patari samatikkami vinivattayī ’ti - yodha kāme accatari saṅgaṃ loke duraccayaṃ.

Na so socati nājjhetī ’ti - vipariṇataṃ vatthuṃ na socati; vipariṇatasmiṃ vā vatthusmiṃ na socati; ‘cakkhuṃ me viparaṇatan ’ti na socati; sotaṃ me - ghānaṃ me - jivhā me - kāyo me - rūpā me - saddā me - gandhā me - rasā me - phoṭṭhabbā me - kulaṃ me – gaṇo me – āvāso me - lābho me - yaso me - pasaṃsā me – sukhaṃ me - cīvaraṃ me - piṇḍapāto me - senāsanaṃ me - gilānapaccayabhesajjaparikkhārā me - mātā me - pitā me - bhātā me - bhaginī me - putto me - dhītā me - mittā me - amaccā me - ñātī me - sālohitā me vipariṇatā ’ti na socati na kilamati na paridevati na urattāḷiṃ kandati na sammohaṃ āpajjatī ’ti – na socati. Nājjhetī ’ti - nājjheti na ajjheti na upanijjhāyati na nijjhāyati na pajjhāyati; athavā na jāyati na jīyati na mīyati na cavati na upapajjatī ’ti nājjhetī ’ti - na so socati nājjheti.

Chinnasoto abandhano ’ti - Sotā vuccati taṇhā, yo rāgo sārāgo –pe– abhijjhā lobho akusalamūlaṃ. Yassesā sotā taṇhā pahīnā samucchinnā –pe– ñāṇagginā daḍḍhā; so vuccati chinnasoto. Abandhanāni ’ti rāgabandhanaṃ dosabandhanaṃ mohabandhanaṃ mānabandhanaṃ diṭṭhibandhanaṃ kilesabandhanaṃ duccaritabandhanaṃ. Yassetāni bandhanāni pahīnāni samucchinnāni –pe– ñāṇagginā daḍḍhāni; so vuccati abandhano ’ti – chinnasoto abandhano.

Tenāha bhagavā: “Yo ’dha kāme accatari saṅgaṃ loke duraccayaṃ, na so socati nājjheti chinnasoto abandhano ”ti. 

Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Ở đây, vị nào vượt qua các dục, sự quyến luyến ở thế gian khó vượt qua được, vị ấy không sầu muộn, không ưu tư, có dòng chảy đã được cắt đứt, không còn sự trói buộc.” 

Yaṃ pubbe taṃ visosehi pacchā te māhu kiñcanaṃ, majjhe ce no gahessasi upasanto carissasi.  

Điều gì trước đây (quá khứ), ngươi hãy làm khô héo điều ấy. Chớ có bất cứ điều gì sanh khởi đến ngươi sau này (vị lai). Nếu ngươi không nắm lấy (điều gì) ở khoảng giữa (hiện tại), ngươi sẽ sống, được an tịnh

Trước Ông làm khô cạn
Sau Ông không vật gì,
Ở giữa không nắm giữ,
Ông sẽ sống an tịnh.

(Kinh Tập, câu kệ 949)

Yaṃ pubbe taṃ visosehī ’ti - Atīte saṅkhāre ārabbha ye kilesā uppajjeyyuṃ, te kilese sosehi visosehi sukkhāpehi visukkhāpehi abījaṃ karohi pajaha vinodehi byantīkarohi anabhāvaṃ gamehī ’ti; evampi yaṃ pubbe taṃ visosehi. Athavā ye atītā kammābhisaṅkhārā avipakkavipākā, te kammābhisaṅkhāre sosehi visosehi sukkhāpehi visukkhāpehi abījaṃ karohi pajaha vinodehi byantīkarohi anabhāvaṃ gamehī ’ti; evampi yaṃ pubbe taṃ visosehi.

Pacchā te māhu kiñcanan ’ti - Pacchā vuccati anāgataṃ. Anāgate saṅkhāre ārabbha yāni uppajjeyyuṃ rāgakiñcanaṃ dosakiñcanaṃ mohakiñcanaṃ mānakiñcanaṃ diṭṭhikiñcanaṃ kilesakiñcanaṃ duccaritakiñcanaṃ, imāni kiñcanāni tuyhaṃ mā ahu, mā pāturakāsi, mā janehi, mā sañjanehi, mā nibbattehi, mā abhinibbattehi, pajaha, vinodehi, byantī karohi, anabhāvaṃ gamehī ’ti - pacchā te māhu kiñcanaṃ.

Majjhe ce no gahessasī ’ti - Majjhaṃ vuccati paccuppannā rūpā vedanā saññā saṅkhārā viññāṇaṃ, paccuppanne saṅkhāre taṇhāvasena diṭṭhivasena na gahessasi, na uggahessasi, na gaṇhissasi, na parāmasissasi, nābhivadissasi, na ajjhessasi, abhinandanaṃ abhivadanaṃ ajjhosānaṃ gāhaṃ parāmāsaṃ abhinivesaṃ pajahissasi, vinodessasi, byantī4karissasi, anabhāvaṃ gamessasī ’ti - majjhe ce no gahessasi.

Upasanto carissasī ’ti - Rāgassa santattā samitattā upasamitattā dosassa santattā samitattā upasamitattā –pe– sabbākusalābhisaṅkhārānaṃ santattā samitattā upasamitattā vūpasamitattā vijjhātattā nibbutattā vigatattā paṭippassaddhattā santo upasanto vūpasanto nibbuto paṭippassaddho carissasi viharissasi irīyissasi vattissasi pālessasi yapissasi yāpessasī ’ti - upasanto carissasi.

Tenāha bhagavā: “Yaṃ pubbe taṃ visosehi pacchā te māhu kiñcanaṃ, majjhe ce no gahessasi upasanto carissasī ”ti. 

Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Điều gì trước đây (quá khứ), ngươi hãy làm khô héo điều ấy. Chớ có bất cứ điều gì sanh khởi đến ngươi sau này (vị lai). Nếu ngươi không nắm lấy (điều gì) ở khoảng giữa (hiện tại), ngươi sẽ sống, được an tịnh.”

Sabbaso nāmarūpasmi yassa natthi mamāyitaṃ, asatā ca na socati sa ve loke na jīyati.  

Đối với vị nào không có vật đã được chấp là của tôi liên quan đến danh và sắc về mọi phương diện, và (là vị) không sầu muộn do tình trạng không có, vị ấy quả thật không bị thua thiệt ở thế gian

Toàn diện đối danh sắc,
Không gì nghĩ "của ta"
Không có gì không sầu,
Không có già ở đời.

(Kinh Tập, câu kệ 950)

Sabbaso nāmarūpasmi yassa natthi mamāyitan ’ti – Sabbaso ’ti sabbena sabbaṃ sabbathā sabbaṃ asesaṃ nissesaṃ pariyādiyana-vacanam etaṃ sabbaso ’ti. Nāman ’ti cattāro arūpino khandhā. Rūpan ’ti cattāro ca mahābhūtā catunnañca mahābhūtānaṃ upādāya rūpaṃ. Yassā ’ti arahato khīṇāsavassa. Mamāyitan ’ti dve mamattā: taṇhāmamattañca diṭṭhimamattañca. –pe– idaṃ taṇhāmamattaṃ. –pe– idaṃ diṭṭhimamattaṃ. Sabbaso nāmarūpasmiṃ yassa natthi mamāyitan ’ti – Sabbaso nāmarūpasmiṃ mamattā yassa natthi na santi na saṃvijjanti nūpalabbhanti pahīnā samucchinnā vūpasantā paṭippassaddhā abhabbuppattikā ñāṇagginā daḍḍhā ’ti - sabbaso nāmarūpasmiṃ yassa natthi mamāyitaṃ.

Asatā ca na socatī ’ti - Vipariṇataṃ vā vatthuṃ na socati, vipariṇatasmiṃ vā vatthusmiṃ na socati: ‘cakkhuṃ me vipariṇatan ’ti na socati, sotaṃ me – ghānaṃ me – jivhā me – kāyo me – rūpā me – saddā me – gandhā me – rasā me – phoṭṭhabbā me – kulaṃ me – gaṇo me – āvāso me – lābho me –pe– ñātisālohitā me vipariṇatā ’ti na socati na kilamati na paridevati na urattāḷiṃ kandati na sammohaṃ āpajjatī ’ti; evampi asatā ca na socati. Athavā asatāya dukkhāya vedanāya phuṭṭho pareto samohito samannāgato na socati na kilamati na paridevati na urattāḷiṃ kandati na sammohaṃ āpajjatī ’ti; evampi asatā ca na socati. Athavā cakkhurogena phuṭṭho pareto –pe– ḍaṃsamakasavātātapasiriṃsapa samphassena phuṭṭho pareto samohito samannāgato na socati na kilamati na paridevati na urattāḷiṃ kandati na sammohaṃ āpajjatī ’ti; evampi asatā ca na socati. Athavā, asante asaṃvijjamāne anupalabbhamāne ‘ahu vata me, taṃ vata me natthi, siyā vata me, taṃ vatāhaṃ na labhāmī ’ti na socati na kilamati na paridevati na urattāḷiṃ kandati na sammohaṃ āpajjatī ’ti; evampi asatā ca na socati.

Sa ve loke na jīyatī ’ti - Yassa ‘mayhaṃ vā idaṃ, paresaṃ vā idan ’ti kiñci rūpagataṃ vedanāgataṃ saññāgataṃ saṅkhāragataṃ viññāṇagataṃ gahitaṃ parāmaṭṭhaṃ abhiniviṭṭhaṃ ajjhositaṃ adhimuttaṃ atthi, tassa jāni atthi. Bhāsitampi hetaṃ:

1. “Jiṇṇe rathasse maṇikuṇḍale ca putte ca dāre ca tatheva jiṇṇe, sabbesu bhogesu asevitesu kasmā na santappasi sokakāle? 

1. Khi cỗ xe và ngựa, ngọc ma-ni và bông tai bị mất mát, khi con và vợ bị mất mát tương t y như thếkhi tất cả của cải không còn được sử dụng, tại sao ngài không buồn bực ở thời điểm của sầu muộn? 

2. Pubb’ eva maccaṃ vijahanti bhogā macco va ne pubbatara jahāti, asassatā bhogino kāmakāmī tasmā na socāmaha sokakāle.

2. Các của cải rời bỏ con ngưi trước (của cải bị mất mát lúc còn sống), hoặc con người lìa bỏ các của cải trước (chết không đem theo của cải). Này kẻ mong muốn ngũ dục, các của cải không đưc trường tồn,vì thế, Ta không sầu muộn ở thời điểm của sầu muộn.

3. Udeti āpūrati veti cando attha gamitvāna paleti sūriyo, viditā mayā sattuka lokadhammā tasmā na socāmahaṃ sokakāle ”ti

3. Mặt trăng mọc lên, tròn dần rồi lại khuyết. Mặt trời sau khi lặn xuống thì biến mất. Này Sattuka, các pháp thế gian đã được Ta nhận biết; vì thế, Ta không sầu muộn ở thời điểm của sầu muộn.

Yassa ‘mayhaṃ vā idaṃ, paresaṃ vā idan ’ti kiñci rūpagataṃ vedanāgataṃ saññāgataṃ saṅkhāragataṃ viññāṇagataṃ gahitaṃ parāmaṭṭhaṃ abhiniviṭṭhaṃ ajjhositaṃ adhimuttaṃ natthi, tassa jāni natthi. Bhāsitampi hetaṃ: “’Nandasi samaṇā ’ti? ‘Kiṃ laddhā āvuso ’ti? ‘Tena hi samaṇa socasī ’ti? ‘Kiṃ jīyittha āvuso ’ti? ‘Tena hi samaṇa neva nandasi na socasī ’ti? ‘Evamāvuso’” ti.

4. “Cirassaṃ vata passāma brāhmaṇaṃ parinibbutaṃ, anandiṃ anīghaṃ bhikkhuṃ tiṇṇaṃ loke visattikan ”ti – sa ve loke na jīyati. 

4. “Quả thật, sau một thời gian dài, chúng ta nhìn thấy vị Bà-la-môn đã được diệt tắt hoàn toàn, là vị tỳ khưu không có vui thích, không có phiền muộn, đã vượt qua sự vướng mắc này ở thế gian.” – ‘vị ấy quả thật không bị thua thiệt ở thế gian’ là như thế.

Tenāha bhagavā: “Sabbaso nāmarūpasmi yassa natthi mamāyita, asatā ca na socati sa ve loke na jīyatī ”ti

Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Đối với vị nào không có vật đã được chấp là của tôi liên quan đến danh và sắc về mọi phương diện, và (là vị) không sầu muộn do tình trạng không có, vị ấy quả thật không bị thua thiệt ở thế gian.”

Yassa natthi idaṃ meti paresaṃ vāpi kiñcanaṃ, mamattaṃ so asaṃvindaṃ natthi meti na socati,  

Đối với vị nào, không có (ý nghĩ): ‘Cái này là của tôi,’ hoặc ‘(Cái này) là của những người khác’ về bất cứ điều gì, vị ấy, trong lúc không tìm kiếm trạng thái chấp là của tôi, (biết rằng): ‘Không có gì là của ta,’ nhờ thế không sầu muộn.

Không nghĩ "đây của tôi ",
Không nghĩ "đây ca người ",
Người không có tự ngã,
Không sầu vì không ngã.

(Kinh Tập, câu kệ 951)

Yassa natthi idaṃ meti paresaṃ vāpi kiñcanan ’ti - Yassā ’ti arahato khīṇāsavassa. Yassa ‘mayhaṃ vā idaṃ paresaṃ vā idan ’ti kiñci rūpagataṃ vedanāgataṃ saññāgataṃ saṅkhāragataṃ viññāṇagataṃ gahitaṃ parāmaṭṭhaṃ abhiniviṭṭhaṃ ajjhositaṃ adhimuttaṃ natthi na santi na saṃvijjati nūpalabbhati, pahīnaṃ samucchinnaṃ vūpasantaṃ paṭippassaddhaṃ abhabbuppattikaṃ ñāṇagginā daḍḍhanti; –evampi yassa natthi idaṃ meti paresaṃ vāpi kiñcanaṃ.

Đối với vị nào, không có (ý nghĩ): ‘Cái này là của tôi,’ hoặc ‘(Cái này) là của những người khác’ về bất cứ điều  – Đối với vị nào: đối với vị A-la-hán có lậu hoặc đã được cạn kiệt. Đối với vị nào, bất cứ điều gì hướng đến sắc, hướng đến thọ, hướng đến tưởng, hướng đến các hành, hướng đến thức đã được nắm lấy, đã được bám víu, đã được cố chấp, đã được bám chặt, đã được hướng đến (rằng): ‘Cái này là của tôi, cái này là của những người khác’ là không có, không hiện diện, không tìm thấy, không tồn tại, được dứt bỏ, được trừ tuyệt, được vắng lặng, được tịch tịnh, không thể sanh khởi nữa, đã được thiêu đốt bởi ngọn lửa trí tuệ; –đối với vị nào, không có (ý nghĩ): ‘Cái này là của tôi,’ hoặc ‘(Cái này) là của những người khác’ về bất cứ điều gì– là như vậy.

Vuttaṃ hetaṃ bhagavatā: “Nāyaṃ bhikkhave kāyo tumhākaṃ, napi aññesaṃ. Purāṇamidaṃ bhikkhave kammaṃ abhisaṅkhataṃ abhisañcetayitaṃ vedanīyaṃ daṭṭhabbaṃ. Tatra bhikkhave sutavā ariyasāvako paṭiccasamuppādaṃ yeva sādhukaṃ yoniso manasikaroti: Iti imasmiṃ sati idaṃ hoti, imassuppādā idaṃ uppajjati. Imasmiṃ asati idaṃ na hoti, imassa nirodhā idaṃ nirujjhati. Yadidaṃ avijjāpaccayā saṅkhārā; saṅkhārapaccayā viññāṇaṃ ―pe― evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa samudayo hoti. Avijjāya tveva asesavirāganirodhā saṅkhāranirodho ―pe― evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa nirodho hotī ”ti; evampi yassa natthi idaṃ meti paresaṃ vāpi kiñcanaṃ

Bởi vì, điều này đã được đức Thế Tôn nói đến: “Này các tỳ khưu, thân này không phải của các ngươi, cũng không phải của những người khác. Này các tỳ khưu, thân này nên được xem là nghiệp cũ đã được tạo tác, đã được cố ý, (và) được cảm thọ. Này các tỳ khưu, về điều ấy, vị đệ tử của các bậc Thánh, có sự nghe nhiều, khéo léo tác ý đúng đường lối về pháp tùy thuận duyên khởi như vầy: ‘Khi cái này có mặt, cái kia có mặt; do sự sanh khởi của cái này, cái kia sanh khởi. Khi cái này không có mặt, cái kia không có mặt; d0 sự diệt tận của cái này, cái kia diệt tận. Tức là, do duyên vô minh, các hành (sanh khởi); do duyên các hành, thức (sanh khởi); –nt– Như thế là sự sanh lên của toàn bộ khổ uẩn này. Nhưng chính do sự diệt tận hoàn toàn không còn luyến ái đối với vô minh, có sự diệt tận của các hành –nt– Như thế là sự diệt tận của toàn bộ khổ uẩn này;’ –đối với vị nào, không có (ý nghĩ): ‘Cái này là của tôi,’ hoặc ‘(Cái này) là của những người khác’ về bất cứ điều gì– còn là như vậy.

Vuttampi hetaṃ bhagavatā: 1. “Suññato lokaṃ avekkhassu mogharāja sadā sato, attānudiṭṭhiṃ ūhacca eva maccutaro siyā. Evaṃ lokaṃ avekkhantaṃ maccurājā na passatī ”ti. – evampi ‘yassa natthi idaṃ meti paresaṃ vāpi kiñcanaṃ.’  

Bởi vì, điều này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến:

1. “Ngươi hãy xem xét thế giới là trống không, này Mogharāja, hãy luôn luôn có niệm. Sau khi nhổ lên tà kiến về bản ngã, như vậy có thể vượt qua sự chết. Người đang xem xét thế gian như vậy, Thần Chết không nhìn thấy (người ấy).” –Đối với vị nào, không có (ý nghĩ): ‘Cái này là của tôi,’ hoặc ‘(Cái này) là của những người khác’ về bất cứ điều gì– còn là như vậy. 

Vuttampi hetaṃ bhagavatā: “Yaṃ bhikkhave na tumhākaṃ, taṃ pajahatha. Taṃ vo pahīnaṃ dīgharattaṃ hitāya sukhāya bhavissati. Kiñca bhikkhave na tumhākaṃ? Rūpaṃ bhikkhave na tumhākaṃ, taṃ pajahatha. Taṃ vo pahīnaṃ dīgharattaṃ hitāya sukhāya bhavissati. Vedanā – Saññā – Saṅkhārā – Viññāṇaṃ na tumhākaṃ, taṃ pajahatha. Taṃ vo pahīnaṃ dīgharattaṃ hitāya sukhāya bhavissati. Taṃ kiṃ maññatha bhikkhave yaṃ imasmiṃ jetavane tiṇakaṭṭhasākhāpalāsaṃ, taṃ jano hareyya vā daheyya vā yathā paccayaṃ vā kareyya; api nu tumhākaṃ evamassa: ‘Amhe jano harati vā dahati vā yathā paccayaṃ vā karotī ’ti? No hetaṃ bhante. Taṃ kissa hetu? Na hi no etaṃ bhante attā vā attaniyaṃ vā ’ti. Evameva kho bhikkhave yaṃ na tumhākaṃ, taṃ pajahatha. Taṃ vo pahīnaṃ dīgharattaṃ hitāya sukhāya bhavissati.2 Kiñca bhikkhave na tumhākaṃ? Rūpaṃ bhikkhave na tumhākaṃ, taṃ pajahatha. Taṃ vo pahīnaṃ dīgharattaṃ hitāya sukhāya bhavissati. Vedanā – Saññā – Saṅkhārā – Viññāṇaṃ na tumhākaṃ, taṃ pajahatha. Taṃ vo pahīnaṃ dīgharattaṃ hitāya sukhāya bhavissatī ”ti. – evampi ‘yassa natthi idaṃ meti paresaṃ vāpi kiñcanaṃ.’

Bởi vì, điều này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến: “Này các tỳ khưu, cái gì không phải là của các ngươi, các ngươi hãy dứt bỏ nó. Cái ấy, khi được các ngươi dứt bỏ, sẽ đưa đến sự lợi ích, sự hạnh phúc lâu dài cho các ngươi. Và này các tỳ khưu, cái gì không phải là của các ngươi? Này các tỳ khưu, sắc không phải là của các ngươi, các ngươi hãy dứt bỏ nó. Cái ấy, khi được các ngươi dứt bỏ, sẽ đưa đến sự lợi ích, sự hạnh phúc lâu dài cho các ngươi. Thọ – Tưởng – Các hành – Thức không phải là của các ngươi, các ngươi hãy dứt bỏ nó. Cái ấy, khi được các ngươi dứt bỏ, sẽ đưa đến sự lợi ích, sự hạnh phúc lâu dài cho các ngươi. Này các tỳ khưu, các ngươi nghĩ gì về điều ấy, là việc người ta có thể mang đi cỏ, củi, cành, lá ở khu rừng Jeta này, hoặc có thể đốt cháy chúng, hoặc có thể hành xử chúng tùy theo nhu cầu? Thậm chí ý nghĩ như vầy có thể khởi lên ở các ngươi rằng: ‘Có phải người ta mang chúng ta đi, hoặc đốt cháy chúng ta, hoặc hành xử chúng ta tùy theo nhu cầu không’?” “Bạch ngài, điều này không đúng.” “Điều ấy có nguyên nhân là gì?” “Bạch Ngài, bởi vì cái ấy (cỏ, củi, cành, lá) không phải là tự ngã của chúng con hoặc thuộc về tự ngã của chúng con.” “Này các tỳ khưu, tương tự y như thế, cái gì không phải là của các ngươi, các ngươi hãy dứt bỏ nó. Cái ấy, khi được các ngươi dứt bỏ, sẽ đưa đến sự lợi ích, sự hạnh phúc lâu dài cho các ngươi. Và này các tỳ khưu, cái gì không phải là của các ngươi? Này các tỳ khưu, sắc không phải là của các ngươi, các ngươi hãy dứt bỏ nó. Cái ấy, khi được các ngươi dứt bỏ, sẽ đưa đến sự lợi ích, sự hạnh phúc lâu dài cho các ngươi. Thọ – Tưởng – Các hành – Thức không phải là của các ngươi, các ngươi hãy dứt bỏ nó. Cái ấy, khi được các ngươi dứt bỏ, sẽ đưa đến sự lợi ích, sự hạnh phúc lâu dài cho các ngươi.” –đối với vị nào, không có (ý nghĩ): ‘Cái này là của tôi,’ hoặc ‘(Cái này) là của những người khác’ về bất cứ điều gì– còn là như vậy.

Bhāsitampi hetaṃ: 2. “Suddhadhamma samuppādaṃ suddhasaṅkhārasantati, passantassa yathābhūtaṃ na bhayaṃ hoti gāmaṇi.

Bởi vì, điều này cũng đã được nói đến: 2. “Này trưởng làng, đối với người đang nhìn thấy đúng theo bản thể sự sanh lên của các pháp một cách rõ rệt, sự liên tục của các hành một cách rõ rệt thì không có sự sợ hãi

3.Tiṇakaṭṭhasamaṃ lokaṃ yadā paññāya passati, nāññaṃ patthayate kiñci aññatra paṭisandhiyā ”ti. – evampi ‘yassa natthi idaṃ meti paresaṃ vāpi kiñcanaṃ.’

3. Khi nào bằng trí tuệ nhìn thấy thế gian giống như cỏ và củi, trong khi không tìm thấy trạng thái chấp là của tôi: ‘Không có gì thuộc về tôi,’ vị ấy không sầu muộn.” –Đối với vị nào, không có (ý nghĩ): ‘Cái này là của tôi,’ hoặc ‘(Cái này) là của những người khác’ về bất cứ điều gì– còn là như vậy.

Vajirā bhikkhunī māraṃ pāpimantaṃ etadavoca: 4. “Kinnu satto ’ti paccesi māra diṭṭhigataṃ nu te, suddhasaṅkhārapuñjoyaṃ nayidha sattopalabbhati.

Tỳ khưu ni Vajirā đã nói với Ma Vương ác độc điều này:

4. “Này Ma Vương, sao ngươi khẳng định là ‘chúng sanh?’ Phải chăng đó là tà kiến của ngươi? Cái này thuần túy là sự chồng chất của các hành. Ở đây, chúng sanh không được tìm thấy.

5. Yathāpi agasambhārā hoti saddo ratho iti, evaṃ khandhesu santesu hoti sattoti sammuti

5. Giống y như việc ráp chung lại các bộ phận thì có tiếng gọi là ‘cỗ xe,’ tương tợ như vậy, khi các uẩn hiện diện thì có sự công nhận là ‘con người’.

6. Dukkhameva hi sambhoti dukkhaṃ tiṭṭhati vetti ca, nāññatra dukkhā sambhoti nāññaṃ dukkhā nirujjhatī ”ti. – evampi ‘yassa natthi idaṃ meti paresaṃ vāpi kiñcanaṃ.’

6. Bởi vì chỉ có khổ được hình thành, khổ tồn tại và tiêu hoại không gì khác ngoại trừ khổ được hình thành không cái gì khác ngoài khổ được diệt tận.” –Đối với vị nào, không có (ý nghĩ): ‘Cái này là của tôi,’ hoặc ‘(Cái này) là của những người khác’ về bất cứ điều gì– còn là như vậy.

“Evameva kho bhikkhave bhikkhu rūpaṃ samannesati yāvatā rūpassa gati. Vedanaṃ – Saññaṃ – Saṅkhāre - Viññāṇaṃ samannesati yāvatā viññāṇassa gati. Tassa rūpaṃ samannesato yāvatā rūpassa gati, vedanaṃ – saññaṃ – saṅkhāre – viññāṇaṃ samannesato yāvatā viññāṇassa gati, yampissa hoti ahanti vā mamanti vā asmīti vā, tampi tassa na hotī ”ti; – evampi yassa natthi idaṃ meti paresaṃ vāpi kiñcanaṃ.

“Này các tỳ khưu, tương tự y như thế, vị tỳ khưu quán sát sắc đến luôn cả tiến trình của sắc, quán sát thọ – tưởng – các hành – thức đến luôn cả tiến trình của thức. Trong khi vị ấy đang quán sát sắc đến luôn cả tiến trình của sắc, trong khi đang quán sát thọ – tưởng – các hành – thức đến luôn cả tiến trình của thức, ý niệm về ‘tôi’ hay ‘của tôi’ hay ‘tôi là’ đều không khởi lên ở vị ấy; –đối với vị nào, không có (ý nghĩ): ‘Cái này là của tôi,’ hoặc ‘(Cái này) là của những người khác’ về bất cứ điều gì– còn là như vậy.

Āyasmā ānando bhagavantaṃ etadavoca: “Suñño loko suñño lokoti bhante vuccati. Kittāvatā nu kho bhante suñño lokoti vuccatī ’ti? Yasmā kho ānanda, suññaṃ attena vā attaniyena vā, tasmā suñño lokoti vuccati. Kiñcānanda suññaṃ attena vā attaniyena vā? Cakkhuṃ kho ānanda suññaṃ attena vā attaniyena vā. Rūpā suññā - cakkhuviññāṇaṃ suññaṃ - cakkhusamphasso suñño - yadidaṃ cakkhusamphassapaccayā uppajjati vedayitaṃ sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā, tampi suññaṃ. Sotaṃ suññaṃ - Saddā suññā - Ghānaṃ suññaṃ - Gandhā suññā - Jivhā suññā - Rasā suññā - Kāyo suñño - Phoṭṭhabbā suññā - Mano suñño - Dhammā suññā - Manoviññāṇaṃ suññaṃ - Manosamphasso suñño - yadidaṃ manosamphassapaccayā uppajjati vedayitaṃ sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā, tampi suññaṃ attena vā attaniyena vā. Yasmā kho ānanda, suññaṃ attena vā attaniyena vā, tasmā suñño loko ’ti vuccatī ”ti; – evampi yassa natthi idaṃ meti paresaṃ vāpi kiñcanaṃ.

Đại đức Ānanda đã nói với đức Thế Tôn điều này: “Bạch Ngài, ‘thế giới là trống không, thế giới là trống không’ là điều được nói đến. Bạch Ngài, cho đến như thế nào thì được gọi là: ‘Thế giới là trống không’?” “Này Ānanda, bởi vì quả thật là trống không với tự ngã hoặc với cái thuộc về tự ngã; vì thế, được gọi là: ‘Thế giới là trống không.’ Và này Ānanda, cái gì là trống không với tự ngã hoặc với cái thuộc về tự ngã? Này Ānanda, Mắt là trống không với tự ngã hoặc với cái thuộc về tự ngã. Các sắc là trống không – Nhãn thức là trống không – Nhãn xúc là trống không – Cảm thọ nào sanh lên do duyên nhãn xúc, dầu là lạc, hay là khổ, hay là không khổ không lạc; cảm thọ ấy cũng là trống không. Tai là trống không – Các thinh là trống không – Mũi là trống không – Các hương là trống không – Lưỡi là trống không – Các vị là trống không – Thân là trống không – Các xúc là trống không – Ý là trống không – Các pháp là trống không – Ý thức là trống không – Ý xúc là trống không – Cảm thọ nào sanh lên do duyên ý xúc, dầu là lạc, hay là khổ, hay là không khổ không lạc, cảm thọ ấy cũng là trống không với tự ngã hoặc với cái thuộc về tự ngã. Này Ānanda, bởi vì quả thật là trống không với tự ngã hoặc với cái thuộc về tự ngã; vì thế, được gọi là: ‘Thế giới là trống không.’ –Đối với vị nào, không có (ý nghĩ): ‘Cái này là của tôi,’ hoặc ‘(Cái này) là của những người khác’ về bất cứ điều gì– còn là như vậy.

Mamattaṃ so asaṃvindan ’ti - Mamattā ’ti dve mamattā: taṇhāmamattañca diṭṭhimamattañca –pe– idaṃ taṇhāmamattaṃ –pe– idaṃ diṭṭhimamattaṃ. Taṇhāmamattaṃ pahāya diṭṭhimamattaṃ paṭinissajitvā mamattaṃ avindanto asaṃvindanto anadhigacchanto appaṭilabhanto ’ti - mamattaṃ so asaṃvindaṃ.

Vị ấy, trong lúc không tìm kiếm trạng thái chấp là của tôi: Trạng thái chấp là của tôi - có hai trạng thái chấp là của tôi: trạng thái chấp là của tôi do tham ái và trạng thái chấp là của tôi do tà kiến. —nt— điều này là trạng thái chấp là của tôi do tham ái. —nt— điều này là trạng thái chấp là của tôi do tà kiến. Sau khi dứt bỏ trạng thái chấp là của tôi do tham ái, sau khi xả bỏ trạng thái chấp là của tôi do tà kiến, trong khi không kiếm được, trong khi không tìm kiếm, trong khi không đạt đến, trong khi không đạt được; – ‘vị ấy, trong lúc không tìm kiếm trạng thái chấp là của tôi’ là như thế.

Natthi meti na socatī ’ti – Vipariṇataṃ vā vatthuṃ na socati, vipariṇatasmiṃ vā vatthusmiṃ na socati. Cakkhu me vipariṇatanti na socati. Sotaṃ me –pe– Sālohitā me vipariṇatā ’ti na socati na kilamati na paridevati na urattāḷiṃ kandati sammohaṃ āpajjatī ’ti - natthi meti na socati.

(Biết rằng): ‘Không có gì là của ta,’ nhờ thế không sầu muộn: (Vị ấy) không sầu muộn về vật đã bị biến đổi, không sầu muộn trong khi vật đang bị biến đổi. (Nghĩ rằng): ‘Mắt của ta đã bị biến đổi,’ vị ấy không sầu muộn. (Nghĩ rằng): ‘Tai của tôi —nt— ‘Những người cùng huyết thống của tôi đã bị biến đổi,’ vị ấy không sầu muộn, không mệt mỏi, không than vãn, không khóc nức nở, không đi đến sự mê muội; – ‘(biết rằng): ‘Không có gì là của ta,’ nhờ thế không sầu muộn’ là như thế.

Tenāha bhagavā: “Yassa natthi idaṃ meti paresaṃ vāpi kiñcanaṃ, mamattaṃ so asaṃvindaṃ natthi meti na socatī ”ti

Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Đối với vị nào, không có (ý nghĩ): ‘Cái này là của tôi,’ hoặc ‘(Cái này) là của những người khác’ về bất cứ điều gì, vị ấy, trong lúc không tìm kiếm trạng thái chấp là của tôi, (biết rằng): ‘Không có gì là của ta,’ nhờ thế không sầu muộn.”

Aniṭṭhurī ananugiddho anejo sabbadhī samo, tamānisaṃsaṃ pabrūmi pucchito avikampina.  

Không ganh ghét, không thèm khát, không dục vọng, bình đẳng ở mọi nơi, điều ấy là sự lợi ích mà Ta nói, khi được hỏi về vị không dao động

Không tàn bạo, không tham,
Không dục, thưng đng đẳng,
Ðược hỏi Ta nói lên,
Lợi ích bậc bất động.

(Kinh Tập, câu kệ 952)

Aniṭṭhurī ananugiddho anejo sabbadhī samo ’ti - Katamaṃ niṭṭhuriyaṃ? Idhekacco niṭṭhuriyo hoti paralābhasakkāragarukāramānanavandanapūjanāsu issati usūyati issaṃ bandhati; yaṃ evarūpaṃ niṭṭhuriyaṃ niṭṭhuriyakammaṃ issā issāyanā issāyitattaṃ usūyā usūyanā usūyāyitattaṃ, idaṃ vuccati niṭṭhuriyaṃ. Yassetaṃ niṭṭhuriyaṃ pahīnaṃ samucchinnaṃ –pe– ñāṇagginā daḍḍhaṃ; so vuccati aniṭṭhurīti. Ananugiddho ’ti – Gedho vuccati taṇhā, yo rāgo sārāgo –pe– abhijjhā lobho akusalamūlaṃ. Yasseso gedho pahīno samucchinno –pe– ñāṇagginā daḍḍho; so vuccati ananugiddho. So rūpe agiddho sadde –pe– diṭṭhasutamutaviññātabbesu dhammesu agiddho agathito amucchito anajjhopanno vītagedho vigatagedho cattagedho vantagedho muttagedho pahīnagedho paṭinissaṭṭhagedho vītarāgo vigatarāgo cattarāgo vantarāgo muttarāgo pahīnarāgo paṭinissaṭṭharāgo nicchāto nibbuto sītibhūto sukhapaṭisaṃvedī brahmabhūtena attanā viharatī ’ti – aniṭṭhurī ananugiddho. 

Anejo sabbadhī samo ’ti - Ejā vuccati taṇhā, yo rāgo sārāgo –pe– abhijjhā lobho akusalamūlaṃ. Yassesā ejā taṇhā pahīnā samucchinnā –pe–ñāṇagginā daḍḍhā, so vuccati anejo. Ejāya pahīnattā anejo. So lābhe’pi na iñjati, alābhepi na iñjati yasepi na iñjati, ayasepi na iñjati, pasaṃsāyapi na iñjati, nindāyapi na iñjati, sukhepi na iñjati, dukkhepi na iñjati, na calati na vedhati nappavedhati na sampavedhatī ’ti - anejo. Sabbadhi samo ’ti – Sabbaṃ vuccati dvādasāyatanāni: cakkhu ceva rūpā ca –pe– mano ceva dhammā ca. Yato ajjhattikabāhiresu āyatanesu chandarāgo pahīno hoti ucchinnamūlo tālāvatthukato anabhāvaṃ kato āyatiṃ anuppādadhammo, so vuccati sabbadhi samo. So sabbattha tādi sabbattha majjhatto sabbattha upekkhako ’ti - anejo sabbadhī samo.

Tamānisaṃsaṃ pabrūmi pucchito avikampinan ’ti - Avikampinaṃ puggalaṃ puṭṭho pucchito yācito ajjhesito pasādito ime cattāro ānisaṃse pabrūmi: so aniṭṭhurī ananugiddho anejo sabbadhi samoti brūmi ācikkhāmi –pe– pakāsemī ’ti - tamānisaṃsaṃ pabrūmi pucchito avikampinaṃ.  

Tenāha bhagavā: “Aniṭṭhurī ananugiddho anejo sabbadhī samo, tamānisaṃsaṃ pabrūmi pucchito avikampinan ”ti.

Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Không ganh ghét, không thèm khát, không dục vọng, bình đẳng ở mọi nơi, điều ấy là sự lợi ích mà Ta nói, khi được hỏi về vị không dao động.” 

Anejassa vijānato natthi kāci nisakhiti, virato so viyārambhā khemaṃ passati sabbadhi.  

Đối với vị không dục vọng, đang nhận thức,
thì không có bất cứ sự tạo tác nào.
Vị ấy, đã tránh xa khỏi sự tạo tác,
nhìn thấy an toàn ở mọi nơi
Bậc ly dục rõ biết,
Vị ấy không sở hành,
Thoát ly, không tinh cần,
Thấy an ổn khắp nơi.

(Kinh Tập, câu kệ 953)

Anejassa vijānato ’ti - Ejā vuccati taṇhā, yo rāgo sārāgo –pe– abhijjhā lobho akusalamūlaṃ. Yassesā evaṃ taṇhā pahīnā samucchinnā –pe– ñāṇagginā daḍḍhā; so vuccati anejo. Ejāya pahīnattā anejo. So lābhepi na iñjati, alābhepi na iñjati, yasepi na iñjati, ayasepi na iñjati, pasaṃsāyapi na iñjati, nindāyapi na iñjati, sukhepi na iñjati, dukkhepi na iñjati, na calati na vedhati na sampavedhati. Anejassa vijānato ’ti - jānato ājānato vijānato paṭivijānato paṭivijjhato, ‘sabbe saṅkhārā aniccā ’ti jānato ājānato vijānato paṭivijānato paṭivijjhatoti, ‘sabbe saṅkhārā dukkhā ’ti –pe– ‘yaṃ kiñci samudayadhammaṃ, sabbaṃ taṃ nirodhadhamman ’ti jānato ājānato vijānato paṭivijānato paṭivijjhato ’ti - anejassa vijānato.

Natthi kāci nisakhitī ’ti - Nisaṅkhitiyo vuccanti puññābhisaṅkhāro apuññābhisaṅkhāro āneñjābhisaṅkhāro. Yato puññābhisaṅkhāro ca apuññābhisaṅkhāro ca āneñjābhisaṅkhāro ca pahīnā honti, ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṃkatā āyatiṃ anuppādadhammā, ettāvatā nisaṅkhitiyo natthi na santi na saṃvijjanti nūpalabbhanti, pahīnā samucchinnā vūpasantā paṭippassaddhā abhabbuppattikā ñāṇagginā daḍḍhā ’ti – natthi kāci nisaṅkhiti.

Virato so viyārambhā ’ti - Viyārambho vuccati puññābhisaṅkhāro apuññābhisaṅkhāro āneñjābhisaṅkhāro. Yato puññābhisaṅkhāro ca apuññābhisaṅkhāro ca āneñjābhisaṅkhāro ca pahīnā honti, ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṃkatā āyatiṃ anuppādadhammā; ettāvatā ārabbhā viyārambhā ārato assa virato paṭivirato nikkhanto nissaṭo vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā viharatī ’ti – virato so viyārambhā. 

Khemaṃ passati sabbadhī ’ti - Rāgo bhayakaro, doso bhayakaro, moho bhayakaro –pe– bhayakarā kilesā. Bhayakarassa rāgassa pahīnattā –pe– bhayakarānaṃ kilesānaṃ pahīnattā sabbattha khemaṃ passati, sabbattha abhayaṃ passati, sabbattha anītikaṃ passati, sabbattha anupaddavaṃ passati, sabbattha anupassaggataṃ passatī ’ti – khemaṃ passati sabbadhi. 

Tenāha bhagavā: “Anejassa vijānato natthi kāci nisakhiti, virato so viyārambhā khema passati sabbadhī ”ti. 

Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Đối với vị không dục vọng, đang nhận thức, thì không có bất cứ sự tạo tác nào.
Vị ấy, đã tránh xa khỏi sự tạo tác, nhìn thấy an toàn ở mọi nơi.”

Na samesu na omesu na ussesu vadate muni, santo so vītamacchero, nādeti na nirassatī ’ti (bhagavā).

Bậc hiền trí không mô tả (bản thân) là trong số những người ngang bằng, (hay là) trong số những người thấp kém, (hay là) trong số những người ưu việt. Được an tịnh, đã xa lìa sự bỏn xẻn, vị ấy không nắm giữ, không buông lơi(Đức Thế Tôn nói vậy).

Bậc ẩn sĩ, không nói,
Bằng nhau, thua, hơn nhau,
An tịnh, ly xan tham,
Không nhận, không bác bỏ.
Thế Tôn giảng như vậy.\

(Kinh Tập, câu kệ 954) 

Na samesu na omesu na ussesu vadate munī ’ti - Monaṃ vuccati ñāṇaṃ, yā paññā pajānanā –pe– saṅgajālamaticca so munī ’ti. Muni seyyohamasmīti vā, sadisohamasmīti vā, hīnohamasmīti vā na vadati na katheti na bhaṇati na dīpayati na voharatī ’ti - na samesu na omesu na ussesu vadate muni.

Bậc hiền trí không mô tả (bản thân) là trong số những người ngang bằng, (hay là) trong số những người thấp kém, (hay là) trong số những người ưu việt – Bản thể hiền trí nói đến trí, –nt– đã vượt qua sự quyến luyến và mạng lưới (tham ái và tà kiến), vị ấy là hiền trí. Bậc hiền trí không mô tả, không thuyết, không phát ngôn, không diễn giải, không diễn tả rằng: ‘Tôi là ngang bằng,’ hoặc ‘Tôi là tốt hơn,’ hoặc ‘Tôi là thấp hèn;’ – ‘bậc hiền trí không mô tả (bản thân) là trong số những người ngang bằng, (hay là) trong số những người thấp kém, (hay là) trong số những người ưu việt’ là như thế.

Santo so vītamacchero ’ti - Santo ’ti rāgassa santattā samitattā santo, dosassa - mohassa –pe– sabbākusalābhisaṅkhārānaṃ santattā samitattā vūpasamitattā vijjhātattā nibbutattā vigatattā paṭipassaddhattā santo upasanto vūpasanto nibbuto paṭippassaddho ’ti santo so. Vītamacchero ’ti pañca macchariyāni: āvāsamacchariyaṃ –pe– gāho; idaṃ vuccati macchariyaṃ. Yassetaṃ macchariyaṃ pahīnaṃ samucchinnaṃ –pe– ñāṇagginā daḍḍhaṃ; so vuccati vītamaccharo vigatamaccharo cattamaccharo vantamaccharo muttamaccharo pahīnamaccharo paṭinissaṭṭhamaccharo ’ti - santo so vītamacchero

Được an tịnh, vị ấy đã xa lìa sự bỏn xẻn,An tịnh: Trạng thái được an tịnh, trạng thái được yên lặng đối với luyến ái là an tịnh; trạng thái được an tịnh, trạng thái được yên lặng, trạng thái được vắng lặng, trạng thái được thiêu hủy, trạng thái được tịch diệt, trạng thái được tách lìa, trạng thái được tịch tịnh đối với sân hận – đối với si mê –nt– đối với tất cả các pháp tạo tác bất thiện là an tịnh, yên tịnh, vắng lặng, tịch diệt, tịch tịnh; – ‘vị ấy được an tịnh’ là như thế. Đã xa lìa sự bỏn xẻn – Có năm loại bỏn xẻn: bỏn xẻn về chỗ ở –nt– sự nắm lấy, điều này được gọi là bỏn xẻn. Đối với vị nào, sự bỏn xẻn này được dứt bỏ, được trừ tuyệt, –nt– đã được thiêu đốt bởi ngọn lửa trí tuệ, vị ấy được gọi là có sự bỏn xẻn đã được xa lìa, có sự bỏn xẻn đã được tách lìa, có sự bỏn xẻn đã được từ bỏ, có sự bỏn xẻn đã được tẩy trừ, có sự bỏn xẻn đã được giải thoát, có sự bỏn xẻn đã được dứt bỏ, có sự bỏn xẻn đã được xả bỏ; – ‘được an tịnh, vị ấy đã xa lìa sự bỏn xẻn’ là như thế.

Nādeti na nirassatīti bhagavā ’ti - Nādetī ’ti rūpaṃ nādiyati na upādiyati na gaṇhāti na parāmasati nābhinivisati. Vedanaṃ - saññaṃ - saṅkhāre - viññāṇaṃ - gatiṃ - uppattiṃ – paṭisandhiṃ - bhavaṃ - saṃsāraṃ - vaṭṭaṃ nādiyati na upādiyati na gaṇhāti na parāmasati nābhinivisatī ’ti - nādeti. Na nirassatī ’ti rūpaṃ na pajahati na vinodeti na byantīkaroti na anabhāvaṃ gameti. Vedanaṃ - saññaṃ - saṅkhāre - viññāṇaṃ - gatiṃ uppattiṃ - paṭisandhiṃ - bhavaṃ - saṃsāraṃ - vaṭṭaṃ na pajahati na vinodeti na byantīkaroti anabhāvaṃ gameti. Bhagavā’ti gāravādhivacanaṃ; –pe– sacchikā paññatti yadidaṃ bhagavā ’ti - nādeti na nirassatīti bhagavā ’ti.  

Vị ấy không nắm giữ, không buông lơi – Không nắm giữ: Vị ấy không nắm giữ, không chấp thủ, không nắm lấy, không bám víu, không cố chấp sắc. Vị ấy không nắm giữ, không chấp thủ, không nắm lấy, không bám víu, không cố chấp thọ – tưởng – các hành – thức – cảnh giới tái sinh – sự tái sinh – sự nối liền tái sanh – sự hiện hữu – sự luân hồi –sự xoay vòng; – ‘không nắm giữ’ là như thế. Không buông lơi: Vị ấy không dứt bỏ, không xua đi, không làm chấm dứt, không làm cho không còn hiện hữu sắc. Vị ấy không dứt bỏ, không xua đi, không làm chấm dứt, không làm cho không còn hiện hữu thọ – tưởng – các hành – thức – cảnh giới tái sinh – sự tái sinh – sự nối liền tái sanh – sự hiện hữu – sự luân hồi –sự xoay vòng. Đức Thế Tôn: là từ xưng hô với sự tôn kính. –nt– sự quy định do sự chứng ngộ, tức là ‘đức Thế Tôn; – ‘vị ấy không nắm giữ, không buông lơi’ là như thế.

Tenāha bhagavā: “Na samesu na omesu na ussesu vadate muni, santo so vītamacchero nādeti na nirassatī ’ti bhagavā ”ti

Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:

Bậc hiền trí không mô tả (bản thân) là trong số những người ngang bằng, (hay là) trong số những người thấp kém, (hay là) trong số những người ưu việt. Được an tịnh, đã xa lìa sự bỏn xẻn, vị ấy không nắm giữ, không buông lơi(Đức Thế Tôn nói vậy).

Attadaṇḍasuttaniddeso samatto paṇṇarasamo.

--ooOoo-

Diễn Giải Kinh ‘Uế Hạnh của Bản Thân’ - Phần thứ mười lăm được đầy đủ.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada