5799. Sabbasaṃhārako natthi suddhaṃ kaṅgu pavāyati, alikaṃ bhāsatayaṃ dhuttī saccamāhu mahallikā.

5799. Không có mùi thơm tổng hợp của mọi loài hoa, vòng đeo bằng sợi chỉ tỏa ra hương thơm của hoa kaṅgu tinh khiết. Cô gái vô lại này nói lời sai trái, bà lão đã nói sự thật.

Chẳng có mùi hương của bá hoa,
Chỉ Kan-gu cứ thoảng bay ra,
Nữ nhân ác độc kia gian dối,
Bà lão nhà quê nói thật thà.

Sattadārakapañhā.

Bảy Câu Hỏi Dành Cho Đứa Trẻ.

5800. Haṃsi tuvaṃ evaṃ maññesi seyyo puttena pitāti rājaseṭṭha, handassatarassa te ayaṃ assatarassa hi gadrabho pitā.

5800. Tâu chúa thượng, nếu ngài nghĩ rằng: ‘Người cha là tốt hơn so với người con,’ vậy thì con lừa này, đối với ngài, phải cao giá hơn con la, bởi vì con lừa là cha của con la.

Tâu Đại vương, ngài vẫn nghĩ rằng
Con luôn thua kém bậc cha ông?
Thế thì lừa phải hơn la chứ,
Lừa ấy với la chính phụ thân!

Gadrabhapañho

Ekūnavīsatipañhā niṭṭhitā.

Câu Hỏi về Con Lừa.
Dứt Mười Chín Câu Hỏi.

5801. Nāyaṃ pure unnamati toraṇagge kakaṇṭako, mahosadha vijānāhi kena thaddho kakaṇṭako.  

5801. “Con tắc kè này ở trên đỉnh cổng chào, trước đây nó không ngước lên. Này Mahosadha, khanh có biết được vì sao con tắc kè lại ương ngạnh?”

1. Tắc kè thuở trước chẳng bò lên,
Khung cửa vòng cung, bậc Trí hiền,
Hãy giải thích ngay cho trẫm rõ,
Tắc kè sao cứng cổ như trên?

5802. Aladdhapubbaṃ laddhāna addhamāsaṃ kakaṇṭako, atimaññati rājānaṃ vedehaṃ mithilaggahaṃ.  

5802. “Sau khi nhận được nửa đồng tiền chưa từng nhận được trước đây, con tắc kè khi dễ vị vua trị vì ở thành Mithilā, xứ Videha.” 

2. Con tắc kè kia được thưởng cho,
Món tiền nó chẳng có bao giờ,
Nửa hào, nên nó không tôn trọng,
Đại đế Vi-đề Mi-thi-la.

Kakaṇṭakapañho.  

Câu Hỏi về Con Tắc Kè.

5803. Itthī siyā rūpavatī sā ca sīlavatī siyā, puriso taṃ na iccheyya saddahāsi mahosadha.  

5803. “Giả sử một người nữ có sắc đẹp, và nàng ấy có đức hạnh, người nam lại không ước muốn nàng ấy, này Mahosadha, khanh có tin không?”

3. Một nữ nhi đức hạnh, diễm kiều,
Nhưng nam nhân ấy chẳng thương yêu,
Hiền khanh có thể tin không chứ?
Trí giả Sa-dha hãy nói nào.

5804. Saddahāmi mahārāja puriso dubbhago siyā, sirī ca kālakaṇṇī ca na samenti kudācanaṃ.

5804. “Tâu đại vương, thần tin (điều ấy), nếu người nam có phần phước kém. Người may mắn và kẻ bất hạnh không bao giờ kết hợp với nhau.”

4. Thần vẫn tin điều ấy, Đại vương,
Kẻ kia thật bất hạnh bần cùng,
Người nhiều ân phước và vô phước,
Chẳng có bao giờ kết bạn chung.

Sirikālakaṇṇipañho. 

Câu Hỏi về May Mắn và Bất Hạnh.

5805. Yesaṃ na kadāci bhūtapubbaṃ sakkhiṃ sattapadampi imasmiṃ loke, jātā amittā duve sahāyā paṭisandhāya caranti kissa hetu.  

5805. “Đối với những kẻ thù trước đây chưa bao giờ có sự đối diện trong khoảng cách bảy bước chân ở thế gian này, giờ họ đã trở thành hai người bạn sống liên kết với nhau; nguyên nhân là thế nào?

5. Hai kẻ thù theo lẽ tự nhiên,
Chưa từng bảy bước đứng kề bên,
Trở thành bạn thiết không rời nữa,
Duyên cớ là đâu? Các bậc hiền!

5806. Yadi me ajja pātarāsakāle pañhaṃ na sakkuṇeyyātha vattumetaṃ, raṭṭhā pabbājayissāmi vo sabbe na hi mattho duppaññajātikehi.

5806. Nếu hôm nay, vào bữa ăn sáng của trẫm, các khanh không có khả năng để trả lời câu hỏi ấy, trẫm sẽ trục xuất tất cả các khanh ra khỏi đất nước, bởi vì với những kẻ có tuệ tồi thì không có lợi ích cho trẫm.”

6. Nếu không giải đáp trước trưa nay,
Trẫm sẽ đuổi luôn hết cả bầy,
Trẫm không cần những người ngu nữa,
Vậy hãy tìm lời giải đáp ngay.

5807. Mahājanasamāgamamhi ghore janakolāhalasaṅgamamhi jāte, vikkhittamanā anekacittā pañhaṃ na sakkuṇoma vattumetaṃ.  

(Lời vị Senaka)

5807. “Ở nơi tập trung đông đảo dân chúng, ở nơi hãi hùng, ở cuộc hội họp ồn ào của loài người, chúng tôi có ý nghĩ bị rối loạn, có tâm tánh thất thường, không có khả năng để trả lời câu hỏi ấy.

7. Giữa đám đông người tụ tập trung,
Thật ồn ào quá, trí mông lung,
Không sao tập hợp tư duy được,
Để giải đáp ngay, tâu Đại vương.

5808. Ekaggacittā ca ekamekā rahasigatā atthaṃ nicintayitvā, paviveke sammasitvāna dhīrā atha vakkhanti janinda atthametaṃ.  

5808. Tâu vị chúa của loài người, các bậc sáng trí, với tâm được chuyên nhất và chỉ một mình, đã đi đến nơi thanh vắng, sau khi suy nghĩ kỹ lưỡng về ý nghĩa, sau khi nắm vững được vấn đề ở nơi cô quạnh, các vị sẽ nói về ý nghĩa ấy.”

8. Nhưng hễ khi nào được độc cư,
Bình tâm tĩnh trí để suy tư,
Vấn đề xem xét cho tường tận,
Sẽ giải đáp ngay, hãy đợi chờ.

5809. Uggaputtarājaputtiyānaṃ urabbhamaṃsaṃ piyaṃ manāpaṃ, na te sunakhassa adenti maṃsaṃ atha meṇḍassa suṇena sakhyamassa.  

(Lời vị Senaka)
5809. “Đối với các trai trẻ dòng quý tộc và các trai trẻ thuộc hoàng gia, thịt cừu là đáng yêu, hợp ý. Những vị ấy không ăn thịt chó. Rồi tình thân hữu có thể xảy ra giữa con cừu và con chó.”

9. Bọn hành khất trẻ, các ông hoàng,
Rất thích thịt dê đực ngọt ngon,
Thịt chó, họ đều không thọ dụng,
Nhưng dê- chó giữ mối thân bằng.

5810. Cammaṃ vihananti eḷakassa assapiṭṭhattharaṇasukhassa hetu, na ca te sunakhassa attharanti atha meṇḍassa suṇena sakhyamassa.  

(Lời vị Pukkusa)

5810. Họ lột da của loài cừu vì nguyên nhân của sự thoải mái trong việc trải lên lưng ngựa. Và họ không trải lên bằng da của loài chó. Rồi tình thân hữu có thể xảy ra giữa con cừu và con chó.”

10. Họ lấy da dê phía núi rừng,
Phủ che ngựa quý ở trên lưng,
Còn da của chó không dùng được,
Nhưng chó dê cùng kết bạn thân.

5811. Āvellitasiṅgiko hi meṇḍo na sunakhassa visāṇāni atthi, tiṇabhakkho maṃsabhojano ca atha meṇḍassa suṇena sakhyamassa.

(Lời vị Kāvinda)
5811. Bởi vì cừu là loài thú có sừng cong, và không có các sừng ở loài chó. Cừu có thức nhai là cỏ và chó có thức ăn là thịt. Rồi tình thân hữu có thể xảy ra giữa con cừu và con chó.”

11. Cặp sừng cong xoắn, chú dê rừng,
Nhưng chó lại không có cặp sừng,
Một con ăn cỏ, con ăn thịt,
Tuy thế, chó, dê, kết bạn thân.

5812. Tiṇamāsi pālasamāsi meṇḍo na sunakho tiṇamāsi no palāsaṃ, gaṇheyya suṇo sasaṃ biḷāraṃ atha meṇḍassa suṇena sakhyamassa.

(Lời vị Devinda)
5812. Cừu là loài ăn cỏ và là loài ăn lá. Còn chó không ăn cỏ và không ăn lá. Chó có thể săn bắt thỏ và mèo. Rồi tình thân hữu có thể xảy ra giữa con cừu và con chó.”

12. Cừu dê ăn cỏ, lá cây luôn,
Cỏ, lá thì con chó chẳng ăn,
Chó thích ăn mèo hay thịt thỏ,
Nhưng dê- chó giữ mối thân bằng.

5813. Aḍḍhaṭṭhapādo catuppadassa meṇḍo aṭṭhanakho adissamāno, chādiyaṃ āharati ayaṃ imassa maṃsaṃ āharati ayaṃ amussa. (Lời đức Bồ Tát)

5813. “Là con thú bốn chân thuộc loài tứ túc, con cừu có tám móng (mỗi chân có hai móng) không bị phát hiện (khi đi lấy thịt). Con chó này mang lại vật che đậy (rơm, cỏ) cho con cừu kia; con cừu kia mang lại thịt cho con chó này.

13-14. Con dê cao tám tất dùng chân,
Tám móng, không ai thấy, vội mang,
Món thịt về cho con chó ấy,
Chó đem cỏ đến chú dê rừng.

5814. Pāsādagato videhaseṭṭho vitihāraṃ aññamañña bhojanānaṃ, addakkhi kira sakkhi taṃ janindo bobhukkhassa ca puṇṇamukhassa cetaṃ.

5814. Vị thủ lĩnh xứ sở Videha đã đi đến tòa lâu đài. Vị chúa của loài người đã thực sự nhìn thấy tận mắt việc trao đổi về thức ăn giữa con thú này với con kia. Và điều ấy xảy ra giữa con chó và con cừu.”

Vi-đề-ha, chúa toàn dân chúng,
Đứng tại thượng lầu tận mắt trông,
Việc lấy thức ăn trao đổi ấy,
Giữa dê, chó kết mối thân bằng.

5815. Lābhā vata me anapparūpā yassa me edisā paṇḍitā kulamhi, gambhīragataṃ nipuṇamatthaṃ paṭivijjhanti subhāsitena dhīrā.  (Lời đức vua)

5815. “Thật vậy, lợi ích có vẻ không phải là ít ỏi đã có cho trẫm, là việc trẫm đây có được các bậc sáng suốt như thế này ở gia tộc! Bằng lời nói khéo léo, các bậc sáng trí thấu triệt ý nghĩa vi tế và sâu sắc của câu hỏi.

15. Trẫm có các bậc hiền giả tại triều
Thật là ích lợi biết bao nhiêu,
Vấn đề tế nhị và uyên áo,
Họ thấu triệt, lời lẽ tối ưu.

5816. Assatarīrathañca ekamekaṃ phītaṃ gāmavarañca ekamekaṃ, sabbaṃ vo dammi paṇḍitānaṃ paramapatītamano subhāsitenā ”ti.  

5816. Với tâm ý được hài lòng tột đỉnh, trẫm sẽ ban cho tất cả những bậc sáng suốt các khanh mỗi vị một cỗ xe kéo bởi lừa cái, và mỗi vị được ân huệ là một ngôi làng giàu có.”

16. Cứ mỗi hiền khanh, trẫm thưởng ban,
Một xe, la cái, một ngôi làng,
Giàu sang thượng hạng cho người trí,
Trẫm thích thú lời lẽ ngọc vàng !

(Dvādasanipāte) Meṇḍakapañhaṃ.

Câu Hỏi Về Con Cừu

(thuộc Nhóm Mười Hai Kệ Ngôn).

5817. Paññāyupetaṃ siriyā vihīnaṃ yasassinañvāpi apetapaññaṃ, pucchāmi taṃ senaka etamatthaṃ kamettha seyyo kusalā vadanti.  

(Lời đức vua)

5817. “Người có trí tuệ nhưng thiếu về uy quyền, hay là người có danh vọng mà không có trí tuệ, này Senaka, trẫm hỏi khanh về sự việc này, các bậc thiện xảo nói người nào trong hai người này là tốt hơn?”

17. Có trí khôn nhưng thiếu bạc vàng,
Hoặc giàu tiền lại kém khôn ngoan,
Se-na-ka, trẫm hỏi khanh nhé:
Bậc trí gọi ai tốt đẹp hơn?

5818. Dhīrā ca bālā ca have janinda sippūpapannā ca asippino ca, sujātimantopi ajātimassa yassasino pessakarā bhavanti, etampi disvāna ahaṃ vadāmi pañño nihīno sirimāva seyyo.  

(Lời vị Senaka)

5818. “Tâu vị chúa của loài người, thật vậy, những bậc trí và những kẻ ngu, những người có kiến thức và không có kiến thức, dầu cho có dòng dõi cao quý, cũng trở thành những người làm công việc phục vụ cho kẻ không có dòng dõi cao quý nhưng có danh vọng. Sau khi nhìn thấy điều ấy, thần nói rằng: Người có trí tuệ thấp kém nhưng có uy quyền là tốt hơn.”

18. Quả thật, kẻ ngu hoặc trí nhân,
Vô văn phàm tục, hoặc đa văn,
Đều hầu hạ những người giàu có,
Dù họ cao sang hoặc hạ tầng,
Nhìn thấy điều này, thần mới nói:
Trí nhân thua kém kẻ giàu sang.

5819. Tavampi pucchāmi anomapañña mahosadha kevaladhammadassi, bālaṃ yasassiṃ paṇḍitaṃ appabhogaṃ kamettha seyyo kusalā vadanti.  

(Lời đức vua)

5819. “Này Mahosadha, vị có trí tuệ hoàn hảo, có sự nhìn thấy tất cả các pháp, trẫm cũng hỏi luôn cả khanh nữa, giữa người ngu có danh vọng và người trí có ít của cải, các bậc thiện xảo nói người nào trong hai người này là tốt hơn?”

19. Ta cũng hỏi con, Đại trí nhân,
Bậc tinh thông vạn pháp trên trần:
Kẻ ngu lắm của, người khôn khó,
Bậc trí gọi ai tốt bội phần?

5820. Pāpāni kammāni karoti bālo idhameva seyyo iti maññamāno, idhalokadassī paralokaṃ adassī ubhayattha bālo kalimaggahesi, etampi disvāna ahaṃ vadāmi paññova seyyo na yasassī bālo.

(Lời bậc sáng suốt Mahosadha)

5820. “Kẻ ngu làm các hành động xấu xa nghĩ rằng: ‘Chính cái này (uy quyền) là tốt hơn.’ Có sự nhìn thấy đời này, không nhìn thấy đời sau, kẻ ngu gánh lấy tai họa trong cả hai đời. Sau khi nhìn thấy điều ấy, thần nói rằng: Chính người có trí tuệ là tốt hơn, không phải kẻ ngu có danh vọng.”

20. Người ngu phạm tội, nghĩ suy rằng:
"Trên cõi đời, ta thắng thế hơn",
Họ thấy đời này, không cõi kế,
Nên mang tai họa cả hai đường.
Điều này con thấy, nên con nói:
Bậc trí hơn xa trọc phú đần.

5821. Na sippametaṃ vidadhāti bhogaṃ na bandhavā na sarīrāvakāso, passeḷamūgaṃ sukhamedhamānaṃ sirī hi naṃ bhajate gorimandaṃ, etampi disvāna ahaṃ vadāmi pañño nihīno sirimāva seyyo.

(Lời vị Senaka)

5821. “Không phải tài nghệ này đem lại của cải, không phải các thân quyến, không phải ưu thế về cơ thể (đem lại của cải). Bệ hạ hãy nhìn xem gã Gorimanda ngu dốt đang tràn trề hạnh phúc, bởi vì uy quyền phục vụ cho gã. Sau khi nhìn thấy điều ấy, thần nói rằng: Người có trí tuệ thì bị hạ thấp, chính kẻ có uy quyền là tốt hơn.”

21. Kiến thức không đem lại bạc vàng,
Cũng không gia thế hoặc dung nhan,
Hãy nhìn ngốc tử Go-ri ấy,
Đang hưởng vinh hoa, đại phú cường,
Vì Đại vận chìu người hạ tiện.
Điều này thần thấy, mới thưa rằng:
Bậc hiền trí chịu phần hèn mọn,
Còn kẻ giàu tiền thắng thế hơn.

5822. Laddhā sukhaṃ majjati appapañño dukkhena phuṭṭhopi pamohameti āgantunā sukhadukkhena phuṭṭho, pavedhati vāricarova ghamme etampi disvāna ahaṃ vadāmi, paññova seyyo na yasassī bālo.  

(Lời bậc sáng suốt Mahosadha)

5822. “Sau khi đạt được hạnh phúc, kẻ thiểu trí bị say mê. Luôn cả người bị tác động bởi khổ đau, cũng đi đến sự mê muội. Bị tác động bởi niềm hạnh phúc hay nỗi khổ đau đã xảy đến, con người run rẩy tựa như loài thủy tộc giãy giụa ở nơi nóng bức. Sau khi nhìn thấy điều ấy, thần nói rằng: Chính người có trí tuệ là tốt hơn, không phải kẻ ngu có danh vọng.”

22. Một người tiểu trí hóa mê man.
Bị nhiễm độc khi hưởng bạc vàng:
Nếu gặp tai ương, thành ngớ ngẩn,
Rủi may số phận đến không lường,
Nó vùng như cá phơi ngoài nắng,
Khi thấy điều trên, trẻ nói rằng:
Người trí hơn xa người có của,
Giàu tiền nhưng trí óc ngu đần.

5823. Dumaṃ yathā sāduphalaṃ araññe samantato samabhicaranti pakkhi, evampi aḍḍhaṃ sadhanaṃ sabhogaṃ bahujjano bhajati atthahetu,
etampi disvāna ahaṃ vadāmi paññova nihino sirimāva seyyo.  

(Lời vị Senaka)

5823. “Giống như cây có trái ngọt ở trong rừng, các con chim lai vãng ở xung quanh, cũng tương tự như thế, nhiều người phục vụ kẻ giàu sang, có tài sản, có của cải, vì nguyên nhân lợi lộc. Sau khi nhìn thấy điều ấy, thần nói rằng: Người có trí tuệ thì bị hạ thấp, chính kẻ có uy quyền là tốt hơn.”

23. Trong rừng, chim chóc tự mười phương,
Tụ tập trên cây có trái ngon,
Cũng vậy, người nhiều tiền lắm của,
Đám đông hám lợi đến quây quần.
Thấy vầy, thần nói: người hiền trí,
Hèn kém, kẻ giàu thắng thế hơn.

5824. Na sādhu balavā bālo sāhasaṃ vindate dhanaṃ kandantameva dummedhaṃ kaḍḍhanti niraye bhusaṃ, etampi disvāna ahaṃ vadāmi paññova seyyo na yasassī bālo.  (Lời bậc sáng suốt Mahosadha)

5824. “Chẳng tốt lành gì việc kẻ ngu có quyền thế tìm kiếm tài sản bằng bạo lực. Các viên quan canh giữ địa ngục kéo lôi kẻ ngu muội còn đang than khóc vào địa ngục vô số kể. Sau khi nhìn thấy điều ấy, thần nói rằng: Chính người có trí tuệ là tốt hơn, không phải kẻ ngu có danh vọng.”

24. Kẻ ngu quyền thế chẳng hiền lương,
Dùng bạo lực khi chiếm bạc vàng,
Nó rống thật to tùy ý thích,
Quỷ nhân kéo nó xuống âm cung!
Thấy điều này, tiểu nhi xin nói:
Bậc trí hơn xa trọc phú đần.

5825. Yā kāci najjo gaṅga mabhissavanti sabbāva tā nāmagottaṃ jahanti gaṅgā samuddaṃ paṭipajjamānā, na khāyate iddhiparo hi loko etampi disvāna ahaṃ vadāmi, paññova nihīno sirimāva seyyo. (Lời vị Senaka)

5825. “Mọi dòng sông đều chảy vào sông Gaṅgā; tất cả các dòng sông ấy đều từ bỏ danh xưng và gốc gác. Trong khi đạt đến biển cả, sông Gaṅgā không còn được biết đến; bởi vì kẻ khác có quyền lực hiện diện ở trên đời, (người trí không còn được biết đến). Sau khi nhìn thấy điều ấy, thần nói rằng: Người có trí tuệ thì bị hạ thấp, chính kẻ có uy quyền là tốt hơn.”

25. Mọi dòng nước đổ xuống sông Hằng,
Đều mất tánh danh với giống dòng,
Đổ xuống biển, sông Hằng cũng sẽ,
Không còn phân biệt được thành phần.
Vậy đời phục vụ người giàu của;
Nhìn thấy điều trên, thần nói rằng:
Người có trí chịu phần thấp kém,
Còn người giàu của chiếm phần hơn.

5826. Yametamakkhā udadhiṃ mahantaṃ savanti najjo sabbakālaṃ asaṅkhaṃ, so sāgaro niccamuḷāravego velaṃ na acceti mahāsamuddo. (Lời bậc sáng suốt Mahosadha)

5826. “Biển cả to lớn mà vị Senaka đã nói đến ấy có các dòng sông luôn chảy vào không kể xiết, biển cả ấy, là đại dương, thường xuyên có lực đẩy khủng khiếp, nhưng không tràn qua bờ.26-27. Biển cả, người kia nói, lệ thường,
Muôn sông đổ xuống, đập không ngừng,
Vào bờ, nhưng chẳng bao giờ vượt,
Bờ nọ, dù hùng vĩ đại dương.

5827. Evampi bālassa pajappitāni paññaṃ na acceti sirī kadāci, etampi disvāna ahaṃ vadāmi paññova seyyo na yasassī bālo.

5827. Cũng tương tự như vậy, những lời nói làm nhảm của kẻ ngu (không qua mặt được người trí); uy quyền không bao giờ vượt hơn trí tuệ. Sau khi nhìn thấy điều ấy, thần nói rằng: Chính người có trí tuệ là tốt hơn, không phải kẻ ngu có danh vọng.”

Cũng vậy, lời người ngu nhảm nhí,
Phồn vinh không thể vượt hiền nhân,
Thấy điều này, tiểu nhi xin nói:
Người trí hơn xa trọc phú đần.

5828. Asaññato cepi paresamatthaṃ bhaṇāti santhānagato yasassī, tasseva taṃ rūhati ñātimajjhe sirī hi naṃ kārayate na paññā, etampi disvāna ahaṃ vadāmi. paññova nibhino sirimāva seyyo.

(Lời vị Senaka)
5828. “Nếu kẻ có danh vọng đã đạt được địa vị trình bày sự việc cho những người khác, dầu cho không có giới hạnh, lời nói của chính kẻ ấy vẫn có giá trị ở giữa các thân quyến; chính uy quyền giúp cho gã ấy vượt lên, không phải trí tuệ. Sau khi nhìn thấy điều ấy, thần nói rằng: Người có trí tuệ thì bị hạ thấp, chính kẻ có uy quyền là tốt hơn.”

28. Người giàu ở địa vị cao sang,
Có thể thiếu phòng hộ bản thân,
Nhưng nếu nói gì cùng kẻ khác,
Lời kia giá trị giữa nhân quần.
Trí khôn không thể gây uy tín,
Cho kẻ nào không có bạc vàng.
Thấy vầy thần nói: người hiền trí,
Thấp kém, người giàu thắng thế hơn.

5829. Parassa vā attano vāpi hetu bālo musā bhāsati appapañño, so nindito hoti sabhāya majjhe peccāpi so duggatigāmi hoti, etampi disvāna ahaṃ vadāmi. paññova seyyo na yasassī bālo.  (Lời bậc sáng suốt Mahosadha)

5829. “Dẫu cho vì nguyên nhân của người khác hay của bản thân, kẻ ngu, kém trí tuệ, nói lời dối trá, kẻ ấy bị chê bai ở giữa hội chúng. Thậm chí sau khi chết, kẻ ấy còn bị đi đến chốn khổ đau. Sau khi nhìn thấy điều ấy, thần nói rằng: Chính người có trí tuệ là tốt hơn, không phải kẻ ngu có danh vọng.”

29. Vì kẻ khác hay chính bản thân,
Kẻ ngu thường chẳng nói chân ngôn,
Chịu ô nhục giữa nơi quần chúng,
Đời kế nó rơi cảnh khổ buồn.
Vì thấy điều này, con trẻ nói:
Trí nhân hơn trọc phú ngu đần.

5830. Atthampi ce bhāsati bhūripañño anāḷhiyo appadhano daḷiddo, na tassa taṃ rūhati ñātimajjhe sirī ca paññāṇavato na hoti etampi disvāna ahaṃ vadāmi, paññova nihīno sirimāva seyyo.  (Lời vị Senaka)

5830. “Nếu người có trí tuệ uyên bác, không dư dả, có ít tài sản, nghèo khó, trình bày sự việc, lời nói của người ấy không có giá trị ở giữa các thân quyến; và uy quyền không thuộc về người có trí tuệ. Sau khi nhìn thấy điều ấy, thần nói rằng: Người có trí tuệ thì bị hạ thấp, chính kẻ có uy quyền là tốt hơn.”

30. Cho dù người Đại trí khôn ngoan,
Thiếu gạo thóc, lâm cảnh khốn nàn,
Nếu có nói điều gì phải trái,
Cũng không giá trị giữa thân nhân,
Phồn vinh không đến nhờ tri kiến.
Nhìn thấy điều trên, thần nói rằng:
Người trí phải chịu phần thấp kém,
Còn người giàu của thắng phần hơn.

5831. Parassa vā attano vāpi hetu na bhāsati alikaṃ bhūripañño, so pūjito hoti sabhāya majjhe peccañca so suggatigāmi hoti, etampi disvāna ahaṃ vadāmi paññova seyyo na yasassī bālo. (Lời bậc sáng suốt Mahosadha)

5831. “Dẫu cho vì nguyên nhân của người khác hay của bản thân, người có trí tuệ uyên bác không nói lời sai trái, người ấy được tôn vinh ở giữa hội chúng. Và sau khi chết, người ấy được đi đến chốn an vui. Sau khi nhìn thấy điều ấy, thần nói rằng: Chính người có trí tuệ là tốt hơn, không phải kẻ ngu có danh vọng.”

31. Chẳng vì mình, cũng chẳng vì người,
Bậc Đại trí nhân phải dối lời,
Người được tôn sùng trong hội chúng,
Đời sau hưởng hạnh phúc an vui.
Thấy điều này trẻ thơ xin nói:
Bậc trí hơn người trọc phú thôi.

5832. Hatthīgavāssā maṇikuṇḍalā ca nāriyo ca iddhesu kulesu jātā, sabbāva tā upabhogā bhavanti iddhassa posassa aniddhimanto, etampi disvāna ahaṃ vadāmi paññova seyyo na yasassī bālo. (Lời vị Senaka)

5832. “Các con voi, bò, ngựa, các bông tai ngọc ma-ni, và các nữ nhân được phát hiện ở các gia tộc giàu có; toàn bộ tất cả các nàng ấy là vật sở hữu. Những người không có quyền thế là thuộc về người có quyền thế. Sau khi nhìn thấy điều ấy, thần nói rằng: Người có trí tuệ thì bị hạ thấp, chính kẻ có uy quyền là tốt hơn.”

32. Voi, ngựa, bò, vòng ngọc, nữ nhân,
Thấy nhiều trong các hộ giàu sang,
Để dành cho các người giàu hưởng,
Mà chẳng cần uy lực thánh thần,
Nhìn thấy điều này, thần dám nói:
Bậc hiền thấp kém, phú gia hơn.

5833. Asaṃvihitakammantaṃ bālaṃ dummantamantinaṃ, sirī jahati dummedhaṃ jiṇṇaṃva urago tacaṃ, etampi disvāna ahaṃ vadāmi paññova seyyo na yasassī bālo. (Lời bậc sáng suốt Mahosadha)

5833. “Uy quyền từ bỏ kẻ ngu muội, là kẻ có việc làm không được sắp xếp, ngu dốt, có suy nghĩ xấu xa, tựa như con rắn từ bỏ lớp da đã bị già cỗi. Sau khi nhìn thấy điều ấy, thần nói rằng: Chính người có trí tuệ là tốt hơn, không phải kẻ ngu có danh vọng.”

33. Người ngu hành động thiếu suy tư,
Nói những lời ngu xuẩn, dại rồ;
Vô trí bị quăng vì Đại vận,
Như con rắn bỏ lớp da khô.
Thấy điều này, trẻ thơ xin nói:
Bậc trí hơn xa phú hộ ngu.

5834. Pañca paṇḍitā mayaṃ bhadante sabbe pañjalikā upaṭṭhitā, tvaṃ no abhibhuyya issarosi sakko bhūtapatīva devarājā, etampi disvāna ahaṃ vadāmi paññova nihīno sirimāva seyyo. (Lời vị Senaka)

5834. “Tâu bậc tôn kính, năm người sáng suốt chúng thần, tất cả đều chắp tay hầu cận. Ngài đã khuất phục chúng thần và là vị chúa tể, tựa như Sakka là người chủ quản của các sanh linh, vị chúa của chư Thiên. Sau khi nhìn thấy điều ấy, thần nói rằng: Người có trí tuệ thì bị hạ thấp, chính kẻ có uy quyền là tốt hơn.”

34. Năm trí nhân là bọn chúng thần,
Thảy đều hầu cận đấng tôn quân,
Hết lòng kính trọng ngài là chúa,
Là chủ nhân ông của thứ dân.
Như Đế Thích là vua vạn vật,
Chính là chúa tể của thiên nhân.
Thấy vầy thần nói: người hiền trí,
Thấp kém, người giàu thắng thế hơn.

5835. Dāsova paññassa yasassī bālo atthesu jātesu tathāvidhesu, yaṃ paṇḍito nipuṇaṃ saṃvidheti sammohamāpajjati tattha bālo etampi disvāna ahaṃ vadāmi. paññova seyyo na yasassī bālo.  (Lời bậc sáng suốt Mahosadha)

5835. “Kẻ ngu có danh vọng chính là nô lệ của người trí. Khi các công việc thuộc loại như thế ấy sanh khởi, người sáng suốt xếp đặt công việc một cách khéo léo, trong trường hợp ấy kẻ ngu đi đến sự rối loạn. Sau khi nhìn thấy điều ấy, thần nói rằng: Chính người có trí tuệ là tốt hơn, không phải kẻ ngu có danh vọng.

35. Người ngu nô lệ của người hiền,
Khi vấn đề này phát khởi lên,
Bậc trí giải đề khôn khéo lắm,
Kẻ ngu rối trí tựa cuồng điên.
Thấy điều này, trẻ thơ xin nói:
Bậc trí hơn xa kẻ lắm tiền.

5836. Addhā hi paññāva sataṃ pasatthā kantā sirī bhogaratā manussā, ñāṇañca buddhānamatulyarūpaṃ paññaṃ na acceti sirī kadāci.  

5836. Thật vậy, bởi vì chính trí tuệ đã được các bậc thiện nhân ca tụng; còn loài người ưa thích của cải, thì uy quyền được chúng yêu mến. Và trí của chư Phật là không thể sánh bằng. Uy quyền không bao giờ vượt hơn trí tuệ.”

36. Trí tuệ được sùng bởi thiện nhân,
Bạc vàng được chuộng bởi người trần,
Đắm say hưởng thụ bao tham dục.
Tri kiến Phật-đà thật tuyệt luân;
Vàng bạc chẳng bao giờ vượt quá
Trí cao siêu việt, tấu vương quân.

5837. Yaṃ taṃ apucchimha akittayī no mahosadha kevaladhammadassī, gavaṃ sahassaṃ usabhañca nāgaṃ ājaññayutte ca rathe dasa ime, pañhassa veyyākaraṇena tuṭṭho dadāmi te gāmavarāni soḷaya.  (Lời đức vua)

5837. “Điều mà chúng ta đã hỏi khanh, khanh đã trả lời cho chúng ta. Này Mahosadha, vị có sự nhìn thấy tất cả các pháp, được hài lòng với việc giải thích câu hỏi, ta ban cho khanh một ngàn bò cái, một bò mộng, và một con voi, với mười cỗ xe kéo đã được thắng vào những con ngựa thuần chủng này, và ân huệ là mười sáu ngôi làng.”

37. Con đáp mọi câu hỏi của ta,
Pháp Sư độc nhất, Ma-ho-sa,
Ngàn bò cái, một voi, bò đực,
Tuấn mã kéo mười cỗ đại xa,
Mười sáu ngôi làng giàu đẹp nhất,
Hân hoan ta tặng thưởng con thơ.

Vīsatinipāte sirimandapañho.

Câu Hỏi về Uy Quyền và Kẻ Ngu

(thuộc Nhóm Hai Mươi Kệ Ngôn).

5838. Yena sattubilaṅgā ca dviguṇapalāso ca pupphito, yenādāmi tena vadāmi yena nādāmi na tena vadāmi, esa maggo yavamajjhakassa etaṃ channapathaṃ vijānāhi.

5839. Theo hướng đi có tiệm bánh và tiệm cháo, rồi có cây song diệp đã được trổ hoa; thiếp cho bằng tay nào thì thiếp nói về hướng đó, thiếp không nói về hướng phía bên tay mà thiếp không cho; con đường ấy dẫn đến ngôi làng Yavamajjhaka, chàng hãy nhận biết lối đi đã được che giấu ấy.

38. Nhờ món bánh và cháo nấu nhừ,
Cùng cây song điệp trổ muôn hoa,
Bàn tay thiếp để ăn và chỉ,
Chẳng phải bàn tay thiếp bỏ qua,
Đó chính là đường đi thị trấn,
Con đường bí mật phải tìm ra.

Channapathapañho.

Câu Hỏi về Lối Đi Đã Được Che Giấu.

5839. Hanti hatthehi pādehi mukhañca parisumbhati, sace rāja piyo hoti kaṃ tenamabhipassati.

5839. Gã ấy đánh bằng những cánh tay, bằng những bàn chân, và gã ấy đấm vào mặt. Tâu bệ hạ, gã ấy quả thật đáng yêu; bệ hạ xem có ai đáng yêu hơn gã ấy?

39. Kẻ ấy đánh bằng chân lẫn tay,
Đánh luôn cả mặt mũi tai mày,
Tuy nhiên kẻ ấy, tâu Hoàng thượng;
Thân thiết hơn chồng nữa, lạ thay !

5840. Ko nu santamhi pajjote aggipariyesanaṃ caraṃ, addakkhi rattiṃ khajjotaṃ jātavedaṃ amaññatha.  

5840. “Người nào, trong khi có cây đèn, trong khi đi tìm kiếm ngọn lửa, đã nhìn thấy con đom đóm lúc ban đêm và đã nghĩ là ngọn lửa? "Khi lửa tắt, có ai đi tìm lửa từng nghĩ rằng con đom đóm có thể làm mồi lửa được chăng, nếu người ấy trông thấy đom đóm ban đêm?

5841. Svāssa gomayacuṇṇāni abhimatthaṃ tiṇāni ca, viparītāya saññāya nāsakkhi sañjaletave.  

5841. Kẻ ấy, trong khi nghiền nát bụi phân bò và các cỏ khô ở con đom đóm (để nhóm lửa), do hiểu biết sai lệch, đã không thể làm bùng cháy ngọn lửa.Nếu người ấy vò vụn phân bò và cỏ chất lên nó thì thật là điên rồ, vì không thể làm nó bắt lửa được.

5842. Evampi anupāyena atthaṃ na labhate mago, visāṇato gavaṃ dohaṃ yattha khīraṃ na vindati.

5842. Cũng như vậy, bằng cách thức sai trái, kẻ ngu không đạt được sự lợi ích trong khi vắt sữa bò cái từ sừng bò, là nơi không tìm thấy sữa.Cũng vậy, một thú vật không ích lợi gì cho ta nếu ta dùng nó theo cách sai lạc, ví như vắt sữa sừng bò, thì chẳng bao giờ sữa chảy ra.

5843. Vividhehi upāyehi atthaṃ papponti māṇavā, niggahena amittānaṃ mittānaṃ paggahena ca.

5843. Các chàng trai trẻ thu thập điều lợi ích theo nhiều cách thức, nhờ vào sự quở trách của những kẻ thù và nhờ vào sự nâng đỡ của các thân hữu.Con người được lợi lạc nhờ nhiều phương tiện như là trừng phạt kẻ thù và tỏ tình thân ái với bằng hữu.

5844. Seṇimokkhopalābhena vallabhānaṃ nayena ca, jagatiṃ jagatīpālā āvasanti vasundharaṃ.  

5844. Nhờ việc thu phục các tướng lãnh của quân đội, và nhờ vào kế hoạch của các cận thần, các vị chúa tể trái đất cư ngụ ở trái đất, nơi cất giữ nhiều của cải.”Nhờ chinh phục các tướng lãnh giữa chốn ba quân và lời bằng hữu khuyên răn, các vị chúa tể trên thế gian ngự trị cả thế gian và hưởng thụ trọn vẹn."

Khajjopaṇakapañho.

Câu Hỏi về Con Đom Đóm.

5845. Saccaṃ kira tvampi bhūripañño yā tādisī sirī dhitī mutī ca, na tāyate bhāvavasūpanītaṃ yo yāvakaṃ bhuñjasi appasūpaṃ.  

(Lời của một quan viên)

5845. “(Điều vị Senaka đã nói) quả đúng là sự thật, ngài dầu có trí tuệ uyên bác, thêm vào sự vinh quang, nghị lực, và thông minh như thế ấy vẫn không bảo vệ được vị thế và quyền lực đã đạt đến của ngài, khiến ngài phải ăn món lúa mạch với ít nước xúp.”

40. Có thật ngài là bậc Trí nhân,
Như người đồn có trí uyên thâm,
Vậy tài trí, đại vinh quang ấy,
Chẳng phục vụ ngài đúng nghĩa chăng,
Và đã trở thành không ý nghĩa,
Trong khi ngài nuốt chút cơm hầm?

5846. Sukhaṃ dukkhena paripācayanto kālākālaṃ vicinaṃ chandachanno, atthassa dvārāni avāpuranto tenāhaṃ tussāmi yavodanena.  

(Lời bậc sáng suốt Mahosadha)

5846. “Trong khi làm tăng trưởng hạnh phúc với sự khó nhọc, trong khi xem xét thời điểm hoặc chưa phải thời điểm, ta đã che giấu lòng mong muốn trong khi mở ra các cánh cửa đưa đến điều lợi ích; vì thế, ta hài lòng với cơm lúa mạch.

41. Vinh quang ta tạo bởi gian truân,
Đúng lúc, trái thời, ta biệt phân,
Để ẩn náu mình theo ý muốn,
Mở toang các cửa lợi vô ngần,
Cho nên ta biết điều tri túc,
Với chút cơm hầm, vẫn muốn ăn.

5847. Kālañca ñatvā abhijīhanāya mantehi atthaṃ paripācayitvā, vijambhissaṃ sīhavijambhitāni tāyiddhiyā dakkhasi maṃ punāpi.  

5847. Và sau khi nhận biết thời điểm cho việc ra sức, sau khi làm cho chín muồi sự lợi ích thông qua các kế hoạch, ta sẽ phô trương bản thân tựa như con sư tử đã vươn dậy; với sự thành tựu ấy, ngươi cũng sẽ gặp lại ta.”

42. Khi ta nhận thấy đúng thời cơ,
Nỗ lực tạo thành mối lợi to,
Theo kế hoạch, ta liền chịu đựng,
Can cường chẳng khác một thanh sư,
Và nhờ năng lực oai hùng ấy,
Ông sẽ thấy ta trở lại mà.

5848. Sukhī hi eke na karonti pāpaṃ avaṇṇasaṃsaggabhayā puneke, pahū samāno vipulatthacintī kiṃ kāraṇā me na karosi dukkhaṃ.

(Lời đức vua)

5848. “Một số người không làm điều ác bởi vì họ hạnh phúc, thêm nữa một số người do sợ hãi việc dính líu đến điều tai tiếng; còn khanh, trong khi đang có nhiều ý tưởng về những lợi ích lớn lao, vì lý do gì mà khanh không gây ra sự khổ đau cho trẫm?”

43. Lắm kẻ không gây tạo lỗi lầm,
Bởi vì họ đã được giàu sang,
Nhưng nhiều người chẳng gây lầm lỗi,
Vì sợ bùn nhơ cấu uế tâm,
Con đủ tài năng làm sự nghiệp,
Sao con không hãm hại vương quân?

5849. Na paṇḍitā attasukhassa hetu pāpāni kammāni samācaranti, dukkhena puṭṭhā khalitattāpi santā chandā ca dosā na jahanti dhammaṃ.

(Lời bậc sáng suốt Mahosadha)

5849. “Các bậc sáng suốt không vì nguyên nhân hạnh phúc của bản thân mà tạo ra các ngiệp ác xấu. Những người tốt, dầu bị tác động bởi khổ đau, dầu bản thân bị vấp ngã, cũng không vì tham muốn và sân hận mà từ bỏ thiện pháp.”

44. Bậc Trí giả không tạo lỗi lầm,
Chỉ vì lạc thú hưởng giàu sang,
Thiện nhân dù gặp cơn tai họa,
Và bị lâm vào cảnh khốn nàn,
Chẳng vì thân hữu hay thù hận,
phải khước từ đạo chánh chân.

5850. Yena kenaci vaṇṇena mudunā dārunena vā, uddhare dīnamattānaṃ pacchā dhammaṃ samācare.

(Lời đức vua)

5850. “Bằng bất cứ cách thức nào, mềm mỏng hay thô bạo, nên đưa bản thân ra khỏi tình trạng khốn khó, rồi sau đó mới thực hành thiện pháp.”45. Người nào vì bất cứ nguyên nhân,
Dù nhỏ, dù to, với bản thân,
Đưa chính mình lên từ chỗ thấp,
Về sau tiến bước đạo Như chân.

5851. Yassa rukkhassa chāyāya nisīdeyya sayeyya vā, na tassa sākhaṃ bhañjeyya mittadubbho hi pāpako.  

(Lời bậc sáng suốt Mahosadha)

5851. “Người ngồi hoặc nằm ở bóng râm của cây nào thì không nên bẻ gãy cành lá của cây ấy, bởi vì kẻ phản bội bạn bè là kẻ ác xấu.46. Dưới một gốc cây bóng mát lành,
Nếu ta ngồi xuống nghỉ thân mình,
Chặt cành lá ấy là làm phản,
Bọn giả dối, ta phải ghét khinh.

5852. Yassā hi dhammaṃ manujo vijaññā ye cassa kaṅkhaṃ vinayanti santo, taṃ hissa dīpañca parāyaṇañca na tena mittaṃ jarayetha pañño.

5852. Nhờ vào vị nào mà một người có thể nhận thức được lẽ phải, và các bậc thiện nhân dẹp bỏ mối nghi ngờ đối với người này, chính vị ấy là hòn đảo và là nơi nương tựa của người này; người có sự hiểu biết không nên hủy hoại tình bạn với vị ấy.”

47. Nếu một người khai đạo chánh chân,
Đánh tan nghi hoặc của tha nhân,
Người này thành một nơi nương tựa,
Và bảo hộ cho chính bản thân,
Bậc Trí không bao giờ hủy diệt,
Mối dây này kết hợp thân bằng.

5853. Alaso gihī kāmabhogī na sādhu asaññato pabbajito na sādhu, rājā na sādhu anisammakārī yo paṇḍito kodhano taṃ na sādhu.  

5853. “Người tại gia biếng nhác có sự thọ hưởng các dục, là không tốt, bậc xuất gia không tự chế ngự, là không tốt, vị vua có hành động không cân nhắc, là không tốt, người sáng suốt có sự phẫn nộ, việc ấy là không tốt.

48. Ta ghét thế nhân đắm dục tình,
Giả tu là dối gạt rành rành,
Hôn quân xử án không nghe thấy,
Sân hận người hiền chẳng biện minh.

5854. Nisamma khattiyo kayirā nānisamma disampati, nisammakārino rāja yaso kitti ca vaḍḍhati.  

5854. Vị Sát-đế-lỵ nên hành động sau khi cân nhắc. Bậc chúa tể một phương không thể không cân nhắc. Đối với vị vua có hành động đã được cân nhắc, danh vọng và tiếng tăm tăng trưởng.”

49. Vị vua thận trọng suy tư kỹ,
Xử án đầy suy xét tận tình,
Vua chúa suy tư phân xử đúng,
Đời đời danh vọng mãi quang vinh.

Bhūripañho.

Câu Hỏi Uyên Bác.

5855. Hanti hatthehi pādehi mukhañca parisumbhati, sa ce rāja piyo hoti kaṃ tenamabhipassasi.

5855. “Gã ấy đánh bằng những cánh tay, bằng những bàn chân, và gã ấy đấm vào mặt. Tâu bệ hạ, gã ấy quả thật đáng yêu; bệ hạ xem có ai đáng yêu hơn gã ấy?”

50. Kẻ ấy đánh bằng chân lẫn tay,
Đánh luôn cả mặt, mũi, tai, mày,
Tuy nhiên kẻ ấy, tâu Hoàng thượng,
Thân thiết hơn chồng nữa, lạ thay!

5856. Akkosati yathākāmaṃ āgamañcassa na icchati, sa ce rājā piyo hoti taṃ tenamabhipassasi.

5856. “Người sỉ vả gã ấy tùy theo ý thích, nhưng người lại mong muốn sự quay về của gã ấy. Tâu bệ hạ, gã ấy quả thật đáng yêu; bệ hạ xem có ai đáng yêu hơn gã ấy?”

51. Bà mắng kẻ kia thật tệ tàn,
Nhưng bà muốn nó ở kề gần,
Kẻ kia, tuy vậy, tâu Hoàng thượng,
Còn thiết thân hơn chính cả chồng.

5857. Abbhakkhāti abhūtena alikenamabhisāraye, sa ce rāja piyo hoti kaṃ tenamabhipassasi.

5857. “Người trách móc gã ấy với việc không có thật, người buộc tội với chuyện giả dối. Tâu bệ hạ, gã ấy quả thật đáng yêu; bệ hạ xem có ai đáng yêu hơn gã ấy?”

52. Nàng mắng nhiếc chàng chẳng lý do,
Và nàng trách móc thật vu vơ,
Tuy nhiên, chàng ấy, tâu Hoàng thượng,
Thân thiết hơn chồng nữa, lạ chưa?

5858. Haraṃ annañca pānañca vatthasenāsanāni ca, aññadatthu harā santā te ve rāja piyā honti kaṃ tenamabhipassasi.

5858. “Trong khi lấy mang đi cơm, nước, y phục, và chỗ trú ngụ, thật vậy, những người lấy mang đi là những người tốt. Tâu bệ hạ, những người ấy quả thật đáng yêu; bệ hạ xem có những ai đáng yêu hơn những người ấy?”

53. Lấy thực phẩm, y phục, tọa sàng,
Thiện nhân mang mọi vật lên đàng,
Tuy nhiên, các vị, tâu Hoàng thượng,
Còn thiết thân hơn chính cả chồng.

Devatāpucchitapañhā.

Các Câu Hỏi Được Hỏi Bởi Vị Thiên Nhân.

5859. Pañca paṇḍitā samāgatā pañho me paṭibhāti taṃ suṇātha, nindiyamatthaṃ pasaṃsiyaṃ vā kassevāvikareyya guyhamatthaṃ.

(Lời đức vua)

5859. “Năm bậc nhân sĩ đã tụ hội lại. Có câu hỏi lóe lên ở trẫm, các vị hãy lắng nghe điều ấy. Có nên bày tỏ việc cần phải giấu kín đến người nào khác, cho dầu là việc đáng bị chê bai hay là việc đáng được khen ngợi?”

54. Năm vị hiền nhân họp buổi nay,
Vấn đề trẫm chợt nghĩ, nghe đây:
Cùng ai, bí mật nên bày tỏ,
Dù tốt xấu, hay dở, nói ngay!

5860. Tvaṃ no āvikarohi bhūmipāla bhattā bhārasaho tuvaṃ vadetaṃ, tava chandañca ruciñca sammasitvā atha vakkhanti janinda pañca dhīrā. 

(Lời vị Senaka)

5860. “Tâu đấng hộ quốc, xin bệ hạ hãy bày tỏ với chúng thần. Bệ hạ là chủ nhân, là người nâng đỡ gánh nặng cho chúng thần, xin bệ hạ hãy nói ra điều ấy. Tâu vị chúa của loài người, sau khi nắm bắt được mong muốn và ý thích của bệ hạ, khi ấy năm vị sáng trí sẽ phát biểu.”

55. Xin Đại vương cho biết ý trời,
Muôn tâu Chúa thượng ở trên đời,
Là người bảo hộ, cưu mang nặng,
Năm trí giả mong hiểu ý ngài,
Cùng sở thích ngài, xin hãy nói,
Muôn tâu chúa tể cõi trần ai!

5861. Yā sīlavatī anaññadheyyā bhattucchandavasānugā piyā manāpā, nindiyamatthaṃ pasaṃsiyaṃ vā bhariyāyāvikareyya guyhamatthaṃ.  

(Lời đức vua)

5861. “Cho dầu là việc đáng bị chê bai hay là việc đáng được khen ngợi, nên bày tỏ việc cần phải giấu kín đến người vợ, (nếu) nàng là người có giới hạnh, không thể bị xúi giục bởi người khác, chiều theo sự mong muốn và mệnh lệnh của chồng, đáng yêu, và hợp ý.”

56. Nếu nữ nhân đức hạnh phục tùng,
Tuân theo ý nguyện của phu quân,
Đầy tình thân ái thì nên nói,
Điều bí mật, hay dở mặc lòng!

5862. Yo kicchagatassa āturassa saraṇaṃ hoti gatī parāyaṇañca, nindiyamatthaṃ pasaṃsiyaṃ vā sakhinovāvikareyya guyhamatthaṃ.  

(Lời vị Senaka)

5862. “Cho dầu là việc đáng bị chê bai hay là việc đáng được khen ngợi, nên bày tỏ việc cần phải giấu kín đến người bạn, (nếu) vị ấy là nơi nương tựa, nơi đi đến, nơi nâng đỡ đối với người gặp khó khăn, đối với người bị bệnh.”

57. Ai bảo vệ người bệnh khốn cùng,
Là nguồn cấp dưỡng, chốn nương thân,
Thì nên bày tỏ cùng thân hữu.
Điều bí mật, hay dở mặc lòng.

5863. Jeṭṭho atha majjhimo kaṇiṭṭho so ce sīlasamāhito ṭhitatto, nindiyamatthaṃ pasaṃsiyaṃ vā bhātuvāvikareyya guyhamatthaṃ.  

(Lời vị Pukkusa)

5863. “Cho dầu là việc đáng bị chê bai hay là việc đáng được khen ngợi, nên bày tỏ việc cần phải giấu kín đến anh em trai, là người anh cả, anh thứ, hay em út, nếu người ấy có giới hạnh, trầm tĩnh, có bản tánh kiên định.”

58. Dù già hay trẻ, hoặc trung niên,
Nếu chú em đức hạnh, đáng khen,
Với chú em này, điều bí mật,
Dù là tốt xấu, hãy nêu lên.

5864. Yo ve pituhadayassa paddhagu anujāto pitaraṃ anomapañño, nindiyamatthaṃ pasaṃsiyaṃ vā puttassāvikareyya guyhamatthaṃ.

(Lời vị Kāvinda)

5864. “Cho dầu là việc đáng bị chê bai hay là việc đáng được khen ngợi, nên bày tỏ việc cần phải giấu kín đến người con trai, là người tuân phục sự sai bảo của cha, là người con tiếp nối sự nghiệp của cha, là người có trí tuệ hoàn hảo.”

59. Khi đứa con vâng phục ý cha,
Con trai thành thật, trí cao xa,
Với con như vậy, thì nên nói,
Điều bí mật, dù tốt xấu mà.

5865. Mātā dipadā janindaseṭṭha yo taṃ poseti chandasā piyena, nindiyamatthaṃ pasaṃsiyaṃ vā mātuyāvikareyya guyhamatthaṃ.(Lời vị Devinda)

5865. “Tâu vị chúa tối thượng của loài người có hai chân, cho dầu là việc đáng bị chê bai hay là việc đáng được khen ngợi, nên bày tỏ việc cần phải giấu kín đến người mẹ, là người mẹ nuôi dưỡng kẻ ấy với sự mong mỏi, với sự yêu mến.”

60. Muôn tâu Chúa tể của quần sinh,
Nếu mẹ yêu con thật tận tình,
Đối với mẹ này, điều bí mật
Dở hay, có thể nói cho rành.

5866. Guyhassa hi guyhameva sādhu na hi guyhassa pasatthamāvikammaṃ, anipphādāya saheyya dhīro nipphannattho yathāsukhaṃ bhaṇeyya.(Lời bậc sáng suốt Mahosadha)

5866. “Riêng đối với việc cần phải giấu kín, chỉ có việc giấu kín là tốt, bởi vì đối với việc cần phải giấu kín, sự bày tỏ là không được khen ngợi. Khi việc chưa được hoàn tất, vị sáng trí nên chịu đựng; khi việc đã được hoàn tất, thì có thể nói ra một cách thoải mái.”

61. Giữ gìn bí mật chính là hay,
Chẳng đáng khen cơ mật tỏ bày,
Người khôn phải giữ điều thầm kín,
Khi việc chưa thành tựu, khéo thay!
Sau lúc thực hành điều bí mật,
Khi người muốn, có thể nêu ngay.

5867. Kinnu tvaṃ vimanosi rājaseṭṭha dipadinda vacanaṃ suṇoma netaṃ, kiṃ cintayamāno dummanosi nūna deva aparādho atthi mayhaṃ.

(Lời hoàng hậu Udumbaradevī)

5867. “Tâu chúa thượng, việc gì khiến bệ hạ ưu tư? Tâu vị chúa tể của loài người, bọn thiếp không nghe nói gì về việc ấy. Trong khi suy nghĩ về việc gì mà ngài phiền muộn? Tâu bệ hạ, không lẽ thiếp có lỗi lầm gì chăng?”

62. Vì sao lo lắng, tâu Quân vương?
Thần thiếp chẳng nghe giọng Chúa công,
Hoàng thượng nghĩ gì sinh khổ não,
Có gì lầm lỗi, thiếp làm chăng?

5868. Pañño vajjho mahosadhoti āṇatto me vadhāya bhūripañño, taṃ cintayanto dummanosmi na hi devi aparādho atthi tuyhaṃ.  

(Lời đức vua)

5868. “‘Kẻ có trí Mahosadha đáng bị giết chết,’ (nghe lời sàm tấu) trẫm đã ra lệnh hành quyết bậc có trí tuệ uyên bác. Trong khi suy nghĩ về việc ấy khiến trẫm phiền muộn. Này hoàng hậu, nàng chẳng có lỗi lầm gì.”

63. Chúng tâu: "Trí giả Đại Sa-dha
Phải bị giết ngay vì đức vua",
Đệ nhất hiền nhân, ta xử trảm,
Khi ta nghĩ vậy, trí buồn lo.
Không gì lầm lỗi từ khanh cả,
Hỡi ái hậu yêu dấu của ta.

5869. Abhidosagato idāni esi kiṃ sutvā kimāsaṅkate mano te, ko te kimavoca bhūripañña iṅgha taṃ vacanaṃ suṇoma brūhi metaṃ.  

(Lời đức vua nói với bậc sáng suốt Mahosadha tại triều)

5869. “Tối hôm qua khanh đã ra về, bây giờ khanh đi đến. Khanh đã nghe điều gì? Ý của khanh nghi ngờ điều gì? Này bậc có trí tuệ uyên bác, người nào đã nói điều gì với khanh? Nào, hãy cho chúng ta nghe lời nói ấy. Khanh hãy nói điều ấy với trẫm.”

64. Chiều tối hôm qua, con đã đi,
Bây giờ lại đến, hỡi vương nhi!
Điều gì lo sợ trong tâm trí,
Hoặc giả con nghe nói những gì?
Ai bảo con làm, này Trí giả,
Nào ta lắng đợi, nói ngay đi!

5870. Pañño vajjho mahosadhoti yadi te mantayitaṃ janinda dosaṃ, bhariyāya rahogato asaṃsi guyhaṃ pātukataṃ sutaṃ mametaṃ.  

(Lời bậc sáng suốt Mahosadha)

5870. “Tâu vị chúa của loài người, nếu điều đã được nói ra bởi bệ hạ tối hôm qua rằng: ‘Kẻ có trí Mahosadha đáng bị giết chết,’ rồi bệ hạ đã bày tỏ cho người vợ ở nơi kín đáo. (Như thế) việc cần phải giấu kín đã được phơi bày, (bởi vì) thần đã nghe được điều ấy.

65. Bậc hiền trí Đại O-sadha,
Phải bị giết ngay, nếu tối qua,
Ngài kể chuyện này cho chánh hậu,
Thì điều bí mật bị phơi ra!

5871. Yaṃ sālavanasmiṃ senako pāpakammaṃ akāsi asabbhirūpaṃ, sakhinova rahogato asaṃsi guyhaṃ pātukataṃ sutaṃ mametaṃ.  

5871. Việc Senaka đã làm hành động xấu xa, có hình thức không tốt lành, ở khu rừng cây sāla, rồi đã bày tỏ cho người bạn ở nơi kín đáo. (Như thế) việc cần phải giấu kín đã được phơi bày, (bởi vì) thần đã nghe được điều ấy.

66. Tội ác bạo tàn Se-na-ka,
Đã làm trong bụi rậm Sà-la,
Lão cho bạn biết nơi thầm kín,
Thần đã nghe: cơ mật lộ ra!

5872. Pukkusapurisassa te janinda uppanno rogo arājayutto, bhātucca rahogato asaṃsi guyhaṃ pātukataṃ sutaṃ mametaṃ.  

5872. Tâu vị chúa của loài người, Pukkusa, người của bệ hạ, đã bị phát khởi chứng bệnh (phong cùi), không thích hợp để đức vua chạm đến. Lão đã bày tỏ cho người em trai ở nơi kín đáo. (Như thế) việc cần phải giấu kín đã được phơi bày, (bởi vì) thần đã nghe được điều ấy.

67. Trong người này, lão Pu-ku-sa,
Có một bệnh không thích hợp cho,
Một đấng quân vương nào đụng chạm,
Lão đem bí mật nói riêng tư,
Cho em mình biết, điều thầm kín,
Thần đã nghe, được tiết lộ ra.

5873. Ābādhoyaṃ asabbhirūpo kāvindo naradevena phuṭṭho, puttassa rahogato asaṃsi guyhaṃ pātukataṃ sutaṃ mametaṃ.  

5873. Căn bệnh này có hình thức không tốt lành, Kāvinda bị ám ảnh bởi Dạ-xoa Naradeva. Lão đã bày tỏ cho người con trai ở nơi kín đáo. (Như thế) việc cần phải giấu kín đã được phơi bày, (bởi vì) thần đã nghe được điều ấy.68. Kẻ kia bệnh hoạn, tính tà gian,
Bị quỷ Na-ra ám ảnh tâm,
Lão nói cho con điều bí mật,
Thần nghe bí mật bị phơi trần!

5874. Aṭṭhavaṅkaṃ maṇiratanaṃ uḷāraṃ sakko te adadā pitāmahassa, devindassa gataṃ tadajja hatthaṃ mātucca rahogato asaṃsi guyhaṃ pātukataṃ sutaṃ mametaṃ.  

5874. Thiên chủ Sakka đã cho đến ông nội của bệ hạ viên bảo ngọc ma-ni tuyệt hảo, có tám mặt. Hôm nay, viên ngọc ấy đã rơi vào tay của Devinda. Lão đã bày tỏ cho người mẹ ở nơi kín đáo. (Như thế) việc cần phải giấu kín đã được phơi bày, (bởi vì) thần đã nghe được điều ấy.

69. Bát giác ngọc thần ấy thuở xưa,
Thượng hoàng được tặng bởi Sak-ka,
De-vin-da giữ trong tay lão,
Lão kể chuyện kia với mẹ già,
Trong chỗ kín, thần nghe thấy được,
Điều cơ mật ấy được phôi ra!

5875. Guyhassa hi guyhameva sādhu na hi guyhassa pasatthamāvikammaṃ, anipphādāya saheyya dhīro nipphannattho yathāsukhaṃ bhaṇeyya.

5875. Riêng đối với việc cần phải giấu kín, chỉ có việc giấu kín là tốt, bởi vì đối với việc cần phải giấu kín, sự bày tỏ là không được khen ngợi. Khi việc chưa được hoàn tất, vị sáng trí nên chịu đựng; khi việc đã được hoàn tất, thì có thể nói ra một cách thoải mái.

70. Giữ điều bí mật mới là hay,
Bí mật không nên được tỏ bày,
Người trí phải duy trì bí mật,
Khi người thành tựu mục tiêu này,
Thì người hãy nói như mình muốn.

5876. Na guyhamatthaṃ vivareyya rakkheyya naṃ yathā nidhiṃ, na hi pātukato sādhu guyho attho pajānatā.  

5876. Không nên bộc lộ việc cần phải giấu kín; nên bảo vệ nó như là của chôn giấu. Quả thật là không tốt đẹp nếu việc cần phải giấu kín bị phơi bày bởi người có sự nhận thức.

Vậy chớ phơi ra bí mật vầy,
Phải giữ nó như kho bảo vật,
Người khôn chẳng lộ việc riêng tây.

5877. Thiyā guyhaṃ na saṃseyya amittassa ca paṇḍito, yo cāmisena saṃhīro hadayattheno ca yo naro.  

5877. Vị sáng suốt không nên bày tỏ điều bí mật cho phụ nữ, cho kẻ đối nghịch, cho kẻ có thể bị mua chuộc bởi tài vật và hạng người giả vờ kết thân.

71. Người trí chẳng nên nói lộ ra,
Một điều bí mật với đàn bà,
Với cừu địch, người ham tư lợi,
Hoặc bởi tình thân ái thiết tha.

5878. Guyhamatthamasambuddhaṃ saṃbodhayati yo naro, mantabhedabhayā tassa dāsabhūto titikkhati.  

5878. Người nào cho biết việc cần phải giấu kín đến kẻ không khôn ngoan do nỗi sợ hãi về chú thuật hay về sự đổ vỡ quan hệ đối với kẻ ấy, thì phải chịu đựng thân phận làm nô lệ (cho kẻ ấy).

Người tiết lộ ra điều bí mật,
Vì lo sợ bạn chẳng tin ta,
Về sau phải chịu làm nô lệ,
Cho chính kẻ kia thật dại khờ!

5879. Yāvanto purisassatthaṃ guyhaṃ jānanti mantinaṃ, tāvanto tassa ubbegā tasmā guyhaṃ na vissaje.

5879. Càng có nhiều kẻ biết được việc cần phải giấu kín của một người (do) đã được thổ lộ, thì càng có nhiều kích động đối với người ấy; vì thế, không nên thố lộ điều bí mật.

72. Càng nhiều người biết chuyện riêng tư,
Càng có thêm nhiều mối sợ lo,
Vậy chẳng nên phơi bày bí mật,

5880. Vivicca bhāseyya divā rahassaṃ rattiṃ giraṃ nātivelaṃ pamuñce, upassutikā hi suṇanti mantaṃ tasmā manto khippamupeti bhedaṃ.

5880. Vào ban ngày, nên tách ly rồi mới nói điều bí mật, vào ban đêm không nên thốt ra lời tốn quá nhiều thời gian. Bởi vì những kẻ nghe lén lắng nghe điều thố lộ; vì thế, điều thố lộ mau chóng đi đến việc rò rỉ.”

Ban ngày hãy đến một nơi xa,
Nói điều bí mật, còn đêm tối,
Hãy nói giọng nho nhỏ ấy mà,
Vì lắm người nghe lời nói ấy,
Nên lời ấy thoáng chốc tuôn ra.

Vīsatinipāte pañcapaṇḍitapañhā.

Câu Hỏi Dành Cho Năm Bậc Nhân Sĩ

(thuộc Nhóm Hai Mươi Kệ Ngôn)

5881. Pañcālo sabbasenāya brahmadatto samāgato, sāyaṃ pañcāliyā senā appameyyā mahosadha.   

- Brahmadatta đã đến cùng với đám chư hầu, đạo binh Pañcàla này thật vô địch. Này Mahosadha,

5882. Piṭṭhimatī pattimati sabbasaṅgāmakovidā, ohārinī saddavatī bherisaṅkhappabodhanā.   

quân hầu đầu đội vai mang, bộ binh bao kẻ thiện chiến, sẵn sàng đi tàn sát, một cảnh đại náo loạn, tiếng trống chiêng vang dậy ngập trời,

5883. Lohavijjālaṅkārābhā dhajinī vāmarohiṇī, sippiyehi susampannā sūrehi suppatiṭṭhitā.   

đây là nơi trổ tài sử dụng binh khí, nào cờ xí, kỵ binh mặc áo giáp, chiến sĩ anh hùng thắng trận vẻ vang.

5884. Dasettha paṇḍitā āhu bhūripaññā rahogamā, mātā ekādasī rañño pañcāliyaṃ pasāsati.

Cả mười bậc Trí giả lại đây, uyên thâm trí tuệ, mưu lược thần kỳ và vị thứ mười một chính là thái hậu đang cổ võ đạo binh Pañcàla.

5885. Athetthekasataṃ khatyā anuyuttā yasassino, acchinnaraṭṭhā byathitā pañcālīnaṃ vasaṃgatā.

Đây là cả một trăm lẻ một vị vương hầu thiện chiến làm tùy tướng, quốc độ của họ đã bị chiếm đóng, họ đang kinh hoàng và chịu thần phục trước đạo binh của Pañcàla.

5886. Yaṃvadā takkarā rañño akāmā piyabhāṇino, pañcālamanuyāyanti akāmā vasino gatā.  

Họ thề nguyện phụng sự vò vua này, dù muốn dù không, họ cũng nói thẳng họ phải làm như vậy, nay họ bắt buộc phải theo phe vua Pañcàla, vì họ ở dưới quyền vua này.

5887. Tāya senāya mithilā tisandhiparivāritā, rājadhānī videhānaṃ samantā parikhaññati.

Kinh thành Mithilà đang bị bao vây bởi đạo binh dàn trận ở ba chặng đường, tấn công vào đủ mọi mặt,

5888. Uddhaṃ tārakajātāva samantā parivāritā, mahosadha vijānāhi kathaṃ mokkho bhavissati.

thành bị bao vây mọi phía như thể muôn sao trên trời. Này Mahosadha, làm cách nào giải vây được chăng?

5889. Pāde deva pasārehi bhuñja kāme ramassu ca, hitvā pañcāliyaṃ senaṃ brahmadatto palāyati.

70. Đại vương hãy duỗi thẳng đôi chân,
Mở hội vui chơi, tiệc uống ăn,
Chốc lát Brah-ma, vua địch ấy,
Sẽ đào tẩu, bỏ mặc binh hùng.

5890. Rājā santhavakāmo te ratanāni pavecchati, āgacchantu tato dūtā mañjukā piyabhāṇino. 

74. Một vì vua muốn kết thân bằng,
Tặng bảo vật này đến Đại vương,
Mong các sứ thần lời êm dịu,
Từ nơi chốn nọ chóng lên đường.

5891. Bhāsantu mudukā vācā yā vācā paṭinanditā, pañcālā ca videhā ca ubho ekā bhavantu te.

75. Ước mong lời lẽ họ ôn hòa,
Đem lại hân hoan cho chúng ta,
Mong ước thần dân Vi-đề quốc,
Hòa đồng với tộc Pañ-cà-la.

5892. Kathannu kevaṭṭa mahosadhena, samāgamo āsi tadiṅgha brūhi, kacci te paṭinijjhatto kacci tuṭṭho mahosadho.

76. Việc ngài hội kiến Ma-sa-dha,
Diễn tiến ra sao, Ke-vat-ta,
Xin hãy nói ngay cho trẫm biết,
Ma-sa-dha có muốn cầu hòa?

5893. Anariyarūpo puriso janinda, asammodako thaddho asabbhirūpo, yathā mūgo ca badhiro ca na kiñcatthaṃ abhāsatha.  

77. Kẻ kia bản chất thật gian tà,
Tâu Đại vương, ngoan cố, xấu xa,
Khó chịu, tính tình đầy độc ác,
Như người câm điếc, chẳng lời ra.

5894. Addhā idaṃ mantapadaṃ sududdasaṃ attho suddho naraviriyena diṭṭho, tathā hi kāyo mama sampavedhati hitvā sayaṃ ko parahatthamessati.  

78. Quyết định này sao khó hiểu vầy,
Một nguyên nhân thật rõ ràng thay,
Được người dũng cảm này tiên đoán,
Vì vậy thân ta rung động đây,
Ai sẽ là người mất tính mạng,
Và rơi vào địch thủ cao tay?

5895. Channaṃ hi ekāva matī sameti ye paṇḍitā uttamabhūripattā, yānaṃ ayānaṃ athavāpi ṭhānaṃ mahosadha tvampi matiṃ karohi.  

79. Sáu người một ý thật hòa đồng
Là các bậc hiền trí thượng nhân,
Đi, hoặc không đi và ở lại,
Ma-ho-sad hãy nói ta cùng.

5896. Jānāsi kho rāja mahānubhāvo mahabbalo cūḷanibrahmadatto, rājā ca taṃ icchati kāraṇatthaṃ migaṃ yathā okacarena luddo.

80. Ngài có biết chăng, tâu Đại vương,
Cù-la-ni thế lực hùng cường,
Vua kia muốn giết ngài như thể,
Lập hố bắt nai với lúa hương!

5897. Yathāpi maccho baḷisaṃ vaṅkaṃ maṃsena chāditaṃ, āmagiddho na jānāti maccho maraṇamattano.   

81. Như cá tham ăn, không nhận thấy,
Lưỡi câu giấu kín dưới mồi ngon,
Một người đời chẳng hề trông thấy,
Bóng dáng đâu đây của tử thần.

5898. Evameva tuvaṃ rāja cūḷanīyassa dhītaraṃ, kāmagiddho na jānāsi macchova maraṇamattano.   

82. Cũng vậy, đầy tham dục, Đại vương,
Không sao nhận thấy vị công nương,
Con Cù-la đế là thần chết,
Vì chính ngài là một thế nhân.

5899. Sace gacchasi pañcālaṃ khippamattaṃ jahissasi, migaṃ pathānupannaṃva mahantaṃ bhayamessati.

83. Đại vương cứ đến Pãn-cà-la,
Và tự diệt vong chốc lát mà,
Như chú nai kia lâm đại nạn,
Trên con đường nọ bị sa cơ.

5900. Mayameva bālamhase eḷamūgā ye uttamatthāni tayī lapimha, kimeva tvaṃ naṅgalakoṭivaddho atthāni jānāsi yathāpi aññe.

84. Trẫm thật điếc ngấm câm, ngu dại thay,
Hỏi ngươi những việc tối cao vầy!
Làm sao ngươi hiểu như người khác
Khi đã lớn lên bám lưỡi cày?

5901. Imaṃ gale gahetvāna nāsetha vijitā mama, yo me ratanalābhassa antarāyāya bhāsati.

85. Bắt lấy gã này, tóm cổ mau,
Tống ra khỏi xứ sở ta nào,
Con người dám nói hòng ngăn cản,
Việc trẫm sắp đi lấy bảo châu!

5902. Tato ca so apakkamma vedehassa upantikā, atha āmantayī dūtaṃ māḍharaṃ suvapaṇḍitaṃ.

86. Sau đó ngài đi khuất mắt vua,
Nói cùng chim két Mà-tha-ra:

5903. Ehi samma harīpakkha veyyāvaccaṃ karohi me, atthi pañcālarājassa sāḷikā sayanapālikā.

"Đến đây, anh vũ màu xanh lục,
Bạn hãy làm công việc giúp ta.

87. Pãn-cà Đại đế có May-nah,
Canh giữ vương sàng của đức vua,

5904. Taṃ pattharena pucchassu sā hi sabbassa kovidā, sā tesaṃ sabbaṃ jānāti rañño ca kosiyassa ca.

Hỏi nó ngọn nguồn, vì nó biết,
Điều cơ mật của Ko-si-ya".

5905. Āmoti so paṭissutvā māḍharo suvapaṇḍito, agamāsi harīpakkho sāḷikāya upantikaṃ.

88. Mà-tha-ra, trí điểu nghe rồi,
Két lục bay đi đến tận nơi,
Trú ngụ chim May-nah quý tộc,

5906. Tato ca kho so gantvāna māḍharo suvapaṇḍito, atha āmantayi sugharaṃ sāḷikaṃ mañjubhāṇikaṃ.

Ma-tha-ra trí điểu trao lời,
Với May-nah giọng du dương ấy,
Trong chiếc lồng son đẹp tuyệt vời:

5907. Kacci te sughare khamanīyaṃ kacci vesse anāmayaṃ, kacci te madhunā lājā labbhate sughare tava.

89.- Bạn ơi, bạn có được khang an,
Trong chiếc lồng vàng của bạn chăng,
Hạnh phúc có tràn đầy, Vệ-xá,
Họ cho bạn đủ mật, ngô rang?

5908. Kusalañceva me samma atho samma anāmayaṃ, atho me madhunā lājā labbhate suvapaṇḍita.

90. Em đầy an lạc, hỡi Tôn ông,
Quả thật nơi đây hạnh phúc tròn,
Họ tặng em ngô rang, mật ngọt;

5909. Kuto nu samma āgamma kassa vā pahito tuvaṃ, na ca mesi ito pubbe diṭṭho vā yadi vā suto.  

Hỡi Anh vũ có trí tinh thông,
Sao ngài đến, vậy ai sai đến,
Em chẳng hề nghe thấy quý ông?

5910. Ahosiṃ sivirājassa pāsāde sayanapālako, tato so dhammiko rājā baddhe mocesi bandhanā.  

91. Ta là thị giả Chúa Si-vi,
Ở chính trong cung điện xứ kia,
Từ đó vị minh quân giải thoát,
Các tù nhân được tự do đi.

5911. Tassa mekā dutiyāsi sāḷikā mañjubhāṇikā, taṃ tattha avadhī seno pekkhato sughare mama.  

92. Ta có vợ hiền một thuở xưa,
Du dương tiếng hót, một May-nah,
Rồi chim ưng nọ vồ nàng chết,
Mang xác nàng đi trước mắt ta.

5912. Tassā kāmā hi sammatto āgatosmi tavantike, sace kareyyāsi okāsaṃ ubhayova vasāmase.  

93. Yêu quý vợ hiền, ta đến đây,
Nếu nàng cho phép, tự hôm nay,
Chúng ta có thể cùng nhau hưởng,
Cuộc sống lứa đôi hạnh phúc thay.

5913. Suvova suviṃ kāmeyya sāḷiko pana sāḷikaṃ, suvassa sāḷikāya ca saṃvāso hoti kīdiso.  

94. Anh vũ phải yêu Anh vũ thôi,
May-nah kết hợp May-nah hoài,
Làm sao có thể đem hòa hợp,
Anh vũ, May-nah thật đẹp đôi?

5914. Yaṃ yaṃ kāmī kāmayati api caṇḍālikāmapi, sabbehi sadiso hoti natthi kāme asādiso.  

95. Khi kẻ si tình yêu quý ai,
Dù Chiên-đà hạ liệt mà thôi,
Họ đều đồng đẳng bên nhau cả,
Trong ái tình không có khác sai.

5915. Atthi jambāvatī nāma mātā sivissa rājino, sā bhariyā vāsudevassa kaṇhassa mahesī piyā.  

96. Mẫu thân của Chúa thượng Si-vi,
Tên gọi là Jam-bà-va-tì,
đã được lên ngôi chánh hậu,
Và Su Hắc đế vẫn yêu vì.

5916. Rathāvatī kimpurisī sāpi vacchaṃ akāmayi, manusso migiyā saddhiṃ natthi kāme asādiso.  

97. Ra-tha-va nọ, một tiên nga,
Cũng đã từng yêu quý Vac-cha,
Người ấy đã yêu loài thú vật,
Trong tình yêu chẳng khác nhau mà.

5917. Handa khohaṃ gamissāmi sāḷike mañjubhāṇike, paccakkhānupadaṃ hetaṃ atimaññasi nūna maṃ.  

98. Quả thật ta gần cất cánh xa,
Hỡi nàng thánh thót giọng May-nah,
Đây là lời chối từ ta đấy,
Chắc chắn nàng đang khinh bỉ ta.

5918. Na sirī taramānassa māḍhara suvapaṇḍita, idheva tāva acchassu yāva rājānaṃ dakkhasi, sossasi saddaṃ mutiṅgānaṃ ānubhāvañca rājino.  

99-100. Không phước lành cho kẻ vội vàng
Mà-tha-ra, két lục khôn ngoan,
Ở đây cho đến khi triều kiến,
Chúa thượng và nghe tiếng dậy vang,
Của các trống chiêng khua đủ loại,
Và nhìn Đại đế đẹp huy hoàng.

5919. Yo nu khoyaṃ tibbo saddo tirojanapade suto, dhītā pañcālarājassa osadhī viya vaṇṇinī, taṃ dassati videhānaṃ so vivāho bhavissati.  

100-101. Tiếng đồn này thật lớn truyền ra,
Khắp cả miền đất nước của ta:
Công chúa Pãn-cà-la Đại đế,
Như sao rực sáng, được vua cha,
Đem gả Vi-đề-ha quý tộc,
Lễ thành hôn sắp đến đây mà!

5920. Nediso te amittānaṃ vivāho hotu māḍhara, yathā pañcālarājassa vedehena bhavissati.

102. Đừng để cho ai, dẫu kẻ thù,
Tác thành hôn lễ, Ma-tha-ra,
Giống như cách của hai vua ấy,
Pãn-cà-la và Vi-đế-ha. (còn tiếp)

5921. Ānayitvāna vedehaṃ pañcālānaṃ rathesabho, tato naṃ ghātayissati nāssa sakkhi bhavissati.  

103. Vua hùng của xứ Pañ-cà-la,
Sẽ quyến rủ vua Vi-đế-ha,
Và sẽ giết vua kia lập tức,
Nàng đây chẳng phải bạn đâu mà.

5922. Handa kho maṃ anujānāhi rattiyo sattamattiyo, yāvāhaṃ sivirājassa ārocemi mahesino, laddho ca me āvasatho sāḷikāya upantikaṃ.  

104. Nay xin từ giã bảy đêm trường,
Ta sẽ tâu trình với Đại vương,
Của xứ Sivi, ta đã gặp,
May-nah và lập tổ uyên ương.

5923. Handa kho taṃ anujānāmi rattiyo sattamattiyo, sace tvaṃ sattarattena nāgacchasi mamantike, maññe okkantasattaṃ maṃ matāya āgamissasi.  

105. Em để chàng đi trong bảy đêm,
Sau nếu chàng không trở lại em,
Em sẽ tự mình tìm nắm mộ,
Chàng về em cũng sẽ quy tiên!

5924. Tato ca kho so gantvāna māḍharo suvapaṇḍito, mahosadhassa akkhāsi sāḷiyā vacanaṃ idaṃ. 

106. Rồi Mà-tha, két khôn ngoan,
Trình Ma-ho-sad Trí nhân sự tình.

5925. Yasseva ghare bhuñjeyya bhogaṃ, tasseva atthaṃ puriso careyya.

107. Con người luôn phải thực hành,
Vì quyền lợi của người mình thọ ân.

5926. Handāhaṃ gacchāmi pure janinda, pañcālarājassa puraṃ surammaṃ, nivesanāni māpetuṃ vedehassa yasassino.

108. Thần sẽ ra đi trước Đại vương,
Đến kinh thành tráng lệ huy hoàng,
Pãn-cà-la để xây cung điện,
Dâng chúa Vi-đề- ha vẻ vang.

5927. Nivesanāni māpetvā vedehassa yasassino. yadā te pahiṇeyyāmi tadā eyyāsi khattiya.

109. Khi nào thần đã dựng xây xong
Dâng chúa Vi-đề mỹ lệ cung,
Thần sẽ tâu trình ngài đến ngự,
Hỡi vị chúa tể đại anh hùng!

5928. Tato ca pāyāsi pure mahosadho, pañcālarājassa puraṃ surammaṃ, nivesanāni māpetuṃ vedehassa yasassino.

110. Bậc Đại trí liền cất buớc ra,
Đến thành hoa lệ Pañ-cà-la,
Để xây dựng thật nhiều cung điện,
Dâng chúa vinh quang Vi-đế-ha.

5929. Nivesanāni māpetvā vedehassa yasassino, athassa pahiṇī dūtaṃ (vedehaṃ mithilaggahaṃ) ehidāni mahārāja māpitaṃ te nivesanaṃ.

5930. Tato ca rājā pāyāsi senāya caturaṅgiyā, anantavāhanaṃ daṭṭhuṃ phītaṃ kampilliyaṃ puraṃ.

111. Vị Đại vương cùng bốn đạo binh,
Bấy giờ liền ngự giá du hành,
Cùng vô số cỗ xe hầu cận,
Đến viếng Kam-pil-la hiển vinh.

5931. Tato ca kho so gantvāna brahmadattassa pāhiṇi, āgatosmi mahārāja tava pādāni vandituṃ. 

112. Khi đến nơi, vua nhắn gửi lời,
Với Brah-ma: "Kính lễ chân ngài,

5932. Dadāhidāni me bhariyaṃ nāriṃ sabbaṅgasobhiniṃ, suvaṇṇena paṭicchannaṃ dāsīgaṇapurakkhataṃ.

Xin ban công chúa làm vương hậu,
Nữ báu dung nhan thật tuyệt vời,
Đầy vẻ yêu kiều và khả ái,
Được đoàn thị nữ hộ lên ngôi".

5933. Svāgataṃ te vedeha atho te adurāgataṃ, nakkhattaññeva paripuccha ahaṃ kaññaṃ dadāmi te, suvaṇṇena paṭicchannaṃ dāsīgaṇapurakkhataṃ.

113. Cung nghênh Đại chúa Vi-đề-ha,
Hạnh ngộ ngày nay quả thật là!
Hãy chọn giờ lành mang hạnh phúc,
Trẫm đem công chúa tặng vương gia,
Nàng đầy vẻ đẹp yêu kiều ấy,
Được đám cung tần hộ tống ra.

5934. Tato ca rājā vedeho nakkhattaṃ paripucchatha, nakkhattaṃ paripucchitvā brahmadattassa pāhiṇi.  

114. Vi-đề chúa chọn giờ lành xong,
Trình với Brah-ma-at Đại vương:

5935. Dadāhidāni me bhariyaṃ nāriṃ sabbaṅgasobhiniṃ, suvaṇṇena paṭicchannaṃ dāsīgaṇapurakkhataṃ.  

Xin gả công nưông làm ái hậu,
Nữ nhân diễm lệ tuyệt trần gian,
Tròn đầy mọi vẻ yêu kiều ấy,
Được các cung phi hộ tống nàng.

5936. Dadāmidāni te bhariyaṃ nāriṃ sabbaṅgasobhiniṃ, suvaṇṇena paṭicchannaṃ dāsīgaṇapurakkhataṃ.  

115. Đại đế Cù-la-ni đáp lại:
Ta ban ngài nữ báu siêu phàm,
Tròn đầy mọi vẻ yêu kiều ấy,
Được các cung phi hộ tống nàng.

5937. Hatthī assā rathā pattī senā tiṭṭhanti vammitā, ukkā padittā jhāyanti kinnu maññanti paṇḍitā.  

116. Voi, ngựa, cỗ xe, các đạo quân.
Mang bào giáp đứng cả đoàn đông
Rực trời ánh đuốc đang bừng cháy.
Ý nghĩ ý gì chăng, các Trí nhân?

5938. Hatthī assā rathā pattī senā tiṭṭhanti vammitā, ukkā padittā jhāyanti kinnu kāhanti paṇḍitā.  

117. Voi, ngựa, cỗ xe, các đạo quân,
Mang bào giáp đứng cả đoàn đông,
Rực trời ánh đuốc đang bừng cháy,
Ý nghĩa gì chăng, hỡi Trí nhân.

5939. Rakkhati taṃ mahārāja cūḷanīyo mahabbalo, paduṭṭho te brahmadatto pāto taṃ ghātayissati.  

118. Hoàng đế Cù-la-ni đại cường,
Đang vây ngài chặt, tấu minh quân,
Brah-ma-dat chính người gian trá,
Vua ấy sẽ tàn sát đại vương!

5940. Ubbedhate me hadayaṃ mukhañca parisussati, nibbutiṃ nādhigacchāmi aggidaḍḍhova ātape.

119. Tim ta hồi hộp miệng khô rang,
Lòng dạ ta nay thật bất an,
Ta giống một người được đốt lửa,
Rồi đem phơi dưới nắng chang chang.

5941. Kammārānaṃ yathā ukkā anto jhāyati no bahi, evampi hadayaṃ mayhaṃ anto jhāyati no bahi.

120. Như cháy bên trong, lửa thợ rèn,
Bên ngoài chẳng có thể nào xem,
Lòng ta cũng vậy, đang bừng cháy,
Nhưng chẳng một ai có thể nhìn.

5942. Pamatto mantanātīto bhinnamantosi khattiya, idāni kho taṃ tāyantu paṇḍitā mantino janā.

- Hỡi chiến vương, ngài thật bất cẩn, không quan tâm đến lời khuyến cáo và thiếu tài trí, giờ đây xin để các quân sư của ngài giải cứu ngài.

5943. Akatvāmaccassa vacanaṃ atthakāmahitesino, attapītirato rāja migo kūṭeva ohito.

Một vị vua không làm theo lời khuyên của quân sư trung tín và tài trí, chỉ tham đắm dục lạc riêng của mình, thì có khác gì con nai bị bắt trong lưới?

5944. Yathāpi maccho baḷisaṃ vaṅkaṃ maṃsena chāditaṃ, āmagiddho na jānāti maccho maraṇamattano.

Như con cá ham mồi không để ý tới lưỡi câu giấu trong miếng thịt bao quanh, không nhận biết chỗ chết của mình.

5945. Evameva tuvaṃ rāja cūḷaneyyassa dhītaraṃ, kāmagiddho na jānāsi macchova maraṇamattano.

Tâu Đại vương, ngài cũng vậy, tham đắm sắc dục, như con cá kia, không nhận thấy công chúa con vua Cùlani chính là tử thần của mình.

5946. Sace gacchasi pañcālaṃ khippamattaṃ jahessasi, migaṃ pathānupantaṃva mahantaṃ bhayamessati.

Thần đã nói rằng nếu Đại vương đi Pañcàla, ngài sẽ mất ngay phúc lạc như con nai bị bắt trên đường sẽ gặp đại nạn. 

5947. Anariyarūpo puriso janinda ahīva ucchaṅgagato ḍaseyya. na tena mettiṃ kayirātha dhīro dukkho have kāpurisena saṅgamo.  

Tâu Chúa thượng. một ác nhân sẽ cắn vào bụng ngài như con rắn độc. Không một hiền nhân nào nên kết bạn với kẻ ác, kết bạn với kẻ ác sẽ gặp bất hạnh.

5948. Yantveva jaññā purisaṃ janinda sīlavāyaṃ bahussuto, teneva mettiṃ kayirātha dhīro sukho have sappurisena saṅgamo.  

Tâu Chúa thượng, bất cứ người nào mà ta nhận ra là có đức hạnh và thông thái thì đó chính là người mà bậc trí kết bạn. Kết bạn với thiện nhân chính là hạnh phúc.

5949. Bālo tuvaṃ eḷamūgosi rāja yo uttamatthāni mayī lapittho, kimevāhaṃ naṅgalakoṭivaddho atthāni jānissaṃ yathāpi aññe.  

121. Ngài điếc câm, ngu muội, Đại vương,
Khinh lời khuyên tối thượng từ thần,
Hỏi: "Sao thần hiểu như người khác,
Khi lớn lên cày cấy ruộng đồng?

5950. Imaṃ gale gahetvāna nāsetha vijitā mama, yo me ratanalābhassa antarāyāya bhāsati.   

122. "Bắt lấy gã kia, tóm cổ mau,
Tống ra khỏi xứ sở ta nào,
Con người dám nói hòng ngăn cản,
Việc trẫm sắp đi lấy bảo châu!"

5951. Mahosadha atītena nānuvijjhanti paṇḍitā, kiṃ maṃ assaṃ va sambaddhaṃ patodeneva vijjhasi.  

123. Bậc Trí không nhai chuyện đã qua,
Giữa hàm răng, hỡi Ma-sa-dha,
Cớ sao khanh cứ rầy rà trẫm,
Như ngựa bị dây trói chặt à?

5952. Sace passasi mokkhaṃ me khemaṃ vā pana passasi, teneva maṃ anusāsa kiṃ atītena vijjhasi.

124. Nếu thấy được đường lối giải vây,
Cách an toàn thoát nạn giờ này,
Hãy mau làm trẫm yên lòng nhé,
Sao trút chuyện xưa xuống trẫm đây?

5953. Atītaṃ mānusaṃ kammaṃ dukkaraṃ durabhisambhavaṃ, na taṃ sakkomi mocetuṃ tvampi jānassu khattiya.

125. Hành động giờ đây quá muộn màng,
Vô cùng nguy hiểm, lại gian nan,
Thần không giải cứu quân vương được,
Ngài phải tự lo liệu số phần.

5954. Santi vehāsayā nāgā iddhimanto yasassino, tepi ādāya gaccheyyuṃ yassa honti tathāvidhā. 

126. Có giống voi bay giữa cõi không,
Lực thần đầy đủ, thật vinh quang,
Người nào có được loài voi ấy,
Có thể bay cùng chúng thoát thân.

5955. Santi vehāsayā assā iddhimanto yasassino, tepi ādāya gaccheyyuṃ yassa honti tathāvidhā. 

127. Có giống ngựa bay giữa cõi không,
Lực thần đầy đủ,thật vinh quang,
Người nào có được loài phi mã,
Có thể bay cùng chúng thoát nàn.

5956. Santi vehāsayā pakkhī iddhimanto yasassino, tepi ādāya gaccheyyuṃ yassa honti tathāvidhā.

128. Có các loài chim hoặc quỷ thần,
Đủ tài bay bổng giữa không gian,

5957. Santi vehāsayā yakkhā iddhimanto yasassino, tepi ādāya gaccheyyuṃ yassa honti tathāvidhā.

5958. Atītaṃ mānusaṃ kammaṃ dukkaraṃ durabhisambhavaṃ, na taṃ sakkomi mocetuṃ antalikkhena khattiya.  

Còn nay quá muộn nên người tục,
Không thể làm vì quá khó khăn,
Thần chẳng thế nào cứu Chúa thượng,
Ngài cần quyết định việc riêng phần.

5959. Atīradassī puriso mahante udakaṇṇave, yattha so labhate gādhaṃ tattha so vindate sukhaṃ. 

129. Một người không thể thấy bờ xa,
Ở giữa đại dương rộng lớn mà,
Khi nó tìm ra nơi trú ngụ,
Đủ đầy hạnh phúc với hoan ca.

5960. Evaṃ amhañca rañño ca tvaṃ patiṭṭhā mahosadha, tvaṃ nosi mantinaṃ seṭṭho amhe dukkhā pamocaya. 

130. Cũng vậy với quân sĩ, Đại vương,
Ngài là đất trú ngụ an toàn,
Ngài là tối thượng quân sư báu,
Xin giải cứu toàn thể thoát nàn.

5961. Atītaṃ mānusaṃ kammaṃ dukkaraṃ durabhisambhavaṃ, na taṃ sakkomi mocetuṃ tvampi jānassu senaka.

131. Hành động giờ đây quá muộn màng,
Vô cùng nguy hiểm, lại gian nan,
Ta không giải cứu cho ngài được,
Ngài phải tự lo liệu số phần.

5962. Suṇohi metaṃ vacanaṃ passasetaṃ mahabbhayaṃ, senakaṃdāni pucchāmi kiṃ kiccaṃ idha maññasi.

132. Hãy lắng nghe lời trẫm nói vầy:
Khanh nhìn thấy mối hiểm nguy này,
Se-na-ka, trẫm hỏi khanh nhé,
Khanh nghĩ làm gì được ở đây?

5963. Aggiṃ dvārato dema gaṇhāmase vikattanaṃ, aññamaññaṃ vadhitvāna khippaṃ hessāma jīvitaṃ, mā no rājā brahmadatto ciraṃ dukkhena mārayi.

133. Ta hãy đốt lên ngọn lửa cao,
Ở bên cửa lớn lấy gươm dao,
Chúng ta cùng đả thưông nhau chết,
Chốc lát ta không sống nữa nào.
Đừng để Brah-ma-dat Đại đế,
Giết ta bằng cái chết dài lâu!

5964. Suṇohi etaṃ vacanaṃ passasetaṃ mahabbhayaṃ, pukkusaṃdāni pucchāmi kiṃ kiccaṃ idha maññasi.

134. Hãy lắng nghe lời trẫm nói vầy:
Khanh nhìn thấy mối hiểm nguy này,
Puk-ku-sa, trẫm hỏi khanh nhé,
Khanh nghĩ làm gì được ở đây?

5965. Visaṃ khāditvā miyyāma khippaṃ hessāma jīvitaṃ, mā no rājā brahmadatto ciraṃ dukkhena mārayi.  

135. Chúng ta uống thuốc độc từ trần,
Chốc lát ta không phải sống còn,
Đừng để Brah-ma-dat Đại đế,
Giết ta bằng cái chết dần mòn!

5966. Suṇohi etaṃ vacanaṃ passasetaṃ mahabbhayaṃ, kāvindaṃdāni pucchāmi kiṃ kiccaṃ idha maññasi.  

136. Hãy lắng nghe lời trẫm nói vầy:
Khanh nhìn thấy mối hiểm nguy này,
Kà-vin-da, trẫm hỏi khanh nhé,
Khanh nghĩ làm gì được ở đây?

5967. Rajjuyā bajjha miyyāma papātā papatemase, mā no rājā brahmadatto ciraṃ dukkhena mārayi.  

137. Chúng ta thắt cổ họng lìa đời,
Chốc lát ta không sống nữa rồi,
Đừng để Brah-ma-dat Đại đế,
Giết ta bằng các chết lần hồi!

5968. Suṇohi etaṃ vacanaṃ passasetaṃ mahabbhayaṃ, devindaṃdāni pucchāmi kiṃ kiccaṃ idha maññasi.  

138. Hãy lắng nghe lời trẫm nói vầy:
Khanh nhìn thấy mối hiểm nguy này,
De-vin-da, trẫm hỏi khanh nhé,
Khanh nghĩ làm gì được ở đây?

5969. Aggiṃ dvārato dema gaṇhāmase vikattanaṃ, aññamaññaṃ vadhitvāna khippaṃ hessāma jīvitaṃ, na no sakkoti mocetuṃ sukheneva mahosadho.  

139. Ta hãy đốt lên ngọn lửa cao,
Ở bên cửa lớn lấy gươm dao,
Chúng ta cùng đả thương nhau chết,
Chốc lát ta không sống nữa nào.
Thần không thể cứu nguy chư vị,
Chỉ Đại Trí nhân có phép mầu!

140-141. Tâu Đại vương, thần muốn nói đây:
Chúng ta cùng hỏi Trí nhân này,
Nếu như việc hỏi han đầy đủ,
Bậc Trí nhân không thể giải vây,
Thì chúng ta cùng theo cách nọ,
Se-na-ka đã khuyến ta vầy.

5970. Yathā kadalino sāraṃ anvesaṃ nādhigacchati, evaṃ anvesamānā naṃ pañhaṃ nājjhagamāmase.

142. Giống kẻ đi tìm chất nhựa thông,
Ở trong cây chuối hoặc cây bông,

5971. Yathā simbalino sāraṃ anvesaṃ nādhigacchati, evaṃ anvesamānā naṃ pañhaṃ nājjhagamāmase.  

Nên không thấy nhựa, như ta vậy,
Không thể tìm lời giải khó khăn.

5972. Adese vata no vutthaṃ kuñjarānaṃva nodake, sakāse dummanussānaṃ bālānaṃ avijānataṃ.  

143. Chỗ trú ta đây thật hãi hùng,
Như bầy voi ở chốn khô cằn,
Với người vô dụng và ngu xuẩn,
Chẳng biết làm gì để thoát thân.

5973. Ubbedhate me hadayaṃ mukhañca parisussati, nibbutiṃ nādhigacchāmi aggidaḍḍhova ātape.  

144. Tim ta hồi hộp, miệng khô ran,
Lòng dạ ta nay thật bất an,
Ta giống một người được đốt lửa,
Rồi đem phơi dưới nắng chang chang.

5974. Kammārānaṃ yathā ukkā anto jhāyati no bahi, evampi hadayaṃ mayhaṃ anto jhāyati no bahi.  

145. Như cháy bên trong, lửa thợ rèn,
Bên ngoài chẳng có thể nào xem,
Lòng ta cũng vậy, đang bừng cháy,
Nhưng chẳng một ai có thể nhìn!

5975. Tato so paṇḍito dhīro atthadassī mahosadho, vedehaṃ dukkhitaṃ disvā idaṃ vacanamabravi.

146. Thế rồi Trí giả Ma-sa-ha,
Nhận thức điều hiền thiện tối đa,
Khi ngài thấy mặt vua sầu thảm,
Ngài nói như vầy với đức vua:

5976. Mā tvaṃ bhāyi mahārāja mā tvaṃ bhāyi rathesabha, ahaṃ taṃ mocayissāmi rāhugahitaṃva candimaṃ.

147. - Xin đừng sợ hãi, tấu Anh quân,
Chúa tể đoàn xa mã đại hùng,
Thần sẽ giải vây phò Chúa thượng,
Như trăng bị nuốt bởi La Thần,

5977. Mā tvaṃ bhāyi mahārāja mā tvaṃ bhāyi rathesabha, ahaṃ taṃ mocayissāmi rāhugahitaṃva sūriyaṃ.

148. - Như vầng dương bị La Thần nuốt,

5978. Mā tvaṃ bhāyi mahārāja mā tvaṃ bhāyi rathesabha, ahaṃ taṃ mocayissāmi paṅke sattaṃva kuñjaraṃ.

Như thể voi chìm xuống dưới bùn,

5979. Mā tvaṃ bhāyi mahārāja mā tvaṃ bhāyi rathesabha, ahaṃ taṃ mocayissāmi peḷābaddhaṃva pannagaṃ.

Như rắn bị giam trong giỏ kín,

5980. Mā tvaṃ bhāyi mahārāja mā tvaṃ bhāyi rathesabha, ahaṃ taṃ mocayissāmi pakkhiṃ baddhaṃva pañjare.

5981. Mā tvaṃ bhāyi mahārāja mā tvaṃ bhāyi rathesabha, ahaṃ taṃ mocayissāmi macche jālagateriva.

Như con cá lọt lưới quay cuồng.

5982. Mā tvaṃ bhāyi mahārāja mā tvaṃ bhāyi rathesabha, ahaṃ taṃ mocayissāmi sayoggabalavāhanaṃ.

149. - Thần sẽ giải vây cứu Đại vương,
Cùng đoàn xa mã, với đoàn quân,

5983. Mā tvaṃ bhāyi mahārāja mā tvaṃ bhāyi rathesabha, pañcālaṃ vāhayissāmi kākasenaṃva leḍḍunā.

Sẽ làm kinh hãi Pãn-cà-đế,
Như quạ bị quăng đá hoảng hồn!

5984. Ādu paññā kimatthiyā amacco vāpi tādiso, yo taṃ sambādhapakkhannaṃ dukkhā na parimocaye.

150. - Có ích lợi gì là trí tuệ,
Hoặc quân sư thuộc hạng tầm thường,
Không tài giải cứu phò Minh chúa,
Ra khỏi gian nguy, bước cuối đường?

5985. Etha māṇavā uṭṭhetha mukhaṃ sodhetha sandhino, vedeho sahamaccehi ummaggena gamissati.  

- Này các người hãy đến mở cửa miệng hầm ra, vua Vedeha cùng quần thần sẽ đi qua địa đạo này.

5986. Tassa taṃ vacanaṃ sutvā paṇḍitassānusārino, ummaggadvāraṃ vivariṃsu yantayutte ca aggaḷe.  

Nghe lệnh bậc Trí giả, quân hầu của ngài mở cửa hầm và các then tự động.

5987. Purato senako yāti pacchato ca mahosadho, majjhe ca rājā vedeho amaccaparivārito.  Senaka đi trước, Mahosadha đi sau, vua ở giữa cùng đám quân thần.

5988. Ummaggā nikkhamitvāna vedeho nāvamāruhi, abhirūḷhañca taṃ ñatvā anusāsi mahosadho.

Vua Vedeha bước ra khỏi đường hầm ngự lên thuyền và khi ông đã an vị, Mahosadha khuyên nhủ ông:

5989. Ayaṃ te sāsuro deva ayaṃ sassu janādhipa, yathā mātu paṭipatti evaṃ te hotu sassuyā.

- Đây là quốc trượng, đây là quốc mẫu, tâu Chúa thượng, ngài thường phụng dưỡng mẫu hậu ra sao thì xin phụng dưỡng quốc mẫu như vậy.

5990. Yathāpi niyako bhātā saudariyo ekamātuko, evaṃ pañcālacaṇḍo te dayitabbo rathesabha.

Đây là hoàng tử cùng cha cùng mẹ với vương hậu, xin Đại vương hãy bảo hộ Pañcàlacandì, tâu Chúa tể đoàn chiến xa.

5991. Ayaṃ pañcālacaṇḍī te rājaputtī abhijjhitā, kāmaṃ karohi te tāya bhariyā te rathesabha. 

Còn Pañcàlacandì là công chúa rất được nuông chìu, xin Đại vương hãy yêu quý nàng, nàng là vương hậu của Đại vương.

5992. Āruyha nāvaṃ taramāno kinnu tīramhi tiṭṭhasi, kicchā muttamha dukkhāto yāmadāni mahosadha.

151. Nào, hãy nhanh chân bước xuống đò,
Sao vương nhi mãi đứng trên bờ,
Ta vừa thoát được nơi nguy hiểm.
Ta hãy đi mau, Ma-sa-dha.

5993. Nesa dhammo mahārāja yohaṃ senāya nāyako, senaṅgaṃ parihāpetvā attānaṃ parimocaye.

152. Việc này không đúng, tâu Quân vương,
Thần thủ lãnh toàn thể đạo quân,
Nếu bỏ đoàn quân và tẩu thoát.

5994. Nivesanamhi te deva senaṅgaṃ parihāpitaṃ, taṃ dinnaṃ brahmadattena ānayissaṃ rathesabha.

Vậy toàn quân lính ở trong làng,
Rồi đây thần sẽ đem về cả,
Theo lệnh Brah-ma-dat Thượng hoàng.

5995. Appaseno mahāsenaṃ kathaṃ viggayha ṭhassasi, dubbalo balavantena vihaññissasi paṇḍita. 

153. Một đoàn quân quá nhỏ nhoi,
Làm sao thắng nổi đoàn người đông hơn?
Đoàn quân yếu bị diệt vong,
Bởi đoàn quân mạnh, Trí nhân hỡi ngài!

5996. Appasenopi ce mantī mahāsenaṃ amantinaṃ, jināti rājā rājāno ādiccovudayaṃ tamaṃ.

154. Một đoàn quân quá ít oi,
Có minh sư sẽ thắng người đông hơn,
Nhưng không có vị dẫn đường,
Một vua thắng lắm quốc vương lẽ thường,
Khác gì với ánh chiêu dương,
Đánh tan bóng tối, vinh quang mọi nhà.

5997. Susukhaṃ vata saṃvāso paṇḍitehīti senaka, pakkhīva pañjare baddhe macche jālagateriva, amittahatthatthagate mocayī no mahosadho.

155. Quốc sư hỡi, Se-na-ka,
Sống cùng người trí thật là lạc hoan !
Như Chim thoát khỏi lồng giam,
Như con cá thoát lưới càng vui thay,
Ma-sa-dha cứu ta đây
Khi ta còn ở trong tay quân thù.

5998. Evametaṃ mahārāja paṇḍitā hi sukhāvahā, pakkhīva pañjare baddhe macche jālagateriva, amittahatthatthagate mocayī no mahosadho.  

156. Muôn tâu Chúa thượng, chúng ta,
Sống cùng người trí thật lạc hoan!
Như chim thoát khỏi lồng giam,
Như con cá thoát lưới càng vui thay.
Ma-sa-dha cứu ta đây,
Khi ta còn ở trong tay quân thù.

5999. Rakkhitvā kasiṇaṃ rattiṃ cūḷanīyo mahabbalo, udentaṃ aruṇuggamhi upakāriṃ upāgami.  

157. Hoàng đế Cù-la-ni đại cường,
Đã canh giữ kỹ suốt đêm trường,
Rạng đông vừa đến thành U-pak,

6000. Āruyha pavaraṃ nāgaṃ balavantaṃ saṭṭhihāyanaṃ, rājā avoca pañcālo cūḷanīyo mahabbalo.  

Đang ngự trên lưng của tượng vương.

158. Mãnh tượng sáu mươi tuổi đã già,
Đại vương hùng dũng Pañ-cà-la,

6001. Sannaddho maṇivammena saramādāya pāṇinā, pessiye ajjhabhāsittha puthugumbe samāgate.

Quân trang vũ khí toàn châu báu,
Cung nắm trong tay cất tiếng ra:

6002. Hatthārūhe anīkaṭṭhe rathike pattikārake, upāsanamhi katahatthe vāḷavedhe samāgate.

159. - Truyền lệnh đại quân tề tựu ngay,
Lên voi vệ sĩ chiến xa này,Các người thiện xạ và cung thủ,
Tất cả cùng nhau tụ họp đây.

6003. Pesetha kuñjare dantī balavante saṭṭhihāyane, maddantu kuñjarā nagaraṃ vedehena sumāpitaṃ.

160. Đưa hết các voi chiến có ngà,
Sáu mươi tuổi thọ, dẫm tan ra,
Kinh thành mới dựng cao sang ấy,
Do chính Đại vương Vi-đế-ha.

6004. Vacchadantamukhā setā tikhiṇaggā aṭṭhivedhino, panunnā dhanuvegena sampatantutarītaraṃ.

161. Hãy bắn tên ra mọi phía này,
Từ bao cung nọ, đám tên bay,
Như răng bò nghé, đầu tên nhọn,
Đâm thủng tận xương bọn chúng ngay.

6005. Māṇavā vammino sūrā citradaṇḍayutāvudhā, pakkhandino mahānāgā hatthīnaṃ hontu sammukhā.

162. Anh hùng tiến tới, giáp bào mang,
Vũ khí cầm tay khéo điểm trang,
Dũng mãnh can trường và tự nguyện,
Sẵn sàng đối diện với voi đàn.

6006. Sattiyo teladhotāyo accimantī pabhassarā, vijjotamānā tiṭṭhantu sataraṃsā viya tārakā.

163. Các gươm giáo được tẩm dầu trong,
Đầu nhọn lung linh tựa lửa hồng,
Lấp lánh như chùm sao hội tụ,
Cả trăm tinh tú giữa hư không.

6007. Āvudhabalavantānaṃ guṇikāyūradhārinaṃ, etādisānaṃ yodhānaṃ saṅgāme apalāyinaṃ, vedeho kuto muccissati sace pakkhīva kāhati.

164. Khi các anh hùng ấy tấn công,
Mang bào giáp, vũ khí hiên ngang,
Không hề tháo chạy bao giờ cả,
Như vậy làm sao Vi-đế vương,
Có thể tìm đường nào tẩu thoát,
Cho dù bay lượn tựa chim muông?

6008. Tiṃsa me purisanāvutyo sabbe vekekanicchitā, yesaṃ samaṃ na passāmi kevalaṃ mahimaṃ caraṃ.

165. Ba vạn chín ngàn chiến sĩ ta,
Ta chưa từng thấy thế bao giờ,
Toàn quân được chọn rất tinh nhuệ,
Tất cả hùng quân của nước nhà.

6009. Nāgā ca kappitā dantī balavanto saṭṭhihāyanā, yesaṃ khandhesu sobhanti kumārā cārudassanā.

166-167. Hãy nhìn voi mạnh đủ đôi ngà,
Tô điểm cân đai đẹp mắt ta,
Tuổi thọ sáu mươi, lưng ngất ngưỡng,
Các vương tử rực rỡ, xa hoa,
Trang hoàng lộng lẫy bao xiêm áo,
Như các Thiên thần Nan-da-na.

6010. Pītālaṅkārā pītavasanā pītuttaranivāsanā, nāgakkhandhesu sobhanti devaputtāva nandane.

6011. Pāṭhīnavaṇṇā nettiṃsā teladhotā pabhassarā, niṭṭhitā naravīrehi samadhārā sunissitā.  

168. Gươm màu cá bạc tẩm dầu trơn,
Lấp lánh anh hùng, nắm vững vàng,
Bén nhọn, sáng ngời, hoàn hảo quá,
Được làm bằng thép luyện nhiều lần.

6012. Vellālino vītamalā sikkāyasamayā daḷhā, gahitā balavantehi suppahārappahāribhi.  

169-170. Gươm mạnh, do bao dũng sĩ cầm,
Những người chiến đấu mãi không ngừng,

6013. Suvaṇṇatharusampannā lohitakacchupadhāritā, vivattamānā sobhanti vijjuvabbhaghanantare.  

Kim hoàn vàng ánh, đai màu đỏ,
Gươm sáng lung linh lúc vẫy vùng,
Như chớp lòe trong mây xám ngắt.

6014. Patākā vammino sūrā asicammassa kovidā, tharuggahā sikkhitāro nāgakkhandhātipātino.

Anh hùng mang giáp vẫy cờ tung,
Có tài dùng kiếm và khiên mộc,
Nắm chặt chuôi gươm, thiện chiến quân.

6015. Edisehi parikkhitto natthi mokkho ito tava, pabhāvaṃ te na passāmi yena tvaṃ mithilaṃ vaje.

171. Bị vây bởi chiến sĩ anh hùng,
Như vậy trên lưng voi tấn công,
Ngươi chẳng có nơi nào tẩu thoát,
Ta không thấy một lực oai thần,
Giúp ngươi trở lại kinh thành cũ,
Ở tại Mi-thi-là, biết chăng?

6016. Kinnu santaramānova nāgaṃ pesesi kuñjaraṃ, pahaṭṭharūpo āpatasi laddhatthosmīti maññasi.

172-173. Sao ngài thúc giục mãi con voi,
Ngài đến với khuôn mặt thật tươi,
Ngài nghĩ là ngài tròn ước muốn,

6017. Oharetaṃ dhanu cāpaṃ khurappaṃ paṭisaṃhara, oharetaṃ subhaṃ cammaṃ veḷuriyamaṇisanthataṃ.

Ném cung ấy xuống, ném tên thôi.
Cởi ngay bào giáp kia ngời sáng,
Cùng với san hô, các ngọc trai.

6018. Pasannamukhavaṇṇosi mihitapubbañca bhāsasi, hoti kho maraṇakāle tādisī vaṇṇasampadā.  

174. Trông ngươi có dáng điệu vui tươi,
Ngươi nói lời ra với nụ cười,
Giờ chết của ngươi nay sắp đến,
Cho nên vẻ đẹp hiện ra ngoài!

6019. Moghaṃ te gajjitaṃ rāja bhinnamantosi khattiya, duggaṇho hi tayā rājā khaḷuṅkeneva sindhavo.  

175. Sấm sét của ngài thật uổng công,
Âm mưu đã hỏng, hỡi Quân vương!
Vua ta khó bắt cho ngài quá,
Như tuấn mã so với ngựa thường!

6020. Tiṇṇo hiyyo rājā gaṅgaṃ sāmacco saparijjano, haṃsarājaṃ yathā dhaṅko anujjavaṃ papatissasi.  

176. Vua ta đã vượt quá sông Hằng,
Vào tối qua cùng các cận thần,
Ngài sẽ giống như con quạ nọ,
Cố công săn bắt thiên nga vương!

6021. Sigālā rattibhāgena phullaṃ disvāna kiṃsukaṃ, maṃsapesīti maññantā paribbūḷhā migādhamā.

177. Chó rừng đang ở giữa đêm trường,
Nhìn thấy hoa cây phượng đỏ hồng,
Cứ tưởng hoa kia là miếng thịt,
Súc sinh hạ liệt họp từng đàn.

6022. Vītivattāsu rattīsu uggatasmiṃ divākare, kiṃsukaṃ phullitaṃ disvā āsacchinnā migādhamā.  

178. Khi các canh khuya ấy đã qua,
Mặt trời đã xuất hiện dần ra,.
Chó nhìn cây phượng đầy hoa nở,
Thất vọng, súc sinh thật xấu xa!

6023. Evameva tuvaṃ rāja vedehaṃ parivāriya, āsacchinno gamissasi sigālā kiṃsukaṃ yathā.

179. Hỡi Đại vương, cũng giống các vua,
Đã bao vây chúa Vi-đề-ha,
Sẽ tan hy vọng và đi mất,
Như lũ chó rừng tránh phượng hoa!

6024. Imassa hatthapāde ca kaṇṇanāsañca chindatha, yo me amittaṃ hatthagataṃ vedehaṃ parimocayi.

180. Cắt hết tay chân, tai mũi ra,
Vì tên kia thả Vi-đề-ha,
Kẻ thù đã thoát tay ta đó,

6025. Ima maṃsaṃva pātabbaṃ sūle katvā pacantu taṃ, yo me amittaṃ hatthagataṃ vedehaṃ parimocayi. 

Xẻo thịt, đem chiên nấu chín mà,
Vì tên kia thả Vi-đề chúa,
Kẻ thù đã thoát khỏi tay ta!

6026. Yathāpi āsabhaṃ cammaṃ pathavyā vitaniyyati, sīhassa atho vyagghassa hoti saṅkusamāhataṃ.

181. Như tấm da trâu trải đất bằng,
Hoặc da sư, hổ được đem căng,
Bằng cây cọc, vậy ta mong muốn,

6027. Evaṃ taṃ vitanitvāna vedhayissāmi sattiyā, yo me amittaṃ hatthagataṃ vedehaṃ parimocayi.

Căng nọc nó và lấy giáo đâm,
Vì nó thả Vi-đề chúa tể,
Kẻ thù ta thoát khỏi giam cầm!

6028. Sace me hatthe ca pāde ca kaṇṇanāsañca checchasi, evaṃ pañcālacaṇḍassa vedeho chedayissati.

182. Nếu chặt tay chân, tai mũi ta,
Vi-đề chúa sẽ chặt Can-da,

6029. Sace me hatthe ca pāde ca kaṇṇanāsañca checchasi, evaṃ pañcālacaṇḍiyā vedeho chedayissati.

Can-dì,

6030. Sace me hatthe ca pāde ca kaṇṇanāsañca checchasi, evaṃ nandāya deviyā vedeho chedayissati.

hoàng hậu Nan-dà nữa,

6031. Sace me hatthe ca pāde ca kaṇṇanāsañca checchasi, evaṃ te puttadārassa vedeho chedayissati.

Công chúa cùng hoàng tử cả nhà!

6032. Sace maṃsaṃva pātabbaṃ sūle katvā pacissasi, evaṃ pañcālacaṇḍassa vedeho pācayissati.  

183. Nếu xẻo ta rồi xiên thịt ta,
Vi-đề chúa sẽ xẻo Canda

6033. Sace maṃsaṃva pātabbaṃ sūle katvā pacissasi, evaṃ pañcālacaṇḍiyā vedeho pācayissati.  

Can-dì,

6034. Sace maṃsaṃva pātabbaṃ sūle katvā pacissasi, evaṃ nandāya deviyā vedeho pācayissati.

hoàng hậu Nandà nữa,

6035. Sace maṃsaṃva pātabbaṃ sūle katvā pacissasi, evaṃ te puttadārassa vedeho pācayissati.  

Công chúa và hoàng tử cả nhà!

6036. Sace maṃ vitanitvāna vedhayissasi sattiyā, evaṃ pañcālacaṇḍassa vedeho vedhayissati.  

184. Nếu đóng cọc ta, đâm giáo ta,
Vi-đề sẽ đóng cọc Can-da,

6037. Sace maṃ vitanitvāna vedhayissasi sattiyā, evaṃ pañcālacaṇḍiyā vedeho vedhayissati.

Can-dì,

6038. Sace maṃ vitanitvāna vedhayissasi sattiyā, evaṃ nandāya deviyā vedeho vedhayissati.

hoàng hậu Nan-dà nữa,

6039. Sace maṃ vitanitvāna vedhayissasi sattiyā, evaṃ te puttadārassa vedeho vedhayissati, evaṃ no mantitaṃ raho vedehena mayā saha.

Công chúa và hoàng tử cả nhà!

185. Vậy việc kia đã được mật bàn,
Giữa ta và chính Vi-đề vương,

6040. Yathā palasataṃ cammaṃ kontimantīsuniṭṭhitaṃ, upeti tanutāṇāya sarānaṃ paṭihantave.

Giống như tấm chắn bằng da thuộc,
Dầy một trăm tầng được khéo làm,
Bởi các thợ da, là vật dụng,
Đề phòng tên nọ bắn xuyên ngang.

6041. Sukhāvaho dukkhanudo vedehassa yasassino, matiṃ te paṭihaññāmi usuṃ palasateniva.

186. Ta mang hạnh phúc, tránh đau buồn,
Cho chúa Vi-đề-ha vẻ vang,
Ta thoát âm mưu ngài dự tính,
Như khiên tránh khỏi mũi tên đâm.

6042. Iṅgha passa mahārāja suññaṃ antepuraṃ tava, orodhā ca kumārā ca tava mātā ca khattiya, ummaggā nīharitvāna vedehassupanāmitā.

187. Đại vương xin hãy bước vào trong,
Các nội cung đều đã trống không:
Hoàng hậu, hoàng nhi, hoàng thái hậu,
Thảy đều được dẫn xuống đường hầm.
Chiến vương hỡi! họ được giao phó,
Vi-đề vương giám sát hộ phòng.

6043. Iṅgha antepuraṃ mayhaṃ gantvāna vicinātha naṃ, yathā imassa vacanaṃ saccaṃ vā yadi vā musā.

188. Mau bước vào trong các nội cung,
Xem lời tên nọ đúng hay không?

6044. Evametaṃ mahārāja yathā āha mahosadho, suññaṃ antepuraṃ sabbaṃ kākapaṭṭanakaṃ yathā.

189. Ma-ho-sad nói đúng, Minh quân,
Nội điện hoàng cung đã trống không,
Như một làng bên bờ bến nước,
Được bầy quạ trú ẩn nương thân.

6045. Ito gatā mahārāja nārī sabbaṅgasobhanā, kosumbhaphalakasussoṇī haṃsagaggarabhāṇinī.  

190. Giai nhân có sắc đẹp toàn thân,
Đã bước lối này, hỡi Đại vương,
Giọng nói bà: thiên nga trổi nhạc,
Môi bà như các phiến vàng ròng,

6046. Ito nītā mahārāja nārī sabbaṅgasobhanā, koseyyavasanā sāmā jātarūpasumekhalā.  

191. Giai nhân có sắc đẹp toàn thân,
Được dẫn lối này, hỡi Đại vương,
Đã khoác xiêm y màu lụa sẩm,
Đai lưng sáng rực kết vàng ròng.

6047. Surattapādā kalyāṇī suvaṇṇamaṇimekhalā, pārevatakkhī sutanu bimboṭṭhā tanumajjhimā.

192. Đôi chân hồng đỏ trông kiều diễm,
Đai kết vàng ròng với bảo trân,
Đôi mắt bồ câu, hình yểu điệu,
Đôi môi như trái bim-ba rừng.

6048. Sujātā bhujagalaṭṭhīva vellīva tanumajjhimā, dīghassā kesā asitā īsakaggapavellitā.  

193. Lưng eo thon dịu, dáng cao sang,
Như một cây leo, giống cát đằng,
Hoặc chỗ tế đàn cao, giữa hẹp,
Tóc dài đen nhánh, dưới cong cong,

6049. Sujātā migachāpīva hemantaggisikhāriva, nadīva giriduggesu sañchannā khuddaveḷuhi.  

Như nai tơ, thuộc dòng cao quý,
Như ngọn lửa hồng giữa tiết đông!
194. Như dòng sông ẩn dưới sườn non,
Trong đám cây leo bé cỏn con,

6050. Nāganāsūru kalyāṇī paṭhamā timbarutthanī, nātidīghā nātirassā nālomā nātilomasā.  

Tuyệt sắc giai nhân hoàn hảo quá,
Ngực đầy như trái tin-dook tròn,
Cũng không ngắn quá, không dài quá,
Cũng chẳng nhiều lông, chẳng trụi lông!

6051. Nandāya nūna maraṇena nandasi sirivāhana, ahañca nūna nandā ca gacchāma yamasādhanaṃ.  

195. Vậy ngài, Đại đế vinh quang,
Thấy Nan-dà chết, hân hoan trong lòng,
Thì Nan-dà sẽ cùng thần,
Đến trình diện trước Diêm vương bây giờ!

6052. Dibbaṃ adhīyase māyaṃ akāsi cakkhumohanaṃ, yo me amittaṃ hatthagataṃ vedehaṃ parimocayi.  

196. Nhà ngươi có pháp thuật ư?
Hay là ngươi đã làm mờ mắt ta?
Nên ngươi cứu chúa Đề-ha,
Kẻ thù ta thoát tay ta giam cầm?

6053. Adhīyanti mahārāja dibbamāyidha paṇḍitā, te mocayanti attānaṃ paṇḍitā mantino janā.  

197. Tâu Đại vương, các trí nhân,
Vẫn thường học phép thần thông ở đời;
Trí nhân đầy đủ kế tài,
Bản thân giải thoát ra ngoài gian lao.

6054. Santi māṇavaputtā me kusalā sandhichedakā, yesaṃ katena maggena vedeho mithilaṃ gato.  

198. Tiểu thần có các quân hầu,
Khéo tài phá vỡ các hào lũy ra,
Họ làm cách ấy giúp vua,
Vi-đề đã đến Mi-la kinh thành.

6055. Iṅgha passa mahārāja ummaggaṃ sādhu māpitaṃ, hatthīnaṃ atha assānaṃ rathānaṃ atha pattinaṃ, ālokabhūtaṃ tiṭṭhantaṃ ummaggaṃ sādhu niṭṭhitaṃ.  

199. Đường hầm xây thật tài tình,
Ngự du, xin hãy thân hành, Đại vương!
Hầm to đủ chứa voi đàn,
Đoàn xe, bầy ngựa, hàng hàng lục quân,
Bên trong đèn thắp sáng trưng,
Một đường hầm quả kỳ công thực là!

6056. Lābhā vata videhānaṃ yassa me edisā paṇḍitā, ghare vasanti vijite yathā tvaṃsi mahosadha.  

200. Lợi thay chúa tể Đề-ha,
Có nhiều người trí trong nhà như khanh,
Hoặc trong đất nước của mình,
Ma-ho-sad hỡi, thông minh tuyệt trần!

6057. Vuttiñca parihārañca diguṇaṃ bhattavetanaṃ, dadāmi vipulaṃ bhogaṃ bhuñja kāme ramassu ca. mā videhaṃ paccagamā kiṃ videho karissati.  

201. Trẫm ban thế lực, vinh quang,
Gấp đôi thực phẩm, tiền lương công thần,
Và thêm nhiều thứ đặc ân,
Mong khanh hưởng thụ toàn phần tự do,
Đừng về với Chúa Đề-ha,
Vua kia làm được gì cho khanh à?

6058. Yo cajetha mahārāja bhattāraṃ dhanakāraṇā, ubhinnaṃ hoti gārayho attano ca parassa ca, yāva jīveyya vedeho nāññassa puriso siyā.

202-203. Đại vương, rời bỏ chủ ta,
Chỉ vì lợi lộc thật là nhục thay,
Cho người kia lẫn ta đây;
Trong đời Vi-đế vương này trị dân,
Thần không hầu hạ tha nhân,

6059. Yo cajetha mahārāja bhattāraṃ dhanakāraṇā, ubhinnaṃ hoti gārayho attano ca parassa ca, yāva tiṭṭheyya vedeho nāññassa vijite vase.  

Thần không thể sống giang sơn người ngoài.

6060. Dammi nikkhasahassaṃ te gāmāsītiñca kāsisu, dāsīsatāni cattāri dammi bhariyāsatañca te, sabbaṃ senaṅgamādāya sotthiṃ gaccha mahosadha.  

204. Ban khanh ngàn nén vàng thoi,
Ở Kà-si đủ tám mươi ngôi làng,
Bốn trăm tỳ nữ gia nhân,
Một trăm thê thiếp, trẫm ban trọn phần.
Rồi đem tất cả đoàn quân,
Ma-ho-sad, hãy lên đường bình an.

6061. Yāvaṃ dadantu hatthīnaṃ assānaṃ dviguṇaṃ vidhaṃ, tappentu annapānena rathike pattikārake.

205. Hãy cho bầy ngựa, voi đàn,
Gấp đôi số thực phẩm ban ngày,
Toàn quân mở tiệc liên hoan,
Quản xa, lính bộ uống ăn thỏa lòng!

6062. Hatthī asse rathe pattī gacchevādāya paṇḍita, passatu taṃ mahārājā vedeho mithilaṃ gataṃ.

206. Lên đường, hỡi bậc Trí nhân,
Đoàn xe, voi ngựa, lục quân ra về,
Để cho chúa tể Vi-đề
Thấy khanh trở lại Mi-thi-la thành.

6063. Hatthī assā rathā pattī senā padissate mahā, caturaṅginī bhiṃsarūpā kinnu maññanti paṇḍitā.

207. Ngựa voi, xe pháo, bộ binh,
Đạo quân rầm rộ hiện hình trước ta,
Bốn đoàn khủng khiếp lộ ra,
Việc này có ý nghĩa là sao đây?

6064. Ānando te mahārāja uttamo patidissati, sabbaṃ senaṅgamādāya sotthiṃ patto mahosadho.

208. Hân hoan lớn nhất đời này,
Đại vương còn thấy vui vầy nào hơn?
Ma-ho-sad được bình an,
Trở về cùng cả đoàn quân của ngài.

6065. Yathā petaṃ susānasmiṃ chaḍḍetvā caturo janā, evaṃ kampilliye tyamhā chaḍḍayitvā idhāgatā.

209-210. Giống như có bốn người trai,
Để thi thể nọ ra ngoài nghĩa trang,
Chúng ta để bậc Trí nhân.
Tại Kam-pil quốc, nhanh chân trở về.

6066. Atha tvaṃ kena vaṇṇena kena vā pana hetunā, kena vā atthajātena attānaṃ parimocayi.

Nhưng khanh có đặc tính gì,
Lập mưu, phương tiện, cứu nguy an toàn?

6067. Atthaṃ atthena vedeha mantaṃ mantena khattiya, parivārayissaṃ rājānaṃ jambudīpaṃva sāgaro.

211. Vi-đề-ha, tấu Đại vương,
Thần nhờ một đích phá tan địch thù,
Dùng quân cơ thắng quân cơ,
Và thần vây hãm vị vua đại cường,
Như là biển lớn, Chiến vương,
Bao vây khắp cả giang sơn Diêm-Phù.

6068. Dinnaṃ nikkhasahassaṃ me gāmāsīti ca kāsisu, dāsīsatāni cattāri dinnaṃ bhariyāsatañca me, sabbaṃ senaṅgamādāya sotthinamhi idhāgato.  

212. Được ban ngàn nén vàng thoi,
Ở Kà-sì đủ tám mươi ngôi làng
Bốn trăm tỳ nữ gia nhân,
Một trăm thê thiếp được ban cho thần.
Rồi cùng tất cả đoàn quân,
Tiểu thần trở lại quê hương an toàn.

6069. Susukhaṃ vata saṃvāso paṇḍitehīti senaka, pakkhīva pañjare baddhe macche jālagateriva, amittahatthatthagate mocayī no mahosadho.

213. Thật là hạnh phúc muôn vàn,
Khi ta được sống cùng hàng trí nhân.
Như chim thoát khỏi lồng giam,
Như con cá thoát lưới càng vui thay,
Ma-ho-sad cứu ta đây,
Khi ta còn ở trong tay quân thù.

6070. Evametaṃ mahārāja paṇḍitā hi sukhāvahā, pakkhīva pañjare baddhe macche jālagateriva, amittahatthatthagate mocayī no mahosadho.  

214. Muôn tâu chúa thượng, chúng ta,
Sống cùng bậc Trí thật là lạc quan,
Như chim thoát khỏi lồng giam,
Như con cá thoát lưới càng vui thay,
Ma-ho-sad cứu ta đây,
Khi ta còn ở trong tay quân thù.

6071. Āhaññantu sabbavīṇā bheriyo deṇḍimāni ca, nadantu māgadhā saṅkhā vaggu vadatu dundubhi.  

Dân chúng hãy trổi vang mọi loại đàn sáo trống chiêng, tù và trong xứ Ma-kiệt-đà hãy khua vội lên, thanh la rung thật nhộn nhịp.

6072. Orodhā ca kumārā ca vesiyānā ca brāhmaṇā, bahuṃ annañca pānañca paṇḍitassābhihārayuṃ.  

215. Đàn bà, con gái mọi nhà,,
Thương gia cùng vợ, các Bà-la-môn
Đem đầy đủ thức uống ăn,
Đến dâng bậc Trí nhân làm quà.

6073. Hatthārūhā anīkaṭṭhā rathikā pattikārakā, bahuṃ annañca pānañca paṇḍitassābhihārayuṃ.

216. Luyện voi, vệ sĩ, quản xa,
Bộ binh, tất cả đem quà đến, dâng.

6074. Samāgatā jānapadā negamā ca samāgatā, bahuṃ annañca pānañca paṇḍitassābhihārayuṃ.

Toàn dân làng xã hợp quần

6075. Bahujjano pasannosi disvā paṇḍitamāgate, paṇḍitamhi anuppatte celukkhepo avattathā ”ti.

Người người vui thấy Trí nhân khải hoàn.
Trong khi tiếp đón chào mừng,
Trên không phất phới khăn quàng vẫy tung.

Mahāummaggakaṇḍaṃ.

(Dứt) Phẩm Đường Hầm Vĩ Đại.

6076. Sace vo vuyhamānānaṃ sattannaṃ udakaṇṇave, manussabalimesāno nāvaṃ gaṇheyya rakkhaso, anupubbaṃ kathaṃ datvā muñcesi dakarakkhino.

217. Bảy người thân của hoàng cung,
Ngự du trên chốn ngàn trùng đại dương,
Quỷ thần đòi hỏi tế đàn,
Khi vừa chụp lấy thuyền vàng của vua,
Những ai ngài sẽ đưa ra,
Dần theo thứ tự để mà cứu nguy?

6077. Mātaraṃ paṭhamaṃ dajjaṃ bhariyaṃ datvāna bhātaraṃ, tato sahāyaṃ datvāna pañcamaṃ dajjaṃ brāhmaṇaṃ, chaṭṭhāhaṃ dajjamattānaṃ neva dajjaṃ mahosadhaṃ.

218. Trước tiên mẫu hậu tức thì,
Kế là hoàng hậu chánh phi Nandà,
Tiếp theo tiểu đệ hoàng gia,
Thứ tư thân hữu, năm bà-la-môn,
Chính ta thứ sáu bản thân,
Nhưng ta không hiến Trí nhân của mình!

6078. Posetā te janettī ca dīgharattānukampikā, chambhī tayi paduṭṭhasmiṃ paṇḍitā atthadassinī, aññaṃ upanisaṃ katvā vadhā taṃ parimocayi.

219. Lệnh bà dưỡng dục sinh thành,
Bao năm tận tụy nhiệt tình với con,
Khi Cham-bhì hại hoàng nam,
Khôn ngoan bà thấy việc làm lợi vua,
Đem người thế chỗ vương gia,
Nên ngài đã được chính bà cứu nguy.

6079. Taṃ tādisaṃ pāṇadadiṃ orasaṃ gabbhadhāriṇiṃ, mātaraṃ kena dosena dajjāsi dakarakkhino.

220. Mẹ cho đời sống từ bi,
Chính bà mang nặng hoàng nhi trong lòng.
đâu là các lỗi lầm,
Ngày đem hiền mẫu hiến dâng thủy thần?

6080. Daharā viya alaṅkāraṃ dhāreti apiḷandhanaṃ, dovārike anīkaṭṭhe ativelaṃ pajagghati.

221-222. Giống như thiếu nữ còn xuân
đeo các món bội hoàn nữ trang
Mà bà già chẳng nên mang.
Phi thời bà chế nhạo quân canh phòng.

6081. Tatopi paṭirājānaṃ sayaṃ dūtāni sāsati, mātaraṃ tena dosena dajjāhaṃ dakarakkhino.  

Lại thường gửi điệp địch vương,
Mà không được lệnh của hoàng gia đây.
Chính vì các lỗi lầm này,
Nên ta đem hiến bà ngay thủy thần!

6082. Itthigumbassa pavarā accantapiyavādinī, anuggatā sīlavatī chāyāva anapāyinī.

223-224. Lệnh bà đệ nhất hồng quần,
Cực kỳ diễm lệ, nói năng ân cần,
Tràn đầy đức hạnh, nhiệt tâm,
Kề bên hoàng hậu uyên ương bóng hình,

6083. Akkodhanā paññavatī paṇḍitā atthadassinī, ubbariṃ kena dosena dajjāsi dakarakkhino.

Chẳng hề giận dỗi bất bình,
Khôn ngoan, thận trọng, chân thành lợi vua.
Vậy vì lầm lỗi đâu mà
Ngài đem hoàng hậu hiến dâng thủy thần?

6084. Khiḍḍāratisamāpannaṃ anatthavasamāgataṃ, sā maṃ sakānaṃ puttānaṃ ayācaṃ yācate dhanaṃ.

225-226. Nhờ bao vẻ đẹp mê hồn,
Bà hoàng đã khiến vương quân phục tòng,
Chịu nhiều ảnh hưởng bất nhân,
Và đòi những thứ bà không nên đòi
Dành cho con của bà thôi.
Vì ta say đắm ban hoài đặc ân.

6085. Sohaṃ dadāmi sāratto bahuṃ uccāvacaṃ dhanaṃ, suduccajaṃ cajitvāna pacchā socāmi dummano, ubbariṃ tena dosena dajjāmi dakarakkhino.

Ta ban những vật khó ban,
Về sau hối hận muôn vàn đắng cay,
Chính vì các lỗi lầm này.
Ta đem hoàng hậu tế ngay thủy thần!

6086. Yenocitā jānapadā ānītā ca paṭiggahaṃ, ābhataṃ pararajjehi abhiṭṭhāya bahuṃ dhanaṃ.

227. Chàng đem phồn thịnh cho dân,
Khi ngài đang ở tha phương xứ người,
Chàng đưa Hoàng thượng tái hồi,
Chàng không hề bị cuốn lôi bạc vàng.

6087. Dhanuggahānaṃ pavaraṃ sūraṃ tikhiṇamantinaṃ, bhātaraṃ tena dosena dajjāsi dakarakkhino.

228. Anh hùng thiện xạ vô song,
Ti-khi-na thật tinh thông muôn phần,
Vậy đâu là các lỗi lầm,
Ngài đem hoàng đệ tế dâng thủy thần?

6088. Mayocitā jānapadā ānītā ca paṭiggahaṃ, ābhataṃ pararajjehi abhiṭṭhāya bahuṃ dhanaṃ.

229. "Ta đem phồn thịnh cho dân,
Khi ngài đang ở tha phương xứ người,
Ta đưa Hoàng thượng tái hồi,
Ta không hề bị cuốn lôi bạc vàng.

6089. Dhanuggahānaṃ pavaro sūro tikhiṇamanti ca, mayāyaṃ sukhito rājā atimaññati dārako.

Ta là thiện xạ vô song,
Anh hùng vô địch tinh thông trí tài.
Ta tôn Hoàng thượng lên ngôi".
Chàng suy nghĩ vậy, thế rồi về sau.

6090. Upaṭṭhānampi me ayye na so eti yathā pure, bhātaraṃ tena dosena dajjāhaṃ dakarakkhino.

230. Chàng không đi đến cung chầu,
Như thường thuở trước chàng hầu bên ta.
Chính vì lầm lỗi kia mà,
Ta đem hoàng đệ tế dâng thủy tề.

6091. Ekarattena ubhayo tuvaṃ ca dhanusekhavā, ubho jātettha pañcālā sahāyā susamāvayā.  

231. Ngài và Dha-nu-sek-ha,
Cùng mang tên tộc Pañ-cà-la-mà.
Một đêm hai vị sinh ra,
Vừa là thân hữu vừa là đồng môn,

6092. Cariyā taṃ anubandhittho ekadukkhasukho tava, ussukko te divārattiṃ sabbakiccesu vyāvaṭo, sahāyaṃ tena dosena dajjāsi dakarakkhino.  

Suốt đời hầu cận minh quân,
Đồng cam cộng khổ vui buồn bên nhau.
232. Nhiệt tình thận trọng bấy lâu,
Hết lòng phục vụ kể đâu đêm ngày.
Vậy thì lầm lỗi nào đây,
Ngài đem thân hữu tế ngay thủy thần?

6093. Cariyāya ayaṃ ayye pajagghittho mayā saha, ajjāpi tena vaṇṇena ativelaṃ pajagghati.

233. Suốt đời, thưa nữ đạo nhân,
Chàng thường vui thú chung cùng bên ta.
Chính vì duyên cớ ấy mà,
Nay chàng hành động quá là tự do.

6094. Ubbariyāpi me ayye mantayāmi rahogato, anāmantā pavisati pubbe appaṭivedito.

234. Nếu ta nói chuyện riêng tư,
Cùng hoàng hậu, cứ xông vô phi thời,
Mà không có lệnh ta đòi,
Cũng không thông báo cho người nào hay.

6095. Laddhavāro katokāso ahirikaṃ anādaraṃ, sahāyaṃ tena dosena dajjāhaṃ dakarakkhino.

235. Nếu cho chàng một dịp may,
Làm điều bất kính, nhục đầy xấu xa,
Chính vì lầm lỗi ấy mà
Ta đem thân hữu hiến cho thủy thần.

6096. Kusalo sabbanimittānaṃ rudaññū āgatāgamo, uppāde supine yutto niyyāne ca pavesane.

236. Tế sư quả thật tinh khôn,
Biết nhiều điềm triệu, thanh âm ở đời,
Chuyên môn đoán rộng, vãng lai,

6097. Paddho bhummantalikkhasmiṃ nakkhattapadakovido, brāhmaṇaṃ kena dosena dajjāsi dakarakkhino.

Am tường dấu hiệu đất trời, trăng sao,
Vậy thì do lỗi lầm nào,
Đại vương đem đạo sĩ trao thủy thần?

6098. Parisāyampi me ayye mīlayitvā udikkhati,  tasmā ajja bhamuṃ luddaṃ dajjāhaṃ dakarakkhino.

237. Dù ngay ở giữa quần thần,
Lão thường mở mắt trừng trừng nhìn ta,
Nên ta muốn hiến lão già,
Nhăn mày quỷ quái ấy cho thủy thần!

6099. Sasamuddapariyāyaṃ mahiṃ sāgarakuṇḍalaṃ, vasundharaṃ āvasasi amaccaparivārito.

238. Đại vương ở giữa triều thần,
Trong châu lục lớn, ngàn trùng biển xanh,
Thay vì thành lũy bao quanh,

6100. Cāturanto mahāraṭṭho vijitāvī mahabbalo, pathavyā ekarājāsi yaso te vipulaṃgato.

Ngự trên đế quốc hùng anh đại cường,
Độc tôn hoàng đế trần gian,
Thật là vĩ đại vinh quang vô vàn.

6101. Soḷasitthisahassāni āmuttamaṇikuṇḍalā, nānājanapadā nariyo devakaññūpamā subhā.

239. Nữ nhi một vạn sáu ngàn,
Điểm tô châu ngọc, nữ trang sáng ngời,
Giai nhân từ khắp mọi nơi,
Khác nào tiên nữ cao vời thiên cung.

6102. Evaṃ sabbaṅgasampannaṃ sabbakāmasamiddhinaṃ, sukhitānaṃ piyaṃ dīghaṃ jīvitaṃ āhu khattiya.  

240. Được dâng mọi thứ cần dùng,
Mọi điều ước nguyện cầu mong vẹn toàn,
Đại vương đã sống trường tồn,
Trong niềm hạnh phúc hân hoan tột cùng.

6103. Atha tvaṃ kena vaṇṇena kena vā pana hetunā, paṇḍitaṃ anurakkhanto pāṇaṃ cajasi duccajaṃ.

Đâu là duyên cớ nguyên nhân,
Hy sinh ngọc thể hộ phòng Trí nhân?

6104. Yatopi āgato ayye mama hatthaṃ mahosadho, nābhijānāmi dhīrassa aṇumattampi dukkataṃ.

241. Thưa bà, Trí giả Đại thần,
Từ khi đến ở kế gần bên ta,
Ta không hề thấy bao giờ,
Con người khí phách tạo ra lỗi lầm,
Dù là một mảy cỏn con.

6105. Sace ca kismici kāle maraṇaṃ me pure siyā, putte ca me paputte ca sukhāpeyya mahosadho.

242. Nếu ta chết trước Trí nhân lúc nào,
Người đem hạnh phúc biết bao,
Cho đàn con cháu mai sau lâu dài.

6106. Anāgataṃ paccuppannaṃ sabbamatthaṃ vipassati, anāparādhakammantaṃ na dajjaṃ dakarakkhino.

243. Người thông minh mọi việc trên đời,
Dù là quá khứ, tương lai xa gần.
Người này không có lỗi lầm,
Ta không muốn tế thủy thần quỷ ma.

6107. Idaṃ suṇotha pañcālā cūḷanīyassa bhāsitaṃ, paṇḍitaṃ anurakkhanto pāṇaṃ cajati duccajaṃ.

244. Thần dân của xứ Pañ-cà,
Nghe lời này của vua Cù-la-ni,
Bảo toàn bậc Trí giả kia,
Đức vua nào có kể chi mình vàng.

6108. Mātu bhariyāya bhātucca sakhino brāhmaṇassa ca, attano cāpi pañcālo channaṃ cajati jīvitaṃ.

245. Cuộc đời của chính mẫu hoàng,
Em trai, hoàng hậu, thân bằng, bản thân,
Vua Pãn-cà thảy sẵn lòng,
Hy sinh tất cả hiến dâng thủy thần.

6109. Evaṃ mahatthikā paññā nipuṇā sādhucintanī, diṭṭhadhamme hitatthāya samparāye sukhāya ca.

246. Diệu kỳ thay trí lực hùng,
Thông minh tài giỏi vô song như vầy,
Chỉ vì ích lợi đời này,
Cùng là hạnh phúc lâu dài đời sau.

Dakarakkhasapañho.

(Dứt) Câu Hỏi của Thủy Thần.

6110. Bheri uppalavaṇṇāsi pitā suddhodano ahu, mātā āsi mahāmāyā amarā bimbasundarī.

- Uppalavannì (Liên Hoa Sắc) là nữ ẩn sĩ Bheri, Suddhodana (Vua Tịnh phạn) là cha của bậc Trí giả, Mahàmàyà (hoàng hậu Ma-gia) là mẹ ngài, giai nhân Bimbà (tức Yasodhàrà) là Amarà,

6111. Suvo ahosi ānando sāriputtosi cūḷanī, mahosadho lokanātho evaṃ dhāretha jātakaṃ.

Ànanda là con két, Sàriputta là vua Cùlani, Mahosadha là đức Thế tôn.

Tiền thân này được hiểu như vậy.

Mahā ummaggajātakaṃ navamaṃ.

Bổn Sanh Đường Hầm Vĩ Đại là thứ chín. [546]



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada