862.“Đối với người có cuộc sống xa nhà lâu dài đã trở về an toàn từ phương xa, thân quyến bạn bè và người quen mừng vui đón ngưi đã trở về.

863.Tương t y như thế, (đối với) ngưi đã làm việc phước thiện từ thế gian này sanh đến thế giới khác, các phước báu tiếp đón (người ấy) tựa như các quyến thuộc tiếp đón người thân yêu đã trở về.”[1]

864.“Này Revatā, này cô nàng có bản tính vô cùng xấu xa, cô hãy đứng lên. Này cô nàng không có nết hạnh bố thí, cánh cửa (địa ngục) là không bị đóng lại. Chúng tôi sẽ đưa cô đến nơi mà những kẻ bị đọa vào khổ cảnh than khóc, (và) những kẻ địa ngục bị gánh chịu khổ đau.”

865.Sau khi chỉ nói như thế, các sứ giả cõi Dạ-ma, hai Dạ-xoa ấy, có cặp mắt đỏ ngầu, cao to, mỗi người một cánh tay, đã nắm lấy Revatā ri đi đến nơi có sự hiện diện của hội chúng chư Thiên.

866.“Thiên cung xinh đp, đưc che đậy bằng mạng lưới vàng, có màu sắc của mặt trời, đáng yêu, rực rỡ. Thiên cung này, có ngưi đông đo, đang rực sáng tựa như hào quang của mặt trời, là của người nào?[2]

867.Các nhóm phụ nữ, được thoa tinh chất của trầm hương, làm cho cung đin được sáng chói cả hai nơi (bên trong và bên ngoài). Thiên cung được nhìn thấy có màu sắc như là mặt trời. Ngưi nào đã đt đến cõi Trời và vui sướng ở Thiên cung?”

868.“Ở Bārāasī, đã có người cận sự nam tên là Nandiya, không bỏn xẻn, là người thí chủ, là người nhân từ. Thiên cung này, có ngưi đông đo, đang rực sáng tựa như hào quang của mặt trời, là của người ấy.

869.Các nhóm phụ nữ, được thoa tinh chất của trầm hương, làm cho cung đin được rực sáng cả hai nơi (bên trong và bên ngoài). Thiên cung được nhìn thấy có màu sắc như là mặt trời. Người ấy đã đt đến cõi Trời và vui sướng ở Thiên cung.”

870.“Tôi là người vợ của Nandiya, là nữ gia chủ, có uy quyền đối với tất cả gia đình. Giờ đây, tôi sẽ thích thú ở Thiên cung của chồng, tôi không mong mỏi về việc nhìn thấy địa ngục.”

871.“Này cô nàng có bản tính vô cùng xấu xa, cái địa ngục ấy là dành cho cô. Việc phước thiện đã không được cô làm khi ở thế giới có cuộc sống. Bởi vì người nữ bỏn xẻn, giận dữ, có bản tính xấu xa, không đt được sự cộng trú với những ngưi đã đi đến cõi Trời.”

872.“Phân và nước tiểu nhơ bn được nhìn thấy là cái gì vậy? Cái mùi hôi thối này là cái gì? Cái phân bốc mùi này là cái gì?”

873.“Này Revatā, cái ấy gọi là địa ngục Saṃsavaka có độ sâu một trăm lần chiều cao của ngưi nam, là nơi cô (sẽ) bị nung nấu hàng ngàn năm.”

874.“Vậy việc làm ác nào đã được làm do thân, do khẩu, do ý? Vì việc gì mà bị gánh chịu địa ngục Saṃsavaka có độ sâu một trăm lần chiều cao của người nam?”

875.“Cô lừa gạt các Sa-môn, các Bà-la-môn, và luôn cả những người khốn khổ khác nữa bằng lời nói dối trá; việc xấu xa ấy đã do cô gây ra.

876.Này Revatā, do việc ấy mà bị gánh chịu địa ngục Saṃsavaka có độ sâu một trăm lần chiều cao của người nam, ở nơi ấy cô (sẽ) bị nung nấu hàng ngàn năm.

877.Chúng chặt các bàn tay, rồi luôn cả các bàn chân, chúng xẻo các lỗ tai, rồi luôn cả lỗ mũi, rồi còn có các bầy quạ bu lại, tụ tập lại, ngấu nghiến kẻ đang quằn quại.”

878.“Quả là tốt đẹp, xin các vị hãy đưa tôi trở về, tôi sẽ thực hiện nhiều điều tốt đẹp với việc bố thí, với việc hành thiện, với việc thu thúc, với việc rèn luyện, là việc mà sau khi thực hành, ngưi ta được hạnh phúc và không bị ân hận về sau này.”

879.“Trưc đây cô đã xao lãng rồi bây giờ than van. Cô sẽ gánh chịu quả thành tựu của các nghiệp đã làm của mình.”

880.“Vị nào, sau khi từ thế giới chư Thiên đi đến thế giới loài ngưi, được tôi hỏi rồi nói như vầy: ‘Nàng nên dâng cúng vật thí, y phục, chỗ nằm, và cơm nước ở những vị đã buông các gậy gộc xuống, bởi vì người nữ bỏn xẻn, giận dữ, có bản tính xấu xa, không đt được sự cộng trú với những ngưi đã đi đến cõi Trời?’

881.Chắc chắn rằng tôi đây, khi đã đi khi nơi này, thì sau khi đt được việc sanh lại làm người, (tôi sẽ) là người nhân từ, đy đủ giới hạnh, tôi sẽ thực hiện nhiều điều tốt đẹp với việc bố thí, với việc hành thiện, với việc thu thúc, với việc rèn luyện.

882.Với tâm ý tịnh tín, tôi sẽ cho dựng lên các tu viện, các cây cầu ở chỗ khó đi, nước uống dọc đường, và giếng nước.

883.Vào ngày mười bốn, ngày mưi lăm, ngày mồng tám của mỗi nửa tháng, và những ngày phụ trội của nửa tháng là có sự thọ trì tốt đẹp về tám giới.

884.Tôi sẽ hành trì ngày trai giới, luôn luôn thu thúc trong các giới, và sẽ không xao lãng trong việc bố thí; điu này đã đưc đích thân tôi nhìn thấy.”

885.Trong khi cô ấy đang rên r như thế, đang quằn quại thế này thế khác, chúng đã ném cô ấy vào địa ngục ghê rợn, chân phía trên, đu phía dưới.

886.“Trưc đây, tôi đã là người bỏn xẻn, là người mắng nhiếc các vị Sa-môn và Bà-la-môn, và sau khi dối gạt người chồng bằng việc không thật, tôi bị nung nấu ở địa ngục có hình thức ghê rợn.”

Thiên Cung của Revatī.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada