6112. Phusati varavaṇṇābhe varassu dasadhā vare, pathavyā cārupubbaṅgī yaṃ tuyhaṃ manaso piyaṃ. 

(Lời trao đổi giữa Thiên Chủ Sakka và Chánh Hậu Phusatī)

6112. “Hỡi nàng Phusatī, hỡi nàng có ánh sáng ở làn da cao quý, nàng hãy lựa chọn mười điều ân huệ, điều nào mà tâm ý của nàng yêu quý ở trái đất, hỡi nàng có đôi chân đẹp.”

1. Phu-sa-tì, mỹ hậu huy hoàng,
Mười ước nguyện nay trẫm tặng nàng,
Hãy chọn điều gì nàng nhận thấy
Ðược nàng quý báu giữa trần gian.

6113. Devarāja namo tyatthu kiṃ pāpaṃ pakataṃ mayā, rammā cāvesi maṃ ṭhānā vātova dharaṇīruhaṃ. 

6113. “Tâu Thiên Vương, xin kính lễ ngài! Thiếp đã gây nên tội lỗi gì, mà ngài lưu đày thiếp khỏi nơi chốn đáng yêu, tựa như làn gió thổi rạp cây cối?”

2. Vạn tuế Sak-ka, đấng Ngọc hoàng,
Tội gì thần thiếp lỡ tay làm
Khiến ngài đày thiếp xa thiên giới
Như gió thổi cây nọ nát tan?

6114. Na ceva te kataṃ pāpaṃ na ca me tvamasi appiyā, puññañca te parikkhīṇaṃ yena tevaṃ vadāmahaṃ. 

6114. “Chẳng những nàng đã không gây nên tội lỗi, và chẳng phải nàng không còn được trẫm yêu thương, trẫm nói với nàng như vậy bởi vì phước báu của nàng đã bị cạn kiệt.

3. Nàng luôn được sủng ái từ xưa,
Tội lỗi nàng đâu có tạo ra?
Trẫm bảo phước trời nàng đã tận,
Bây giờ đến lúc phải chia xa.

6115. Santike maraṇaṃ tuyhaṃ vinābhāvo bhavissati, patiggaṇhāhi me ete vare dasa pavecchato. 

6115. Cái chết của nàng ở gần kề; sự chia lìa sẽ xảy đến. Nàng hãy chọn lấy mười điều ân huệ này của trẫm đang ban cho nàng.”

4. Tống biệt nàng nay đã đến thì,
Tử thần đang đến phút phân kỳ,
Trẫm ban ái hậu Mười điều ước,
Lâm mạng chung thời, hãy chọn đi.

6116. Varaṃ ce me ado sakka sabbabhūtānamissara, sivirājassa bhaddante tattha assaṃ nivesane.

6116. “Tâu Thiên Chủ Sakka, tâu vị chúa tể của tất cả chúng sanh, nếu ngài đã ban cho thiếp điều ân huệ, tâu bậc tôn đức, mong rằng thiếp sẽ hiện hữu tại nơi ấy, ở chỗ trú ngụ của đức vua Sivi.

5. Thiên chủ Sak-ka, đấng Thượng hoàng,
Ban Mười điều ước, thiếp tri ân:
Mong rằng thần thiếp đời sau sẽ
Ở xứ Si-vi được trú thân.

6117. Nīlanettā nīlabhamū nīlakkhī ca yathāmigī, phusatī nāma nāmena tatthapassaṃ pundadari. 

6117. Tâu bậc đã bố thí trước đây, mong rằng thiếp sẽ có cặp mắt xanh đen, có lông mày xanh đen, và có tròng mắt xanh đen giống như con nai cái nhỏ, và sẽ hiện hữu tại nơi ấy với tên là Phusatī.

6. Ðôi mắt huyền mơ tựa mắt nai,
Như nhung đen nháy, cặp mày ngài,
Phu-sa-tì ấy là tên thiếp,
Thánh thượng, thiếp mong ước nguyện này.

6118. Puttaṃ labhetha varadaṃ yācayogaṃ amacchariṃ, pūjitaṃ patirājehi kittimantaṃ yasassinaṃ. 

6118. Mong rằng thiếp có được đứa con trai, (và con trai của thiếp sẽ) là người bố thí vật cao quý, sẵn sàng đáp ứng lời cầu xin, không có bỏn xẻn, được tôn vinh bởi các vị vua đối nghịch, có tiếng tăm, có danh vọng.

7. Thiếp mong có được một hoàng nam,
Vua chúa kiêng oai, tiếng lẫy lừng,
Hòa nhã, nhân từ, tâm rộng lượng,
Lắng tai nghe mọi tiếng cầu ân.

6119. Gabbhaṃ me dhārayantiyā majjhimaṅgaṃ anunnataṃ, kucchi anunnato assa cāpaṃva likhitaṃ samaṃ.

6119. Trong khi thiếp đang mang thai, mong rằng phần thân giữa không bị lồi lên, cái bụng không bị nhô lên, tựa như cây cung được bào đẽo bằng phẳng.8. Trong khoảng thời gian thiếp thọ thai,
Ước mong giữ trọn tấm hình hài,
Toàn thân thiếp được luôn kiều diễm
Như thể cành cung uốn mảnh mai.

6120. Thanā me nappapateyyuṃ palitā nassantu vāsava, kāye rajo na lippetha vajjhaṃ cāpi pamocaye. 

6120. Thưa vị chúa của chư Thiên, mong rằng bộ ngực của thiếp không trễ xuống, các sợi tóc bạc không xuất hiện, bụi bặm không làm bẩn cơ thể, và thiếp còn có thể phóng thích kẻ tử tù.

9. Ðế Thích, thiếp mong ngực gợi tình,
Xin được nhuốm bạc mái đầu xanh,
Tấm thân bồ liễu luôn hoàn hảo,
Mong cứu tù nhân thoát tử hình.

6121. Mayūrakoñcābhirude nārīvaragaṇāyute, khujjacelāpakākiṇṇe sūtamāgadhavaṇṇite.

6121. Ở nơi có tiếng kêu của chim công, chim cò, ở nơi có các nhóm phụ nữ cao quý tụ tập, được đông đúc với những người hầu cận dưới quyền, được ca ngợi bởi các thi sĩ và những người dân xứ Magadha,–

10. Giữa tiếng hạc rền, khổng tước vang,
Cung nhân hầu cận đẹp quanh nàng,
Thi sĩ ca nhân đồng tán tụng,
Khăn quàng tung vẫy giữa không gian.

6122. Citraggaḷerughusite surāmaṃsappabodhane, sivirājassa bhaddante tattha assaṃ mahesiyā. 

6122. –ở nơi vang lên tiếng các chốt cửa nhiều màu sắc, ở nơi được mời mọc thưởng thức rượu thịt, tâu bậc tôn đức, mong rằng thiếp sẽ trở thành chánh cung hoàng hậu ở tại nơi ấy của đức vua Sivi.”

11. Khi ngõ nhẹ nhàng cánh cửa hoa
Nô tỳ cất tiếng lớn trình thưa:
"Vạn tuế Ðại vương! Giờ ngự thiện!"
Thiếp mong làm chánh hậu hoàng gia!

6123. Ye te dasa varā dinnā mayā sabbaṅgasobhane, sivirājassa vijite sabbe te lacchasī vare. 

6123. “Hỡi người phụ nữ có sự xinh đẹp toàn thân, mười điều ân huệ nào đã được trẫm ban cho nàng, nàng sẽ đạt được tất cả các điều ân huệ ấy ở lãnh địa của đức vua Sivi.”

12. Mười ước nguyện kia, hỡi nữ hoàng,
Phải biết rằng ta đã tặng nàng,
Mỹ nương đến xứ Si-vi nọ
Mười ước nguyện kia sẽ thập toàn.

6124. Idaṃ vatvāna maghavā devarājā sujampati, phusatiyā varaṃ datvā anumodittha vāsavo.

6124. Vị Thiên Vương Maghavā, chồng của nàng Sujā, bậc Thiên Chủ Vāsava đã nói điều này, đã ban cho ân huệ, và đã tùy hỷ với nàng Phusatī.

13. Phán vầy chúa tể các Thiên thần,
Phu tướng Su-ja, đại đế vương,
Ðược gọi Và-sa-va mỹ hiệu,
Hân hoan ban nguyện ước cho nàng.

Dasavaragāthā. 

Các Kệ Ngôn về Mười Điều Ân Huệ.

6125. Tato cutā sā phusatī khattiye upapajjatha, jetuttaramhi nagare sañjayena samāgami. (Lời tự thuật của đức Phật)

6125. Sau đó, nàng Phusatī ấy đã mệnh chung, đã tái sanh vào dòng dõi Sát-đế-lỵ ở thành phố Jetuttara, và đã kết hôn với vua Sañjaya.

14. Kế đó nàng công chúa tái sinh
Phu-sa-tì được rước về thành
Je-tut-ta ấy là tên gọi,
Cùng với Sañ-ja kết mối tình.

6126. Dasa māse dhārayitvāna karontī purapadakkhiṇaṃ, vessānaṃ vīthiyā majjhe janesi phusatī mamaṃ.

6126. Sau khi mang thai được mười tháng, bà Phusatī, trong khi đang đi nhiễu quanh thành phố, đã sanh ta ở giữa đường phố của những người thương buôn.

15. Trong lòng mười tháng mẹ mang con,
Ðám rước ngày kia khắp phố phường,
Khi đến khu dân cư Vệ-xá,
Vì con, mẫu hậu phải lâm bồn.

6127. Na mayhaṃ mattikaṃ nāmaṃ napi pettikasambhavaṃ, jātomhi vessavīthiyaṃ tasmā vessantaro ahu.

6127. Tên của ta không liên quan đến họ mẹ, cũng không xuất phát từ họ cha. Ta đã được sanh ra ở đường phố của những người thương buôn (vessa), vì thế tên của ta đã là Vessantara.

16. Tên ta chẳng phía mẹ đưa ra,
Cũng chẳng phát từ quý tộc cha,
được sinh trên đường Vệ-xá,
Nên tên ta gọi Ves-san-ta.

6128. Yadāhaṃ dārako homi jātiyā aṭṭhavassiko, tadā nisajja pāsāde dānaṃ dātuṃ vicintayiṃ.

6128. Đến khi ta đã trở thành đứa bé trai được tám tuổi tính từ lúc sanh, khi ấy ta đã ngồi ở tòa lâu đài và đã suy nghĩ về việc bố thí tặng vật.

17. Khi ta còn trẻ, tuổi còn thơ
Chỉ khoảng chừng lên tám tuổi dư,
Trên thượng lầu ta trong nội điện,
Nhân từ, bố thí vẫn suy tư:

6129. Hadayaṃ dadeyyaṃ cakkhumpi maṃsampi rudhirampi ca, dadeyyaṃ kāyaṃ sāvetvā yadi koci yācaye mamaṃ.

6129. Ta có thể bố thí tim, mắt, luôn cả thịt và máu của mình. Ta đã thông báo là ta có thể bố thí xác thân của mình nếu có người cầu xin.

18. Nếu người nào đến hỏi xin cho
Máu, thịt, tim và con mắt ta,
Ta sẽ cho thân, tim, máu, mắt,
Sẵn sàng ta cất tiếng kêu to.

6130. Sabhāvaṃ cintayantassa akampitamasaṇṭhitaṃ, akampi tattha paṭhavī sineruvanavaṭaṃsakā.

6130. Trong khi ta đang suy xét về bản tánh không dao động, không hẹp hòi, tại nơi ấy, trái đất với dải rừng ở núi Sineru đã rúng động.

19. Trong khi ta nghĩ ngợi trầm ngâm
Như vậy cùng toàn thể bản thân,
Quả đất vững bền kia rúng động,
Chuyển rung cùng thảo mộc, sơn lâm.

6131. Parūḷhakacchanakhalomā paṅkadantā rajassirā, paggayha dakkhiṇaṃ bāhuṃ kiṃ maṃ yācanti brāhmaṇā.(Lời đức vua Vessantara)

6131. “Có các móng và lông nách đã mọc dài, có răng bị đóng bợn, có đầu lấm bụi, các vị Bà-la-môn đã giơ lên cánh tay phải cầu xin trẫm điều gì?”

20. Các đạo sĩ kia, rậm tóc, lông,
Răng dơ, đầu phủ bụi màu hồng,
Cớ sao giơ cả hai tay nọ,
Gì đó các người vẫn ước mong?

6132. Ratanaṃ deva yācāma sivīnaṃ raṭṭhavaḍḍhana, dadāhi pavaraṃ nāgaṃ īsādantaṃ urūḷhavaṃ.

6132. “Tâu bệ hạ, chúng tôi cầu xin báu vật. Tâu bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, xin bệ hạ hãy ban cho con voi cao quý, có ngà như cán cày, xứng đáng để cỡi.”

21. Bảo vật chúng thần vẫn khát khao
Cứu toàn dân tộc ấy, muôn tâu,
Con voi tối thượng phò nguy khốn,
Ngà trắng dài như một chiếc sào.

6133. Dadāmi na vikampāmi yaṃ maṃ yācanti brāhmaṇā, pabhinnaṃ kuñjaraṃ dantiṃ opavuyhaṃ gajuttamaṃ.

6133. “Trẫm ban cho không do dự vật mà các vị Bà-la-môn cầu xin, là con voi đã phát dục, có ngà, là phương tiện di chuyển của đức vua, và là con voi hạng nhất.”22. Bố thí, ta không hề chối từ
Vật kia Ðạo sĩ muốn ta cho,
Cao sang bảo vật phò vua ngự,
Dũng mãnh con voi có bộ ngà.

6134. Hatthikkhandhato oruyha rājā cāgādhimānaso, brāhmaṇānaṃ adā dānaṃ sivīnaṃ raṭṭhavaḍḍhano. 

6134. Với tâm ý cao cả về việc xả thí, đức vua, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, đã từ mình voi leo xuống và đã ban vật thí đến các vị Bà-la-môn.

23. Vua, vị cứu tinh dân tộc ngài,
Nhẹ nhàng bước xuống khỏi lưng voi,
Hy sinh bố thí, đầy hoan hỷ
Cho đám La-môn vật họ đòi.

6135. Tadāsi yaṃ bhiṃsanakaṃ tadāsi lomahaṃsanaṃ, hatthināge padinnamhi medinī samakampatha. 

6135. Khi ấy, đã có sự kinh hoàng, khi ấy, đã có sự dựng đứng lông. Vào lúc con long tượng được ban ra, trái đất đã rúng động.

24. Lúc ấy khắp nơi thật hãi hùng
Người người cảm thấy rợn da lông,
Khi ngài bố thí con voi báu
Quả đất kinh hoàng phải chuyển rung.

6136. Tadāsi yaṃ bhiṃsanakaṃ tadāsi lomahaṃsanaṃ, hatthināge padinnamhi khubbhittha nagaraṃ tadā. 

6136. Khi ấy, đã có sự kinh hoàng, khi ấy, đã có sự dựng đứng lông. Vào lúc con long tượng được ban ra, khi ấy, thành phố đã bị hoảng loạn.

25. Lúc ấy khắp nơi thật hãi hùng,
Người người cảm thấy rợn da lông,
Khi ngài bố thí con voi báu
Tất cả kinh thành phải chuyển rung.

6137. Samākulaṃ puraṃ āsi ghoso ca vipulo mahā, hatthināge padinnamhi sivīnaṃ raṭṭhavaḍḍhane.

6137. Thành phố đã trở nên lộn xộn, và có tiếng ồn (quở trách) lan truyền, vang dội vào lúc bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi bố thí con long tượng.

26. Tiếng kêu gào thét thật kinh hoàng
Toàn thể kinh thành bỗng dậy vang:
Si-vi chúa tể nuôi dân chúng
Cho các La-môn đại tượng vương.

6138. Athettha vattati saddo tumulo bheravo mahā, hatthināge padinnamhi medinī samakampatha.

6138. Rồi ở nơi ấy đã xảy ra âm thanh ồn ào, khiếp đảm, vang dội. Vào lúc con long tượng được ban ra, trái đất đã rúng động.

27. Tiếng thét lớn kia cứ vọng vang
Tai nghe như vậy thật kinh hoàng
Khi vua bố thí con voi báu,
Quả đất hãi hùng phải chuyển rung.

6139. Athettha vattati saddo tumulo bheravo mahā, hatthināge padinnamhi khubbhittha nagaraṃ tadā.

6139. Rồi ở nơi ấy đã xảy ra âm thanh ồn ào, khiếp đảm, vang dội. Vào lúc con long tượng được ban ra, khi ấy, thành phố đã bị hoảng loạn.

28. Tiếng hét lớn kia cứ vọng vang
Tai nghe như vậy thật kinh hoàng,
Khi vua bố thí con voi báu
Dân chúng kinh thành thảy chuyển rung.

6140. Athettha vattati saddo tumulo bheravo mahā, hatthināge padinnamhi sivīnaṃ raṭṭhavaḍḍhane.

6140. Rồi ở nơi ấy đã xảy ra âm thanh ồn ào, khiếp đảm, vang dội vào lúc bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi ban bố con long tượng.

29. Tiếng thét lớn kia cứ vọng vang
Toàn dân đều khủng khiếp bàng hoàng:
Si-vi Chúa thượng nuôi dân chúng
Ðem bố thí luôn đại tượng vương!

6141. Uggā ca rājaputtā ca vesiyānā ca brāhmaṇā, hatthāruhā anīkaṭṭhā rathikā pattikārakā.

6141. Các quý tộc, các hoàng tử, các thương nhân, và các vị Bà-la-môn, các viên quản tượng, các ngự lâm quân, các xa binh, và các bộ binh,–

30. Vương tứ, La-môn, Vệ-xá, Ug-ga,
Quản tượng, bộ binh, kỵ mã, quản xa,

6142. Kevalo cāpi nigamo sivayo cāpi samāgatā, disvā nāgaṃ nīyamānaṃ te rañño paṭivedayuṃ.

6142. –luôn cả toàn bộ thị dân và các người dân xứ Sivi đã tụ hội lại. Sau khi nhìn thấy con voi đang bị dẫn đi, họ đã thông báo đến đức vua rằng:

31. Ðiền chủ, toàn dân Si-vi vội đến,
Thấy tượng vương đi, tìm vua yết kiến:

6143. Vidhamaṃ deva te raṭṭhaṃ putto vessantaro tava, kathaṃ no hatthinaṃ dajjā nāgaṃ raṭṭhassa pūjitaṃ. 

6143. “Tâu bệ hạ, đất nước của ngài bị tàn phá. Tại sao người con trai Vessantara của bệ hạ lại có thể cho đi con voi của chúng ta, con voi được tôn vinh của đất nước?

32. - Quốc độ suy tàn rồi, tấu Ðại vương,
Sao Ves-san-ta, Thái tử vinh quang,
Bố thí tượng vương mọi người quý trọng?

6144. Kathaṃ no kuñjaraṃ dajjā īsādantaṃ urūḷhavaṃ, khettaññuṃ sabbayuddhānaṃ sabbasetaṃ gajuttamaṃ. 

6144. Tại sao vị ấy lại có thể cho đi con voi có ngà như cán cày, xứng đáng để cỡi, con voi hạng nhất, toàn màu trắng, biết được địa thế của mọi chiến trường?

33. Voi cứu tinh, ngà như sào, bạch tượng,
Biết lập chiến công trên mọi đấu trường,

6145. Paṇḍukambalasañchannaṃ pabhinnaṃ sattumaddanaṃ, dantiṃ savāḷavījaniṃ setaṃ kelāsasādisaṃ. 

6145. (Tại sao vị ấy lại có thể cho đi) con voi được choàng lên tấm len màu vàng cam, đã phát dục, có (khả năng) nghiền nát đối phương, có ngà, có cây quạt lông đuôi bò, màu trắng, tương tự như núi Kelāsa?

34. Với quạt đuôi trâu rừng, ngọc trang hoàng,
Ðã dẫm nát tan mọi quân cừu địch,
Hung hãn, ngà dài, toàn thân trắng bạch
Như tuyết trên đỉnh núi Ke-là-sa,

6146. Sasetacchattaṃ savupatheyyaṃ sāthabbaṇaṃ sahatthipaṃ, aggayānaṃ rājavāhiṃ brāhmaṇānaṃ adā dhanaṃ.

6146. (Tại sao vị ấy lại có thể cho đi) con voi có chiếc lọng màu trắng, có tấm đệm ngồi, có y sĩ chăm sóc, có viên quản tượng, là phương tiện di chuyển cao quý dành để chuyên chở đức vua? Tại sao vị ấy đã cho đi tài sản đến các vị Bà-la-môn?

35. Với cân đai, lọng trắng xứng vương gia,
Cùng quản tượng và đám quân hầu cận,
Bảo vật này, ngài đã đem ban tặng.
Sau đó, dân chúng còn nói thêm:

6147. Annaṃ pānañca so dajjā vatthasenāsanāni ca, etaṃ kho dānapatirūpaṃ etaṃ kho brāhmaṇārahaṃ.

6147. Vị ấy nên ban cho cơm ăn, nước uống, vải vóc, và chỗ trú ngụ. Điều này quả thật là đúng với việc bố thí; điều này quả thật là phù hợp với các vị Bà-la-môn.36. Ban y phục, lửa, xe, thức uống ăn,
Là cúng dường xứng với Bà-la-môn.

6148. Ayaṃ te vaṃsarājā no sivīnaṃ raṭṭhavaḍḍhanaṃ, kathaṃ vessantaro putto gajaṃ bhājeti sañjaya. 

6148. Người này là vị vua kế thừa của ngài, là bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi của chúng tôi. Tâu đại vương Sañjaya, tại sao người con trai Vessantara (của ngài) lại cho đi con voi?

37. Tâu Ðại vương, bạn của toàn dân chúng,
Xin cho biết sao xảy ra hành động
Bởi vương nhi là dòng dõi vương gia,
Chính người là Thái tử Ves-san-ta?

6149. Sace tvaṃ na karissasi sivīnaṃ vacanaṃ imaṃ, maññe taṃ sahaputtena sivī hatthe karissare. 

6149. Nếu ngài không làm theo lời nói của những người dân xứ Sivi, thần nghĩ rằng các người dân xứ Sivi sẽ chống đối lại ngài và người con trai.”

38. Lệnh dân Si-vi, nếu ngài từ chối,
Các ngài sẽ bị toàn dân chống đối.

6150. Kāmaṃ janapado māsi raṭṭhaṃ cāpi vinassatu, nāhaṃ sivīnaṃ vacanā rājaputtaṃ adūsakaṃ, pabbājeyyaṃ sakā raṭṭhā putto hi mama oraso. (Lời đức vua Sañjaya, thái thượng hoàng)

6150. “Dầu cho xứ sở không còn, thậm chí đất nước bị tiêu diệt, ta cũng không vì lời nói của những người dân xứ Sivi mà tự nguyện lưu đày vị thái tử không phải là kẻ hư hỏng ra khỏi đất nước của mình, bởi vì người con trai là ruột thịt của ta.

39-40. Vâng, ta chẳng màng quốc độ, ngai vàng,
Ta quyết không đày trẻ khỏi quê hương,
Thái tử ta chẳng chút nào lầm lỗi,
Ta cũng không muốn vâng lời dân nói,
Vì con ta dòng chính thống là chàng.

6151. Kāmaṃ janapado māsi raṭṭhaṃ cāpi vinassatu, nāhaṃ sivīnaṃ vacanā rājaputtaṃ adūsakaṃ, pabbājeyyaṃ sakā raṭṭhā putto hi mama atrajo.

6151. Dầu cho xứ sở không còn, thậm chí đất nước bị tiêu diệt, ta cũng không vì lời nói của những người dân xứ Sivi mà tự nguyện lưu đày vị thái tử không phải là kẻ hư hỏng ra khỏi đất nước của mình, bởi vì người con trai là huyết thống của ta.

41-42. Không, ta chẳng màng quốc độ, ngai vàng,
Ta quyết không đày trẻ khỏi quê hương,
Thái tử ta chẳng có gì lầm lỗi,
Ta cũng chẳng muốn vâng lời dân nói,
Vì con ta, đích thực chính là chàng.

6152. Na cāhaṃ tassa dubbheyyaṃ ariyasīlavato hi so, asilokopi me assa pāpañca pasave bahuṃ, kathaṃ vessantaraṃ puttaṃ satthena ghātayāmase.

6152. Và ta không thể phản bội lại con trai ta, bởi vì nó có giới hạnh cao cả. Luôn cả sự ô danh cũng sẽ có cho ta, và ta sẽ tạo ra nhiều tội ác. Làm thế nào chúng tôi có thể dùng gươm giết chết con trai Vessantara được?”

43-44. Không, ta quyết không làm hại hoàng nam,
Vì Thái tử thật vô cùng cao cả.
Việc ấy đối với ta đầy nhục nhã,
Nó sẽ gây nhiều khổ não cho ta:
Làm sao ta cầm kiếm giết Ves-sa?

6153. Mā naṃ daṇḍena satthena na hi so bandhanāraho, pabbājehi ca naṃ raṭṭhā vaṅke vasatu pabbate.

(Lời dân chúng)

6153. “Chớ giết chết vị ấy bằng gậy hay bằng gươm, vị ấy thật sự không đáng bị giam cầm. Ngài hãy lưu đày vị ấy ra khỏi đất nước. Hãy để vị ấy sống ở núi Vaṅka.”

45. Người không xứng dù bất kỳ hình phạt,
Dù kiếm, đao hay phải vào ngục thất,
Song hãy đuổi người ra khỏi giang sơn,
Ðến đỉnh núi Vam-ka để náu nương.

6154. Eso ce sivīnaṃ chando chandaṃ na panudāmase, imaṃ so vasatu rattiṃ kāme ca paribhuñjatu.

6154. “Nếu việc ấy là điều mong muốn của những người dân xứ Sivi, chúng tôi không thể từ chối điều mong muốn ấy. Hãy để Vessantara sống và thọ hưởng các dục trong đêm nay.

46. Hãy xem đây ý nguyền toàn dân chúng
Và chính ta không thể nào phủ nhận,
Song cho chàng hạnh phúc một đêm thôi
Trước khi chàng phải cất bước xa rời.

6155. Tato ratyā vivasane suriyassuggamanampati, samaggā sivayo hutvā raṭṭhā pabbājayantu naṃ.

6155. Kế đó, vào lúc tàn đêm, khi việc mọc lên của mặt trời đã đến, các người dân xứ Sivi hãy đồng lòng rồi trục xuất Vessantara ra khỏi đất nước.”

47. Sau khoảnh khắc của đêm nay vừa mãn,
Khi ngày mai bình minh vừa ló dạng,
Cả toàn dân hãy đến đuổi chàng đi.

6156. Uṭṭhehi katte taramāno gantvā vessantaraṃ vada, sivayo deva te kuddhā negamā ca samāgatā.

6156. “Này kẻ phục dịch, hãy đứng lên. Ngươi hãy gấp rút đi đến và nói với Vessantara rằng: ‘Tâu bệ hạ, các người dân xứ Sivi giận dữ với bệ hạ. Và các thị dân đã tụ hội lại.

48. - Ngươi hãy đi nhanh và bảo Vương nhi
Lời ta nhắn thần dân đầy căm phẫn,
Và tất cả đều đồng lòng chấp thuận,

6157. Uggā ca rājaputtā ca vesiyānā ca brāhmaṇā, hatthāruhā anīkaṭṭhā rathikā pattikārakā, kevalo cāpi nigamo sivayo cāpi samāgatā.

6157. Các nhà quý tộc, các hoàng tử, các thương nhân, và các vị Bà-la-môn, các viên quản tượng, các ngự lâm quân, các xa binh, và các bộ binh, luôn cả toàn bộ thị trấn và các người dân xứ Sivi đã tụ hội lại.

49-50. Ug-ga, vương tử, Vệ-xá, La-môn,
Quản tượng, quản xa, lính bộ, vệ quân,
Tất cả dân thôn quê cùng thành phố
Ðã cùng nhau kéo về đây rầm rộ,

6158. Asmā ratyā vivasane suriyassuggamanampati, samaggā sivayo hutvā raṭṭhā pabbājayanti taṃ.

6158. Vào lúc tàn đêm này, khi việc mọc lên của mặt trời đã đến, các người dân xứ Sivi sẽ đồng lòng và trục xuất bệ hạ ra khỏi đất nước.’”

51. Sau khoảng thời gian chỉ một đêm nay,
Khi bình minh vừa ló dạng ngày mai,
Toàn dân chúng sẽ cùng nhau tụ họp,
Và sẽ đuổi Vương nhi ra khỏi nước.

6159. Sa kattā taramānova sivirājena pesito, āmuttahatthābharaṇo suvattho candanabhūsito. 

6159. Kẻ phục dịch ấy, có đồ trang sức bằng ngọc trai ở cánh tay, có y phục tươm tất, được tô điểm với trầm hương, đã được gấp rút phái đi bởi đức vua Sivi.

52. Sứ giả này được lệnh chúa Si-vi,
Liền vội vàng đem sứ mạng ra đi,
Cởi con voi có mang đầy gươm giáo,
Ngát dầu thơm và rỡ ràng xiêm áo,

6160. Sīsaṃ nahāto udake so āmuttamaṇikuṇḍalo, upāgami puraṃ rammaṃ vessantaranivesanaṃ. 

6160. Kẻ ấy, đã gội đầu ở trong nước, có các bông tai bằng ngọc trai và ngọc ma-ni, đã đi đến thành phố đáng yêu, nơi trú ngụ của Vessantara.

53. Tẩm ướt đầu, vòng ngọc mỗi bên tai,
Gã lên đường đến thành thị tuyệt vời,
Nơi Thái tử Ves-san-ta-ra ngự.

6161. Tatthaddasa kumāraṃ so ramamānaṃ sake pure, parikiṇṇaṃ amaccehi tidasānaṃva vāsavaṃ.

6161. Tại nơi ấy, kẻ ấy đã nhìn thấy vị vương tử đang vui sướng ở kinh thành của mình, được vây quanh bởi các quan đại thần, tựa như Thiên Chủ Vāsava ở cõi Tam Thập.

54. Gã nhìn ngắm hạnh phúc sao Vương tử
Cư trú trong lãnh thổ thật bình yên
Như Và-sa-va, chúa tể chư Thiên,
Chung quanh ngài quần thần đang hầu hạ.

6162. So tattha gantvā ramamānaṃ kattā vessantaraṃ bravi, dukkhaṃ te vedayissāmi mā me kujjhi rathesabha.

6162. Sau khi đi đến nơi ấy, kẻ phục dịch ấy đã nói với vị Vessantara đang vui sướng rằng: “Thần sẽ báo tin khổ đau đến bệ hạ. Tâu đấng thủ lãnh xa binh, xin chớ giận dữ với thần.”

55. Gã đến nơi thật nhanh chân vội vã,
đến bên Thái tử, gã thưa trình:
- Tâu Ðại vương, tin mang đến chẳng lành,
Xin ngài chớ vì hạ thần phẫn nộ.

6163. Vanditvā rodamāno so kattā rājānamabravi, bhattā mesi mahārāja sabbakāmarasāharo, dukkhaṃ te vedayissāmi tattha assāsayantu maṃ.

6163. Sau khi đảnh lễ, kẻ phục dịch ấy đã vừa khóc lóc vừa nói với đức vua Vessantara rằng: “Tâu đại vương, ngài là chủ nhân của thần, là người mang lại (cho thần) mọi hương vị của khoái lạc. Thần sẽ báo tin khổ đau đến bệ hạ. Mong rằng mọi người thông cảm với thần về điều đó.

56-57. Kính lễ ngài với bao hàng lệ đổ,
Gã thưa trình lên với đấng vương quân:
- Với hạ thần, ngài là bậc chủ nhân,
Và ngài đã ban hạ thần tất cả,
Nhưng giờ đây thần phải tâu ngài rõ:
Tin chẳng lành, xin Chúa thượng bình tâm.

6164. Sivayo deva te kuddhā negamā ca samāgatā, uggā ca rājaputtā ca vesiyānā ca brāhmaṇā.

6164. “Tâu bệ hạ, các người dân xứ Sivi giận dữ với bệ hạ. Các thị dân, các nhà quý tộc, các hoàng tử, các thương nhân, và các vị Bà-la-môn đã tụ hội lại.

58. Dân thị thành cùng tất cả toàn dân
Ðồng một lòng, nổi lên cơn thịnh nộ,
Ug-ga, Vệ-xá, La-môn, vương tử,

6165. Hatthāruhā anīkaṭṭhā rathikā pattikārakā, kevalo cāpi nigamo sivayo cāpi samāgatā.

6165. Các viên quản tượng, các ngự lâm quân, các xa binh, và các bộ binh, luôn cả toàn bộ thị trấn và các người dân xứ Sivi đã tụ hội lại.

59. Quản tượng, quản xa, vệ sĩ, bộ binh,
Dân làng quê cùng dân chúng thị thành
Nay rầm rộ kéo về đây đồng loạt,

6166. Asmā ratyā vivasane suriyassuggamanampati, samaggā sivayo hutvā raṭṭhā pabbājayanti taṃ.

6166. Vào lúc tàn đêm này, khi việc mọc lên của mặt trời đã đến, các người dân xứ Sivi sẽ đồng lòng và trục xuất bệ hạ ra khỏi đất nước.”

60. Sau khoảnh khắc một đêm nay thấm thoắt,
Khi bình minh vừa đến rạng ngày mai
Ðã quyết lòng đến từng đám đông người
Và sẽ đuổi ngài đi xa xứ sở.

6167. Kismiṃ me sivayo kuddhā nāhaṃ passāmi dukkataṃ, tamme katte viyācikkha kasmā pabbājayanti maṃ.

6167. “Các người dân xứ Sivi giận dữ với trẫm về việc gì? Trẫm không nhận thấy điều gì sai trái. Này người phục dịch, khanh hãy giải thích điều ấy cho trẫm. Tại sao họ lại trục xuất trẫm?”

61. Sao với ta, thần dân đang phẫn nộ?
Vì ta không thấy phạm lỗi lầm chi,
Này bạn hiền, hãy nói thử ta nghe,
Sao dân chúng muốn đuổi ta xa xứ?

6168. Uggā ca rājaputtā ca vesiyānā ca brāhmaṇā, hatthāruhā anīkaṭṭhā rathikā pattikārakā, nāgadānena khīyanti tasmā pabbājayanti taṃ.

6168. “Các nhà quý tộc, các hoàng tử, các thương nhân, và các vị Bà-la-môn, các viên quản tượng, các ngự lâm quân, các xa binh, và các bộ binh, họ phê phán về việc bố thí con voi; vì thế, họ trục xuất bệ hạ.

62-63. Ug-ga, Ðạo Sĩ, quản xa, Vương tử,
Quản tượng, vệ quân, Vệ-xá, bộ binh
Kéo về kinh và nổi trận lôi đình
Về việc ngài đã đem cho báu vật,
Cho nên định đưa ngài ra tống xuất.

6169. Hadayaṃ cakkhumpahaṃ dajjaṃ kiṃ me bāhirakaṃ dhanaṃ, hiraññaṃ vā suvaṇṇaṃ vā muttā veḷuriyā maṇi.

6169. “Trẫm có thể bố thí trái tim luôn cả con mắt, vật gì là tài sản ngoại thân của trẫm, vàng thô, vàng ròng, hay ngọc trai, ngọc bích, ngọc ma-ni?

64. Chính mắt và tim ta cũng muốn cho,
Sao chẳng cho gì không phải của ta,
Hoặc vàng ròng, hoặc kho tàng, đá quý,
Hoặc ngọc trai hay bảo châu tuyệt mỹ?

6170. Dakkhiṇaṃ vāpahaṃ bāhuṃ disvā yācakamāgate, dadeyyaṃ na vikampeyyaṃ dāne me ramatī mano.

6170. Hoặc thậm chí luôn cả cánh tay phải, sau khi nhìn thấy những người ăn mày đi đến, trẫm có thể ban cho không do dự. Tâm ý của trẫm vui thích trong việc bố thí.

65. Nếu có người nào đi đến hỏi ta
Ta sẽ cho luôn cả tứ chi mà
Lòng chẳng ngập ngừng dù trong phút chốc,
Trong phát ban chính là niềm hoan lạc.

6171. Kāmaṃ maṃ sivayo sabbe pabbājentu hanantu vā, neva dānā viramissaṃ kāmaṃ chindantu sattadhā. 

6171. Tất cả những người dân Sivi hãy tùy ý trục xuất hay giết chết trẫm, hãy tùy ý chặt trẫm thành bảy phần, trẫm vẫn sẽ không xa lìa việc bố thí.”

66. Nay thần dân xin cứ đuổi ta ra,
Nay thần dân xin hãy cứ giết ta,
Hoặc cứ chặt thân ta thành bảy khúc,
Song bố thí, ta vẫn còn tiếp tục.

6172. Evaṃ taṃ sivayo āhu negamā ca samāgatā, kontimārāya tīrena giraṃ ārañjaraṃ pati, yena pabbājitā yanti tena gacchatu subbato. 

6172. “Các thị dân đã tụ hội lại và các người dân xứ Sivi đã nói về bệ hạ như vầy: ‘Hãy để vị có sự hành trì tốt đẹp đi đến bờ sông Kontimārā, đối diện với ngọn núi Ārañjara, là nơi những kẻ bị trục xuất đi đến.’”

67-68. Ðây là ý nguyền của dân chúng Si-vi,
Họ bảo thần đến nói Chúa công nghe,
Ở bên đồi À-rañ-ra ấy
Có dòng suối Kon-ti-mà-rà chảy,
Ðến miền kia, Chúa thượng hãy đăng trình,
Nơi kẻ lưu đày vẫn phải du hành.

6173. Sohaṃ tena gamissāmi yena gacchanti dūsakā, rattindivaṃ me khamatha yāva dānaṃ dadāmahaṃ. 

6173. “Trẫm đây sẽ đi đến nơi mà những kẻ tồi bại đi đến. Các khanh hãy thư thả cho trẫm một ngày đêm, cho đến khi trẫm ban phát vật thí xong.”

69. Vậy ta sẽ đi cùng con đường ấy
Như những kẻ xưa nay làm việc quấy,
Nhưng trước tiên để bố thí cúng dường,
Ta mong dân cho phép một ngày trường.

6174. Āmantayittha rājā naṃ maddiṃ sabbaṅgasobhanaṃ, yaṃ te kiñci mayā dinnaṃ dhanaṃ dhaññañca vijjati.

6174. Đức vua Vessantara đã nói với nàng Maddī, người phụ nữ có sự xinh đẹp toàn thân ấy rằng: “Bất cứ vật gì ta đã ban tặng cho nàng, tài sản và lúa gạo hiện có,–

70. Như vậy cùng với Mad-dì vương hậu,
Tuyệt thế công nương này, vua phán bảo:
- Những thứ gì ta đã tặng cho nàng,
Các đồ dùng, lúa gạo, hãy canh phòng,

6175. Hiraññaṃ vā suvaṇṇaṃ vā muttā veḷuriyā bahū, sabbaṃ taṃ nidaheyyāsi yañca te pettikaṃ dhanaṃ.

6175. –vàng thô, hoặc vàng ròng, hoặc nhiều ngọc trai và ngọc bích, và tài sản hồi môn từ người cha của nàng, nàng nên để dành mọi thứ ấy.”

71. Hoặc vàng, ngọc quý cùng nhiều kho báu,
Hồi môn vương phụ, tìm nơi chôn giấu.

6176. Tamabravi rājaputtī maddī sabbaṅgasobhanā, kuhiṃ deva nidaheyyāmi tamme akkhāhi pucchito.

6176. Công chúa Maddī, người phụ nữ có sự xinh đẹp toàn thân, đã nói với vị vua ấy rằng: “Tâu bệ hạ, thiếp nên để dành ở nơi nào? Được hỏi, xin bệ hạ hãy giải thích điều ấy cho thiếp.”

72. Rồi Mad-dì đã đáp lại quân vương,
Nàng chính là vị tuyệt thế công nương:
- Thiếp sẽ kiếm nơi đâu, tâu Chúa thượng,
Xin cho biết chỗ nào chôn giấu chúng?

6177. Sīlavantesu dajjāsi dānaṃ maddi yathārahaṃ, na hi dānā paraṃ atthi patiṭṭhā sabbapāṇinaṃ.

6177. “Này nàng Maddī, nàng nên dâng cúng vật thí phù hợp ở những vị có giới hạnh, bởi vì đối với tất cả chúng sanh, không có chỗ dựa nào khác vượt lên trên sự bố thí.

73. Hãy đem phân phát của cải kho vàng
Tương xứng với điều lợi ích cho nàng,
Không nơi nào an toàn hơn nơi đó,
Chính điều này ta vẫn thường biết rõ.

6178. Puttesu maddi dayyāsi sassuyā sasuramhi ca, yo ca taṃ bhattā maññeyya sakkaccaṃ taṃ upaṭṭhahe.

6178. Này nàng Maddī, nàng nên thể hiện tình thương đối với các con, đối với mẹ chồng và cha chồng. Người nào có ý nghĩ trở thành chồng của nàng, nàng nên phục vụ người ấy một cách nghiêm chỉnh.

74. Hỡi Mad-dì, hãy yêu quý con nàng,
Cùng phụ vương, mẫu hậu của phu quân,
Ðối với người sẽ là chồng nàng đó,
Nàng hãy sẵn sàng hết lòng phục vụ.

6179. No ce taṃ bhattā maññeyya mayā vippavasena te, aññaṃ bhattāraṃ pariyesa mā kisittha mayā vinā.

6179. Nếu không có người nào có ý định trở thành chồng của nàng do việc xa cách của nàng với ta, nàng hãy kiếm người chồng khác, chớ gầy mòn vì thiếu vắng ta.

75. Còn nếu không ai muốn hỏi cưới nàng
Sau khi ta đã khuất bóng trên đường,
Hãy tìm một phu quân cho nàng nữa,
Nhưng nàng đừng sống cô đơn tàn úa.

6180. Ahaṃ hi vanaṃ gacchāmi ghoraṃ vāḷamigāyutaṃ, saṃsayo jīvitaṃ mayhaṃ ekakassa brahāvane.

6180. Bởi vì ta sẽ đi đến khu rừng ghê rợn có các loài thú dữ tụ tập. Mạng sống của ta là bấp bênh khi chỉ có một mình ở khu rừng rộng lớn.”

76. Ngày mai đi vào khu rừng hoang dã,
Bị bầy thú săn mồi đến tấn công,
Ai biết chăng: Ta còn sống được không?

6181. Tamabravī rājaputtī maddī sabbaṅgasobhanā, abhumme kathaṃ nu bhaṇasi pāpakaṃ vata bhāsasi.

6181. Công chúa Maddī, người phụ nữ có sự xinh đẹp toàn thân, đã nói với vị vua ấy rằng: “Tại sao chàng lại nói điều không có lý lẽ? Chàng quả thật nói điều xấu xa!

77. Rồi đáp lời, nàng Mad-dì diễm lệ,
Nàng chính là vị công nương tuyệt thế:
- Không phải đâu! Lời nói thật bạo tàn!
Ðừng nhẫn tâm nói điều ấy, thưa chàng!

6182. Nesa dhammo mahārāja yaṃ tvaṃ gaccheyya ekako, ahampi tena gacchāmi yena gacchasi khattiya.

6182. Tâu đại vương, việc chàng sẽ ra đi chỉ một mình là không đúng nguyên tắc. Tâu vị Sát-đế-lỵ, thiếp cũng đi đến nơi mà chàng đi đến.

78. Tâu Chúa công, chẳng chút nào thích hợp
Nếu chỉ riêng chàng ra đi đơn độc,
Dù cuộc du hành chàng sẽ tới đâu,
Thiếp cũng xin nguyền cất bước theo hầu:

6183. Maraṇaṃ vā tayā saddhiṃ jīvitaṃ vā tayā vinā, tadeva maraṇaṃ seyyo yañce jīve tayā vinā.

6183. Hoặc là chết cùng với chàng, hoặc là sống không có chàng, chính cái chết ấy là tốt hơn so với việc nếu có thể sống mà không có chàng.79. Cho thiếp chọn: Ở cùng chàng để chết,
Hoặc là sống phải xa chàng, ly biệt.
Chết là điều thần thiếp ước mong làm,
Nếu thiếp không được sống ở bên chàng.

6184. Aggiṃ nijjālayitvāna ekajālasamāhitaṃ, tattha me maraṇaṃ seyyo yañce jīve tayā vinā. 

6184. Sau khi đốt lên ngọn lửa đã được tập trung lại thành một khối, cái chết của thiếp ở nơi ấy là tốt hơn so với việc nếu có thể sống mà không có chàng.

80. Hãy đốt lên ngọn lửa hồng đỏ rực,
Ngọn lửa nào thật hung tàn đệ nhất,
Thà thiếp chết kia trong ngọn lửa hồng
Vẫn còn hơn thiếp phải sống xa chồng.

6185. Yathā āraññakaṃ nāgaṃ dantiṃ anveti hatthinī, jessantaṃ giriduggesu samesu visamesu ca. 

6185. Giống như con voi cái đi theo sau con voi đực có ngà, sống trong rừng, đang lang thang ở các khe núi hiểm trở, bằng phẳng hoặc gồ ghề.

81. Cũng như ở phía sau mình voi nọ,
Vẫn thường thấy một nàng voi là vợ
Di chuyển qua các đèo, núi, hay rừng,
Trên dốc gồ ghề hay mặt đất bằng.

6186. Evaṃ taṃ anugacchāmi putte ādāya pacchato, subharā te bhavissāmi na te hessāmi dubbharā. 

6186. Tương tự như vậy, thiếp mang theo các con đi theo chàng ở phía sau. Thiếp sẽ là người dễ nuôi dưỡng của chàng. Thiếp sẽ không trở thành người khó chu cấp đối với chàng.

82. Cùng các con, thiếp sẽ theo chàng mãi
Ði bất cứ nơi nào chàng dẫn lối,
Thiếp sẽ không làm gánh nặng cho chàng,
Cũng không đòi chàng vất vả kiếm ăn.

6187. Ime kumāre passanto mañjuke piyabhāṇino, āsīne vanagumbasmiṃ na rajjassa sarissasi. 

6187. Trong khi nhìn thấy các con có giọng nói ngọt ngào đáng yêu đang ngồi ở  khóm cây rừng, chàng sẽ không còn nhớ đến vương quyền.

83. Khi chàng thấy các con chàng xinh đẹp
Và nghe lời chúng chuyện trò tíu tít,
Trong khu rừng xanh tốt với muôn hoa,
Chàng sẽ quên một thuở đã làm vua.

6188. Ime kumāre passanto mañjuke piyabhāṇino, kīḷante vanagumbasmiṃ na rajjassa sarissasi. 

6188. Trong khi nhìn thấy các con có giọng nói ngọt ngào đáng yêu đang chơi đùa ở khóm cây rừng, chàng sẽ không còn nhớ đến vương quyền.

84. Khi nhìn thấy con xinh tươi chạy nhảy,
Và nghe lời chúng chuyện trò vang dậy
Trong khu rừng xanh tốt với muôn hoa,
Chàng sẽ quên một thuở đã làm vua.

6189. Ime kumāre passanto mañjuke piyabhāṇino,
assame ramaṇīyamhi na rajjassa sarissasi. 

6189. Trong khi nhìn thấy các con có giọng nói ngọt ngào đáng yêu ở khu ẩn cư xinh xắn, chàng sẽ không còn nhớ đến vương quyền.

85. Khi chàng thấy các con thơ xinh đẹp
Và nghe lời chúng chuyện trò tíu tít,
Trong ngôi nhà diễm lệ của đôi ta,
Chàng sẽ quên một thuở đã làm vua.

6190. Ime kumāre passanto mañjuke piyabhāṇino, kīḷante assame ramme na rajjassa sarissasi. 

6190. Trong khi nhìn thấy các con có giọng nói ngọt ngào đáng yêu đang chơi đùa ở khu ẩn cư xinh xắn, chàng sẽ không còn nhớ đến vương quyền.

86. Nhìn thấy các con thơ chơi mải miết,
Và nghe lời chúng chuyện trò tíu tít,
Trong khu rừng xanh tốt với muôn hoa,
Chàng sẽ không còn nhớ thuở làm vua.

6191. Ime kumāre passanto māladhārī alaṅkate, assame ramaṇīyamhi na rajjassa sarissasi.

6191. Trong khi nhìn thấy các con có mang tràng hoa, đã được trang điểm, ở khu ẩn cư xinh xắn, chàng sẽ không còn nhớ đến vương quyền.

87. Khi nhìn các con điểm trang rực rỡ
Và ngắm chúng đem về bao hoa nở
Trong ngôi nhà diễm lệ của đôi ta,
Chàng sẽ không còn nhớ thuở làm vua.

6192. Ime kumāre passanto māladhārī alaṅkate, kīḷante assame ramme na rajjassa sarissasi.

6192. Trong khi nhìn thấy các con có mang tràng hoa, đã được trang điểm, đang chơi đùa ở khu ẩn cư xinh xắn, chàng sẽ không còn nhớ đến vương quyền.

88. Khi nhìn các con chơi đùa rộn rã,
Và ngắm chúng đem về bao hoa lá
Trong ngôi nhà diễm lệ của đôi ta,
Chàng sẽ quên một thuở đã làm vua.

6193. Yadā dakkhisi naccante kumāre māladhārino, assame ramaṇīyamhi na rajjassa sarissasi.

6193. Vào lúc chàng nhìn thấy các con có mang tràng hoa đang nhảy múa ở khu ẩn cư xinh xắn, chàng sẽ không còn nhớ đến vương quyền.89. Khi chàng thấy các con đang nhảy múa,
Và mang về những vòng hoa rực rỡ
Trong ngôi nhà diễm lệ của đôi ta,
Chàng sẽ quên một thuở đã làm vua.

6194. Yadā dakkhisi naccante kumāre māladhārino, kīḷante assame ramme na rajjassa sarissasi.

6194. Vào lúc chàng nhìn thấy các con có mang tràng hoa đang chơi đùa ở khu ẩn cư xinh xắn, chàng sẽ không còn nhớ đến vương quyền.90. Khi chàng ngắm chúng chơi đùa nhảy múa,
Và đem về những vòng hoa rực rỡ
Trong ngôi nhà diễm lệ của đôi ta,
Chàng sẽ quên một thuở đã làm vua.

6195. Yadā dakkhisi mātaṅgaṃ kuñjaraṃ saṭṭhihāyanaṃ, ekaṃ araññe vicarantaṃ na rajjassa sarissasi.

6195. Vào lúc chàng nhìn thấy con long tượng sáu mươi năm tuổi đang đi thơ thẩn một mình ở trong khu rừng, chàng sẽ không còn nhớ đến vương quyền.

91. Ông voi già có tuổi chừng sáu chục
Phiêu bạt lang thang hoàn toàn cô độc,
Trong khu rừng đầy cỏ mọc hoang sơ,
Sẽ khiến chàng quên một thuở làm vua.

6196. Yadā dakkhisi mātaṅgaṃ kuñjaraṃ saṭṭhihāyanaṃ, sāyaṃ pāto vicarantaṃ na rajjassa sarissasi.

6196. Vào lúc chàng nhìn thấy con long tượng sáu mươi năm tuổi đang đi thơ thẩn sáng chiều, chàng sẽ không còn nhớ đến vương quyền.

92. Ông voi già có tuổi chừng sáu chục
Về buổi chiều vẫn lang thang cô độc,
Và ra đi vào buổi sáng tinh mơ,
Sẽ khiến chàng quên một thuở làm vua.

6197. Yadā kaṇerusaṅghassa yūthassa purato vajaṃ, koñcaṃ kāhati mātaṅgo kuñjaro saṭṭhihāyano, tassa taṃ nadato sutvā na rajjassa sarissasi. 

6197. Vào lúc con khổng tượng, con voi sáu mươi năm tuổi, tạo ra tiếng kêu của loài voi trong khi nó đang di chuyển phía trước đàn voi và bầy voi cái, sau khi nghe tiếng rống của con voi ấy đang gầm thét, chàng sẽ không còn nhớ đến vương quyền.

93. Khi chàng ngắm ông voi già trưởng thượng,
Ðem theo cả đàn voi con tùy tướng,
Voi sáu mươi, và nghe tiếng thét to,
Chàng sẽ quên một thuở đã làm vua.

6198. Dubhato vanavikāse yadā dakkhisi kāmadaṃ, vane vāḷamigākiṇṇe na rajjassa sarissasi. 

6198. Chàng là người chu cấp cho thiếp mọi điều ước muốn, vào lúc chàng nhìn thấy các trảng rừng ở hai bên sườn núi trong khu rừng đông đúc các thú dữ, chàng sẽ không còn nhớ đến vương quyền.

94. Khi chàng ngắm bầy thú hoang gầm rống,
Cùng mọi vật mà lòng chàng ước vọng,
Và không gian rộng rãi của rừng thưa,
Chàng sẽ quên một thuở đã làm vua.

6199. Migaṃ disvāna sāyanhaṃ pañcamālikamāgataṃ, kimpurise ca naccante na rajjassa sarissasi.

6199. Sau khi nhìn thấy con nai có năm tràng hoa đi đến vào chiều tối và các nhân điểu đang nhảy múa, chàng sẽ không còn nhớ đến vương quyền.

95. Ðàn hươu nai kéo về lúc chiều tối,
Nhảy nhót múa may từng bầy ếch nhái,
Và nơi nơi nở rộ cả muôn hoa,
Chàng sẽ quên một thuở đã làm vua.

6200. Yadā sossasi nigghosaṃ sandamānāya sindhuyā, gītaṃ kimpurisānañca na rajjassa sarissasi. 

6200. Vào lúc chàng nghe tiếng rì rào của dòng sông Sindhu đang trôi chảy và tiếng hát của các nhân điểu, chàng sẽ không còn nhớ đến vương quyền.

96. Khi chàng nghe suối sông reo ào ạt,
Và biết bao loài thần tiên ca hát,
Tin thiếp đây, chàng sẽ chóng quên là
Có một thời chàng đã được làm vua.

6201. Yadā sossasi nigghosaṃ girigabbharacārino, vassamānassa lūkassa na rajjassa sarissasi.

6201. Vào lúc chàng nghe tiếng hú của loài chim cú sống trong hang núi đang vang lên, chàng sẽ không còn nhớ đến vương quyền.

97. Khi chàng nghe tiếng cú mèo đang hú
Trong hang sâu chốn núi rừng cư trú,
Chắc chắn rằng chàng sẽ chẳng nhớ ra
Có một thời chàng đã được làm vua.

6202. Yadā sīhassa vyagghassa khaggassa gavayassa ca, vane sossasi vāḷānaṃ na rajjassa sarissasi.

6202. Vào lúc chàng nghe tiếng kêu của các loài thú dữ trong khu rừng: của sư tử, của cọp, của tê giác, và của bò rừng, chàng sẽ không còn nhớ đến vương quyền.

98. Loài trâu rừng cùng với loài tê giác,
Làm cho cả khu rừng vang tiếng nhạc,
Loài cọp beo và sư tử gầm gừ
Khiến chàng quên một thuở đã làm vua.

6203. Yadā morīhi parikiṇṇaṃ barihīnaṃ matthakāsinaṃ, moraṃ dakkhisi naccantaṃ na rajjassa sarissasi.

6203. Vào lúc chàng nhìn thấy con chim công trống đứng ở trên đỉnh núi, có chùm lông đuôi xòe ra, đang nhảy múa, được vây quanh bởi các chim công mái, chàng sẽ không còn nhớ đến vương quyền.

99. Khi chàng thấy trên non cao chót vót
Chim công trống múa men và nhảy nhót
Trước cả bầy công mái thật nên thơ,
Chàng sẽ quên một thuở đã làm vua.

6204. Yadā morīhi parikiṇṇaṃ aṇḍajaṃ citra pekkhunaṃ, moraṃ dakkhisi naccantaṃ na rajjassa sarissasi.

6204. Vào lúc chàng nhìn thấy con chim công trống, loài noãn sanh có cánh nhiều màu sắc, đang nhảy múa, được vây quanh bởi các chim công mái, chàng sẽ không còn nhớ đến vương quyền.

100. Nhìn công trống noãn sinh kia nhảy múa,
Xòe đôi cánh đẹp huy hoàng rực rỡ
Trước cả bầy công mái thật nên thơ,
Chàng sẽ quên một thuở đã làm vua.

6205. Yadā morīhi parikiṇṇaṃ nīlagīvaṃ sikhaṇḍinaṃ, moraṃ dakkhisi naccantaṃ na rajjassa sarissasi.

6205. Vào lúc chàng nhìn thấy con chim công trống có cổ màu xanh, có chỏm lông ở đỉnh đầu, đang nhảy múa, được vây quanh bởi các chim công mái, chàng sẽ không còn nhớ đến vương quyền.

101. Chim công trống với cổ màu xanh đỏ
Nhìn công trống vụt lên và nhảy múa
Trước cả bầy công mái thật nên thơ,
Chàng sẽ quên một thuở đã làm vua.

6206. Yadā dakkhisi hemante pupphite dharaṇīruhe, surabhisampavāyante na rajjassa sarissasi.

6206. Vào lúc chàng nhìn thấy các giống cây được trổ hoa vào mùa đông, đang phảng phất hương thơm, chàng sẽ không còn nhớ đến vương quyền.

102. Khi núi rừng ở vào mùa đông giá,
Chàng ngắm nhìn các cây hoa rộ nở,
Các mùi hương ngào ngạt nhẹ nhàng đưa,
Chàng sẽ quên một thuở đã làm vua.

6207. Yadā hemantike māse haritaṃ dakkhisi mediniṃ, indagopakasañchannaṃ na rajjassa sarissasi.

Vào lúc chàng nhìn thấy mặt đất màu xanh đã được che phủ bởi loài cánh kiến vào tháng thuộc mùa đông, chàng sẽ không còn nhớ đến vương quyền.

6208. Yadā dakkhisi hemante pupphite dharaṇīruhe, kuṭajaṃ bimbajālañca pupphitaṃ lomapadmakaṃ, surabhisampavāyante na rajjassa sarissasi.

6208. Vào lúc chàng nhìn thấy các giống cây được trổ hoa vào mùa đông: cây kuṭaja, cây bimbajāla, cây lomapadmaka đã được trổ hoa, đang phảng phất hương thơm, chàng sẽ không còn nhớ đến vương quyền.

103. Khi núi rừng ở vào mùa đông giá
Chàng ngắm nhìn các cây hoa rộ nở,
Hương sen, Bim-ba, Ku-ta thoảng đưa,
Chàng se quên một thuở đã làm vua.

6209. Yadā hemantike māse vanaṃ dakkhisi pupphitaṃ, opupphāni ca padmāni na rajjassa sarissasi.

6209. Vào lúc chàng nhìn thấy khu rừng đã được trổ hoa và các đóa hoa sen đã rụng cánh vào tháng thuộc mùa đông, chàng sẽ không còn nhớ đến vương quyền.”

104. Khi núi rừng ở vào mùa đông giá
Chàng ngắm khu rừng muôn hoa đua nở
Và hoa sen rộ nở ở quanh ta,
Chàng sẽ quên một thuở đã làm vua.Himavantavaṇṇanā.
 Ca Tụng Núi Hy Mã Lạp.

6210. Tesaṃ lālappitaṃ sutvā puttassa suṇisāya ca, karuṇaṃ paridevesi rājaputtī yasassinī. 

6210. Sau khi nghe lời kể lể của họ, của con trai và của con dâu, công chúa Phusatī[1] có danh vọng đã than vãn một cách thương tâm rằng:

[1] Công chúa Phusatī là con gái của đức vua Madda, vợ của đại vương Sañjaya, và là mẹ của Bồ Tát Vessantara (ND).

105. Bà nghe tiếng vương phi và vương tử
Lời hai vị đang hàn huyên tâm sự
Bà bật ra tiếng kêu khóc thảm thương
Thái hậu kia thật vĩ đại vinh quang:

6211. Seyyo visaṃ me khāyitaṃ papātā papateyyahaṃ, rajjuyā bajjha miyyāhaṃ kasmā vessantaraṃ puttaṃ pabbājenti adūsakaṃ. 

6211. “Tốt hơn là ta nên ăn thuốc độc, ta nên lao xuống từ vực thẳm, ta nên dùng dây thừng thắt cổ chết, tại sao mọi người lại trục xuất con trai Vessantara (của ta), là kẻ không tồi bại?

106 -107.- Ta bảo thà ta phải dùng độc dược
Hoặc là ta phải nhào đầu xuống vực,
Hoặc thắt dây thòng lọng ở cổ ta,
Sao thần dân tống xuất Ves-san-ta?

6212. Ajjhāyakaṃ dānapatiṃ yācayogaṃ amacchariṃ, pūjitaṃ patirājehi kittimantaṃ yasassinaṃ, kasmā vessantaraṃ puttaṃ pabbājenti adūsakaṃ. 

6212. Tại sao mọi người lại trục xuất con trai Vessantara (của ta), là kẻ không tồi bại, là người có học thức, là người thí chủ, sẵn sàng đáp ứng lời cầu xin, không có bỏn xẻn, được tôn vinh bởi các vị vua đối nghịch, có tiếng tăm, có danh vọng?

108 -109. Chuyên cần, bố thí và ly tham dục,
Ðược tất cả các địch vương kính phục,
Danh vọng huy hoàng vang dội gần xa,
Sao đuổi con vô tội Ves-san-ta?

6213. Mātāpettibharaṃ jantuṃ kule jeṭṭhāpacāyikaṃ, kasmā vessantaraṃ puttaṃ pabbājenti adūsakaṃ. 

6213. Tại sao mọi người lại trục xuất con trai Vessantara (của ta), là kẻ không tồi bại, là người phụng dưỡng mẹ cha, có sự tôn kính các bậc trưởng thượng ở trong gia tộc?

110. Là điểm tựa của song thân phụ mẫu,
Biết kính trọng bậc đàn anh trưởng lão,
Sao thần dân đuổi Ves-san-ta-ra,
Chính là vương nhi vô tội của ta?

6214. Rañño hitaṃ devahitaṃ ñātīnaṃ sakhinaṃ hitaṃ, hitaṃ sabbassa raṭṭhassa kasmā vessantaraṃ puttaṃ pabbājenti adūsakaṃ. 

6214. Tại sao mọi người lại trục xuất con trai Vessantara (của ta), là kẻ không tồi bại, là người có lợi ích cho đức vua, có lợi ích cho hoàng hậu, có lợi ích cho thân quyến, cho bạn bè, có lợi ích cho toàn bộ đất nước?”

11I-112. Được phụ vương và mẫu hoàng ái mộ
Cùng tất cả đám bà con dòng họ,
Ðược quý yêu bởi tất cả thân bằng,
Cả quê hương cùng tất giang sơn,
Con vô tội, sao chúng đòi tống xuất?

6215. Madhūnīva palātāni ambāva patitā chamā, evaṃ hessati te raṭṭhaṃ pabbājenti adūsakaṃ.

(Lời trao đổi giữa mẫu hậu Phusatī và đại vương Sañjaya)

6215. “Giống như các tổ ong đã bị bỏ đi, giống như những trái xoài đã bị rơi xuống ở mặt đất, đất nước của bệ hạ sẽ trở nên như vậy khi mọi người trục xuất kẻ không tồi bại.

113. Giống như đám xoài kia rơi xuống đất,
Như bạc tiền đã phung phí tiêu tan,
Vương quốc ngài cũng sụp đổ điêu tàn,
Người vô tội nếu bị dân đầy ải.

6216. Haṃso nikkhiṇapattova pallalasmiṃ anūdake, apaviddho amaccehi eko rāja vihīyasi.

6216. Giống như chim thiên nga có cánh bị gãy ở đầm lầy không còn nước, tâu bệ hạ, bị xa lánh bởi các quan đại thần, còn một mình, ngài sẽ khó nhọc.

114. Rồi giống như chim thiên nga cánh gãy
Khi các nguồn suối nước cạn khô dần,
Bị bỏ rơi bởi tất cả quần thần,
Ngài sẽ sống trong khổ đau cô độc.

6217. Taṃ taṃ brūmi mahārāja attho te mā upaccagā, mā taṃ sivīnaṃ vacanā pabbājesi adūsakaṃ.

6217. Tâu đại vương, thiếp nói với ngài điều ấy. Chớ để vuột mất lợi ích của ngài. Ngài chớ vì lời nói của các người dân xứ Sivi mà trục xuất người con trai ấy, là kẻ không tồi bại.”

115. Tâu Ðại Vương, thiếp trình ngài chân thật:
Ðừng để nguồn phúc lộc Ðại vương tàn,
Ðừng đuổi con vô tội bởi dân than.

6218. Dhammassāpacitiṃ kummi sivīnaṃ vinayaṃ dhajaṃ, pabbājemi sakaṃ puttaṃ pāṇā piyataro hi me.

6218. “Trẫm thực hiện sự kính trọng đối với luật pháp, trong khi xua đuổi Vessantara, ngọn cờ của các người dân xứ Sivi. Trẫm trục xuất người con trai của mình, bởi vì luật pháp được trẫm yêu quý hơn cả mạng sống.”

116. Biểu tượng của toàn dân, vương tử đó,
Nếu ta truyền lưu đày nơi gian khổ,
Là ta tuân phận sự của hoàng gia,
Còn thiết thân hơn cả chính đời ta.

6219. Yassa pubbe dhajaggāni kaṇikārāva pupphitā, yāyantamanuyāyanti svājjekova gamissati.

6219. “Là người, trước đây, trong lúc đi thì có các ngọn cờ–tựa như những cây kaṇikāra đã được trổ hoa–đi theo cùng, vị ấy, hôm nay, sẽ ra đi chỉ một mình.

117. Xưa biết bao đoàn quân hầu hộ tống
Với cờ xí huy hoàng bay lồng lộng,

6220. Yassa pubbe dhajaggāni kaṇikāravanāniva, yāyantamanuyāyanti svājjekova gamissati.

6220. Là người, trước đây, trong lúc đi thì có các ngọn cờ–tựa như khu rừng cây kaṇikāra–đi theo cùng, vị ấy, hôm nay, sẽ ra đi chỉ một mình.Như rừng cây nở rộ với muôn hoa,
Nay vương nhi đành đơn độc đi xa.

6221. Yassa pubbe aṇīkāni kaṇikārāva pupphitā, yāyantamanuyāyanti svājjekova gamissati.

6221. Là người, trước đây, trong lúc đi thì có các toán binh sĩ–tựa như những cây kaṇikāra đã được trổ hoa–đi theo cùng, vị ấy, hôm nay, sẽ ra đi chỉ một mình.

6222. Yassa pubbe aṇīkāni kaṇikāravanāniva, yāyantamanuyāyanti svājjekova gamissati. 

6222. Là người, trước đây, trong lúc đi thì có các toán binh sĩ–tựa như khu rừng cây kaṇikāra–đi theo cùng, vị ấy, hôm nay, sẽ ra đi chỉ một mình.

6223. Indagopakavaṇṇābhā gandhārā paṇḍukambalā, yāyantamanuyāyanti svājjekova gamissati. 

6223. Là người, trước đây, trong lúc đi thì có các toán binh sĩ–khoác tấm len màu vàng cam của xứ Gandhāra lấp lánh màu cánh kiến–đi theo cùng, vị ấy, hôm nay, sẽ ra đi chỉ một mình.

118. Các hoàng giáp Gan-dhà-ra rực rỡ
Khoác quanh con sáng ngời ngày xưa đó,
Hay bừng lên đỏ sẫm lúc con đi,
Hôm nay cô độc cất bước vương nhi.

6224. Yo pubbe hatthinā yāti sivikāya rathena ca, svājja vessantaro rājā kathaṃ gacchati pattiko. 

6224. Là người, trước đây, di chuyển bằng voi, bằng kiệu khiêng, và bằng cỗ xe, vị vua Vessantara ấy, hôm nay, làm thế nào (có thể) đi bộ?119. Xưa con ngự vương xa, voi, hay kiệu,
Nay vua Ves-san-ta đi thất thểu.

6225. Kathaṃ candanalittaṅgo naccagītappabodhano, kharājinaṃ pharasuñca khārikājañca hāhiti.

Người có thân thể được thoa trầm hương, có sự thức giấc bằng điệu vũ và lời ca, thì sẽ mặc y da dê thô cứng, cầm rìu, và mang cái giỏ có gậy chống như thế nào?

120. Ngày xưa con được tẩm ngát trầm hương,
Ðược đánh thức bằng vũ khúc, ca xang,
Nay làm sao khoác tấm da thô nhám,
Mang bình nước, chiếc rìu trên đường vắng?

6226. Kasmā nābhiharīyanti kāsāvā ajināni vā, pavisantaṃ brahāraññaṃ kasmā cīraṃ na bajjhare. 

6226. Tại sao các y ca-sa hay các y da dê không được mang lại? Tại sao họ không buộc y vỏ cây cho người đi vào khu rừng rộng lớn?

121. Sao chúng không dâng những chiếc hoàng bào,
Không có da hươu quý bởi vì sao?
Khoác vỏ cây, con bước vào rừng rậm,

6227. Kathannu cīraṃ dhārenti rājapabbajitā janā, kathaṃ kusamayaṃ cīraṃ maddī paridahessati. 

6227. Vậy những người xuất gia dòng dõi vua chúa mặc y vỏ cây như thế nào? Con dâu Maddī sẽ khoác y vỏ cây làm bằng cỏ kusa như thế nào?122. Vua bị đuổi, vỏ cây làm sao quấn?
Rồi làm sao nàng công chúa Mad-dì
Khoác vỏ cây và cỏ lá rừng kia?

6228. Kāsiyāni ca dhāretvā khomakodumbarāni ca, kusacīrāni dhārentī kathaṃ maddī karissati.

6228. Sau khi đã mặc các loại tơ lụa xứ Kāsi và các loại vải xứ Khoma và Kodumbara, con dâu Maddī sẽ làm thế nào trong khi mặc các y vỏ cây làm bằng cỏkusa?

123. Xưa thường mặc lụa tơ Ba-la-nại,
Gấm Ko-dum-ba-ra đầy êm ái,
Nay làm sao khoác lá vỏ cây kia?

6229. Vayhāhi pariyāyitvā sivikāya rathena ca, sā kathajja anuccaṅgī pathaṃ gacchati pattikā. 

6229. Sau khi đã di chuyển bằng các phương tiện di chuyển, bằng kiệu khiêng và bằng cỗ xe, hôm nay, cô nàng có cơ thể không bị chê bai ấy làm thế nào đi bộ ở con đường?

124. Xưa tới lui, nàng ngồi kiệu hay xe,
Nàng công chúa yêu kiều và khả ái,
Nay làm sao bước chân nàng đi nổi?

6230. Yassā mudutalā hatthā caraṇā ca sukhedhitā, sā kathajja anuccaṅgī vanaṃ gacchati bhīrukā. 

Là cô gái có lòng bàn tay mềm mại, có hạnh kiểm, được nuôi dưỡng sung sướng, hôm nay, cô nàng nhút nhát, có cơ thể không bị chê bai ấy, làm thế nào đi đến khu rừng?

125. Nàng có đôi chân yếu với tay mềm,
Ðứng bình yên trong hạnh phúc êm đềm,
Nay làm sao nàng công nương mỹ lệ
Bước run run vào khu rừng hoang phế?

6231. Yassā mudutalā pādā caraṇā ca sukhedhitā, pādukāhi suvaṇṇāhi pīḷamānāva gacchati, sā kathajja anuccaṅgī pathaṃ gacchati pattikā.

Là cô gái có lòng bàn chân mềm mại, có hạnh kiểm, được nuôi dưỡng sung sướng, nàng di chuyển, tựa như đang bị chèn ép bởi đôi giày bằng vàng, hôm nay, cô nàng có cơ thể không bị chê bai ấy làm thế nào đi bộ ở con đường?

126 -127. Nàng có đôi chân yếu với tay mềm,
Nàng sống xưa trong hạnh phúc êm đềm,
Loại hài xưa nàng mang êm dịu nhất
Vẫn làm đau đôi chân nàng gót ngọc,
Nay làm sao nàng cất bước chân đi?

6232. Yāssu itthī sahassassa purato gacchati mālinī, sā kathajja anuccaṅgī vanaṃ gacchati ekikā. 

6232. Là cô gái có đeo tràng hoa đi phía trước một ngàn phụ nữ, hôm nay, cô nàng có cơ thể không bị chê bai ấy, làm thế nào đi đến khu rừng chỉ một mình?

128. Ngày xưa kia ở giữa ngàn nữ nhi
Nàng cất bước vòng hoa đeo lủng lẳng,
Nay làm sao giữa khu rừng hoang vắng
Nàng diễm kiều đơn độc bước chân lê?

6233. Yāssu sivāya sutvāna muhuṃ uttasate pure, sā kathajja anuccaṅgī vanaṃ gacchati bhīrukā. 

6233. Là cô gái trước đây ở trong thành phố, lập tức bị khiếp sợ sau khi nghe tiếng hú của loài sói cái; hôm nay, cô nàng nhút nhát, có cơ thể không bị chê bai ấy, làm thế nào đi đến khu rừng?129. Xưa, nếu loài sơn cẩu hú, nàng nghe
Nàng thường thấy trong lòng đầy lo lắng,
Nàng rụt rè nay sao đi rừng vắng?

6234. Yāssu indassa gottassa uḷūkassa pavassato, sutvāna nadato bhītā vāruṇīva pavedhati, sā kathajja anuccaṅgī vanaṃ gacchati bhīrukā. 

6234. Là cô gái thuộc dòng dõi vua chúa, bị kinh sợ, run lẩy bẩy, tựa như bà đồng bóng sau khi nghe tiếng chim cú đang kêu gào; hôm nay, cô nàng nhút nhát, có cơ thể không bị chê bai ấy, làm thế nào đi đến khu rừng?

130 -131. Nàng rùng mình lo sợ tiếng thiên xa,
Hoặc run run như kẻ thấy tà ma
Khi nghe tiếng cú kêu gào văng vẳng
Mỹ nữ rụt rè sao đi rừng rậm?

6235. Sakuṇī hataputtāva suññaṃ disvā kulāvakaṃ, ciraṃ dukkhena jhāyissaṃ suññaṃ āgammimaṃ puraṃ. 

6235. Tựa như chim mẹ có chim con bị giết chết, đau khổ khi nhìn thấy cái tổ trống không, ta sẽ buồn bực lâu dài vì khổ đau khi nhìn thấy thành phố này trống không.

132. Giống như chim nhìn thấy tổ trống trơn
Tất cả đều bị giết, lũ chim non,
Khi thiếp nhìn thấy nơi này trống vắng,
Lòng thiêu đốt trong khổ đau đằng đẳng.

6236. Sakuṇī hataputtāva suññaṃ disvā kulāvakaṃ, kisā paṇḍu bhavissāmi piye putte apassatī.

6236. Tựa như chim mẹ có chim con bị giết chết, đau khổ khi nhìn thấy cái tổ trống không, ta sẽ trở nên ốm o, vàng vọt, trong khi không nhìn thấy các con yêu dấu.

133. Giống như chim nhìn thấy tổ trống trơn
Tất cả đều bị giết, lũ chim non,
Thiếp gầy mòn, võ vàng khi nhìn thấy
Con dấu yêu chẳng bao giờ trở lại.

6237. Sakuṇī hataputtāva suññaṃ disvā kulāvakaṃ, tena tena padhāvissaṃ piye putte apassatī.

6237. Tựa như chim mẹ có chim con bị giết chết, đau khổ khi nhìn thấy cái tổ trống không, ta sẽ chạy đến nơi này nơi khác trong khi không nhìn thấy các con yêu dấu.

134. Giống như chim nhìn thấy tổ trống trơn
Tất cả đều bị giết, lũ chim non,
Thiếp sẽ phát điên cuồng và ngây dại
Thấy con yêu không bao giờ trở lại.

238. Kurarī hatachāpāva suññaṃ disvā kulāvakaṃ, ciraṃ dukkhena jhāyissaṃ suññaṃ āgammimaṃ puraṃ.

238. Tựa như chim ó biển mẹ có chim con bị giết chết, đau khổ khi nhìn thấy cái tổ trống không, ta sẽ buồn bực lâu dài vì khổ đau khi nhìn thấy thành phố này trống không.

135. Như diều hâu nhìn thấy tổ trống trơn
Tất cả đều bị giết, bầy chim non
Khi thiếp nhìn thấy nơi này trống vắng
Thiếp sẽ sống trong khổ đau đằng đẵng.

6239. Kurarī hatachāpāva suññaṃ disvā kulāvakaṃ, kisā paṇḍu bhavissāmi piye putte apassatī.

6239. Tựa như chim ó biển mẹ có chim con bị giết chết, đau khổ khi nhìn thấy cái tổ trống không, ta sẽ trở nên ốm o, vàng vọt, trong khi không nhìn thấy các con yêu dấu.

136. Như diều hâu nhìn thấy tổ trống trơn
Tất cả đều bị giết, lũ chim non,
Thiếp yếu gầy, võ vàng khi nhìn thấy
Con dấu yêu nhất đời không trở lại.

6240. Kurarī hatachāpāva suññaṃ disvā kulāvakaṃ, tena tena padhāvissaṃ piye putte apassatī.

6240. Tựa như chim ó biển mẹ có chim con bị giết chết, đau khổ khi nhìn thấy cái tổ trống không, ta sẽ chạy đến nơi này nơi khác trong khi không nhìn thấy các con yêu dấu.

137. Như diều hâu nhìn thấy tổ trống trơn
Tất cả đều bị giết, lũ chim non,
Thiếp sẽ phát điên cuồng và ngây dại
Thấy con yêu chẳng bao giờ trở lại.

6241. Sā nūna cakkavākīva pallalasmiṃ anūdake, ciraṃ dukkhena jhāyissaṃ suññaṃ āgammiṃ puraṃ.

6241. Thật vậy, tựa như con ngỗng đỏ ấy tại cái hồ nhỏ không còn nước, ta sẽ buồn bực lâu dài vì khổ đau khi nhìn thấy thành phố này trống không.

138. Như bầy hồng nga nọ đứng bên hồ,
Làn nước kia nay biến mất, cạn khô,
Thiếp sẽ sống trong khổ đau dằng dặc,
Không còn thấy đứa con yêu quý nhất.

6242. Sā nūna cakkavākīva pallalasmiṃ anūdake, kisā paṇḍu bhavissāmi piye putte apassatī.

6242. Thật vậy, tựa như con ngỗng đỏ ấy tại cái hồ nhỏ không còn nước, ta sẽ trở nên ốm o, vàng vọt, trong khi không nhìn thấy các con yêu dấu.

139. Như bầy hồng nga nọ đứng bên hồ,
Làn nước kia nay biến mất, cạn khô,
Thiếp sẽ gầy mòn, võ vàng héo hắt,
Không còn thấy đứa con yêu quý nhất.

6243. Sā nūna cakkavākīva pallalasmiṃ anūdake, tena tena padhāvissaṃ piye putte apassatī.

6243. Thật vậy, tựa như con ngỗng đỏ ấy tại cái hồ nhỏ không còn nước, ta sẽ chạy đến nơi này nơi khác trong khi không nhìn thấy các con yêu dấu.

140. Như bầy hồng nga nọ đứng bên hồ,
Làn nước kia nay biến mất, cạn khô,
Thiếp sẽ hóa dại cuồng khi thấy mất
Ðứa con trai mà thiếp yêu thương nhất.

6244. Evaṃ ce me vilapantiyā rājaputtaṃ adūsakaṃ, pabbājesi vanaṃ raṭṭhā maññe hessāmi jīvitaṃ. 

6244. Trong khi thiếp than vãn như vậy, nếu bệ hạ trục xuất thái tử, là kẻ không tồi bại, vào rừng, ra khỏi đất nước, thiếp nghĩ rằng thiếp sẽ buông bỏ mạng sống.”

141. Và nếu Ðại vương đành tống xuất đi
Khỏi quê hương, dù vô tội, vương nhi,
Mặc dù thiếp đang khổ đau than thở
Cuộc đời thiếp e rằng đành từ bỏ.

6245. Tassā lālappitaṃ sutvā sabbā antepure bahū, bāhā paggayha pakkanduṃ sivikaññā samāgatā. 

6245. Sau khi nghe lời kể lể của mẫu hậu Phusatī, nhiều phi tần của đức vua xứ Sivi ở nội cung đã tụ hội lại; tất cả đã giơ hai cánh tay lên, khóc lóc.

142. Nghe mẫu hoàng than khóc thật đau thương,
Tất cả cùng nhau thẳng tiến vội vàng,
Các cung phi dang đôi tay trước mặt
Ðể cùng bà tiếp nối lời than khóc.

6246. Sālāva sampamathitā mālutena pamadditā, senti puttā ca dārā ca vessantaranivesane. 

6246. Những người con và những người vợ nằm dài ở nơi trú ngụ của vị Vessantara, tựa như những cây sāla bị nghiền nát, bị đè bẹp bởi cơn gió.

143. Và ở trong cung điện của ông hoàng
Tất cả đều nằm la liệt ngổn ngang,
Ðàn bà trẻ con nằm như cây cỏ
Bị ngã dài trên đất liền tại chỗ.

6247. Orodhā ca kumārā ca vesiyānā ca brāhmaṇā, bāhā paggayha pakkanduṃ vessantaranivesane.

6247. Các công nương, các hoàng tử, các thương nhân, và các vị Bà-la-môn đã giơ các cánh tay lên rồi bật khóc ở nơi trú ngụ của vị Vessantara.

6248. Hatthārūhā anīkaṭṭhā rathikā pattikārakā, bāhā paggayha pakkanduṃ vessantaranivesane.

6248. Các viên quản tượng, các ngự lâm quân, các xa binh, và các bộ binh đã giơ các cánh tay lên rồi bật khóc ở nơi trú ngụ của vị Vessantara.

6249. Tato ratyā vivasane suriyassuggamanaṃ pati, atha vessantaro rājā dānaṃ dātuṃ upāgami.

6249. Kế đó, vào lúc tàn đêm, khi việc mọc lên của mặt trời đã đến, khi ấy, đức vua Vessantara đã đi đến để ban phát vật thí, (nói rằng):

144. Và đến khi đêm ấy đã gần tàn
Rạng ngày sau vừa lúc mặt trời quang,
Khi ấy Ves-san-ta-ra Chúa tể
Bắt đầu Lễ đại cúng dường bố thí.

6250. Vatthāni vatthakāmānaṃ soṇḍānaṃ detha vāruṇiṃ. bhojanaṃ bhojanatthīnaṃ sammā detha pavecchatha.

6250. “Các khanh hãy bố thí các tấm vải đến những người mong muốn vải, chất cồn đến những kẻ say sưa, thức ăn đến những người cần thức ăn, hãy bố thí, hãy ban phát một cách trân trọng.

145. Ðem thức ăn cho những kẻ đói cơm,
Ðem rượu nồng cho những bọn túy ông,
Ðem y phục cho người cần y phục,
Cho mỗi người tùy theo lòng mong ước.

6251. Mā ca kañci vaṇibbake heṭhayittha idhāgate, tappetha annapānena gacchantu paṭipūjitā.

6251. Và chớ gây khó khăn đến bất cứ ai trong số các người nghèo khổ đã đi đến nơi này. Hãy thỏa mãn họ với cơm ăn và nước uống. Hãy để họ ra đi với lòng ngưỡng mộ.”

146. Ðừng để người xin thất vọng trở về,
Hãy tỏ bày lòng kính trọng tràn trề,
Đừng để thiếu thức uống ăn tùy thích.

6252. Tesu mattā kiḷantāva sampatanti vaṇibbakā, nikkhamante mahārāje sivīnaṃ raṭṭhavaḍḍhane.

6252. Khi vị vua vĩ đại, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, đang rời khỏi, những người nghèo khổ ấy nhảy nhót, tựa như những kẻ say sưa đang đùa giỡn.

147. Vì thế quần chúng tựu tề chật ních
Và nhanh chân nhảy múa với nô đùa,
Khi Si-vi Chúa tể chính là vua
Nuôi quốc độ đang sẵn sàng biệt xứ.

6253. Acchecchuṃ vata bho rukkhaṃ sabbakāmadadaṃ dumaṃ, yathā vessantaraṃ raṭṭhā pabbājenti adūsakaṃ.

6253. Với việc họ trục xuất Vessantara, không phải là kẻ tồi bại, ra khỏi đất nước, họ quả thật đã đốn ngã thân cây quý, loại cây ban cho mọi điều ước muốn.

148. Chúng đã đốn nhào một cây đại thụ
Ðứng vươn cao đầy quả chín trên cành,
Khi quần chúng đuổi ra khỏi đất lành
Vua vô tội Ves-san-ta-ra ấy,

6254. Acchecchuṃ vata bho rukkhaṃ nānāphaladharaṃ dumaṃ, yathā vessantaraṃ raṭṭhā pabbājenti adūsakaṃ.

6254. Với việc họ trục xuất Vessantara, không phải là kẻ tồi bại, ra khỏi đất nước, họ quả thật đã đốn ngã thân cây quý, loại cây đang mang các trái khác nhau.

149. Cây ban ước nguyện chúng đành đốn gãy
Với bao điều ân huệ sẵn trong tay
Ves-san-ta-ra vô tội thế này,
Quần chúng tống xuất ngài ra khỏi nước

6255. Acchecchuṃ vata bho rukkhaṃ sabbakāmarasāharaṃ, yathā vessantaraṃ raṭṭhā pabbājenti adūsakaṃ.

6255. Với việc họ trục xuất Vessantara, không phải là kẻ tồi bại, ra khỏi đất nước, họ quả thật đã đốn ngã thân cây quý, loại cây có khả năng mang lại hương vị của tất cả các dục.

150. Chúng đã đốn cây thần ban điều ước
Với tối cao ân huệ sẵn trong tay,
Ves-san-ta-ra vô tội thế này
Chúng đã tống xuất ngài đi biệt xứ.

6256. Ye vuddhā ye ca daharā ye ca majjhimaporisā, bāhā paggayha pakkanduṃ, nikkhamante mahārāje sivīnaṃ raṭṭhavaḍḍhane. 

6256. Những người lớn tuổi, những người trẻ tuổi, và những người trung niên đã giơ các cánh tay lên rồi bật khóc, khi vị vua vĩ đại, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, đang rời khỏi.

151-152. Quần chúng trẻ già, mọi người đủ cỡ
Ðều khóc than và gào thét suốt ngày
Ðồng giơ cao lên tất cả cánh tay,
Khi chúa tể sẵn sàng đi biệt xứ,
Vị vua đã nuôi Si-vi quốc độ.

6257. Atiyakkhā vassavarā itthāgārañca rājino, bāhā paggayha pakkanduṃ, nikkhamante mahārāje sivīnaṃ raṭṭhavaḍḍhane. 

6257. Các nhà chiêm tinh, các hoạn quan, và các cung tần của đức vua đã giơ các cánh tay lên rồi bật khóc, khi vị vua vĩ đại, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, đang rời khỏi.

153-154. Bà cốt, hoạn quan, cung nữ khóc thương
Và thét gào suốt cả một ngày trường
Ðồng giơ các cánh tay ra phía trước,
Khi Ðại vương sẵn sàng rời đất nước,
Ngài đã nuôi dưỡng quốc độ Si-vi.

6258. Thiyopi tattha pakkanduṃ yā tamhi nagare ahu, nikkhamante mahārāje sivīnaṃ raṭṭhavaḍḍhane.

6258. Ngay cả các phụ nữ ở tại thành phố ấy cũng đã bật khóc tại nơi ấy, khi vị vua vĩ đại, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, đang rời khỏi.155. Trong kinh thành tất cả bọn nữ nhi
Ðồng than khóc và thét gào hôm ấy,
Khi vị vua nước Si-vi vĩ đại
Bảo dưỡng dân sắp sửa bước lưu đày.

6259. Ye brāhmaṇā ye ca samaṇā aññe vāpi vaṇibbakā, bāhā paggayha pakkanduṃ adhammo kira bho iti.

6259. Các vị Bà-la-môn và các vị Sa-môn, hay là những người nghèo khác cũng đã giơ các cánh tay lên rồi bật khóc: “Quả thật không công bằng!”

156. Bà-la-môn, khổ hạnh giả xưa nay
Cùng tất cả những ai cần khất thực,
Ðều giơ cao các cánh tay trước mặt
Và thét to: "Thật hành động bạo tàn!"

6260. Yathā vessantaro rājā yajamāno sake pure, sivīnaṃ vacanatthena samhā raṭṭhā nirajjati.

6260. Giống như đức vua Vessantara, trong khi cống hiến cho thành phố của mình, vì nguyên nhân lời nói của những người dân xứ Sivi mà bị lìa khỏi đất nước của mình.

157. Trong khi vua đem phước lộc phát ban
Cho tất cả toàn kinh thành thừa hưởng,
Và nay bị chính thần dân kết án
Ngài đã đành cất bước chốn lưu vong.

6261. Satta hatthisate datvā sabbālaṅkārabhūsite, suvaṇṇakacche mātaṅge hemakappanavāsase.

6261, 6262. Sau khi bố thí bảy trăm con voi đã được tô điểm với mọi thứ trang sức, có dây đai bằng vàng, là những con khổng tượng có trang phục là yên cương bằng vàng, được cỡi lên bởi các viên quản tượng có cây thương móc câu ở bàn tay, đức vua Vessantara ấy bị lìa khỏi đất nước của mình.

I58. Bảy trăm con voi ngài đã tặng không
Với tất cả vẻ huy hoàng tô điểm:
Với dây đai bằng vàng ròng kiều diễm,
Với khăn vàng được phủ kín sáng ngời.

6262. Ārūḷhe gāmaṇīyehi tomaraṅkusapāṇihi, esa vessantaro rājā samhā raṭṭhā nirajjati.

159. Mỗi con voi đều chở một chú nài
Với dáo móc cầm trong tay hộ vệ,
Nay nhìn Ves-san-ta-ra Chúa tể
Bị đày đi khỏi đất nước lưu vong.

6263. Satta assasate datvā sabbālaṅkārabhūsite, ājānīye ca jātiyā sindhave sīghavāhane.

6263, 6264. Sau khi bố thí bảy trăm con ngựa đã được tô điểm với mọi thứ trang sức, và những con ngựa Sindhu thuần chủng về dòng dõi, có sức chuyển vận mau lẹ, được cỡi lên bởi các kỵ mã có mang gươm và cung, đức vua Vessantara ấy bị lìa khỏi đất nước của mình.

160. Bảy trăm con ngựa ngài cũng phát không,
Ðược tô điểm với yên cương láng bóng,
Các ngựa Sindh, ngựa rặc nòi thuần chủng,
Tất cả đều phi vùn vụt đôi chân.

6264. Ārūḷhe gāmaṇīyehi illiyācāpadhārihi, esa vessantaro rājā samhā raṭṭhā nirajjati.

161. Mỗi ngựa đều được cỡi một tên quân
Với cung kiếm trong tay đầy bạo dạn,
Nay nhìn Ves-san-ta-ra Chúa thượng
Bị đày đi khỏi đất nước quê hương.

6265. Satta rathasate datvā sannaddhe ussitaddhaje, dīpe athopi veyyaghge sabbālaṅkārabhūsite.

6265, 6266. Sau khi bố thí bảy trăm cỗ xe đã được trang bị, có lá cờ đã được giương lên, được trải các tấm thảm da báo, da cọp, đã được tô điểm với mọi thứ trang sức, được cỡi lên bởi các xa phu mặc áo giáp, có cây cung ở tay, đức vua Vessantara ấy bị lìa khỏi đất nước của mình.

162. Bảy trăm xe ngựa đầy đủ yên cương
Với cờ xí rợp tung bay theo gió,
Da hổ, báo, cảnh huy hoàng rực rỡ,

6266. Ārūḷhe gāmaṇīyehi cāpahatthehi vammihi, esa vessantaro rājā samhā raṭṭhā nirajjati.

163. Mỗi xe đều được cỡi một quản xa
Mang giáp bào, cầm cung nỏ sáng lòa,
Nay nhìn Ves-san-ta-ra Chúa tể
Bị đi đày khỏi quê hương như thế.

6267. Satta itthisate datvā ekamekā rathe ṭhitā, sannaddhā nikkharajjūhi suvaṇṇena alaṅkatā.

6267, 6268. Sau khi bố thí bảy trăm nữ nhân, đã được nai nịt với các thắt lưng bằng chỉ vàng, đã được trang điểm bằng vàng, có đồ trang sức màu vàng, có y phục màu vàng, đã được tô điểm với các nữ trang màu vàng, có lông mi dài, có nụ cười xã giao, vô cùng giỏi giang, có vòng eo thon, mỗi cô đứng ở một cỗ xe, đức vua Vessantara ấy bị lìa khỏi đất nước của mình.

164. Bảy trăm nữ nhi ngài cũng phát ban,
Trên mỗi cỗ xe đều đứng một nàng
Với chuỗi vàng và kim hoàn tô điểm,
Các nữ nhi này thật là kiều diễm.

6268. Pītālaṅkārā pītavasanā pitābharaṇabhūsitā, āḷārapakhumā hasulā susaññā tanumajjhimā, esa vessantaro rājā samhā raṭṭhā nirajjati.

165- 166. Với nữ trang và y phục xinh xinh
Với eo lưng nhỏ bé và thanh thanh,
Ðôi mày cong và nụ cười tươi sáng,
Với đôi mông tròn gợi tình duyên dáng,
Nay hãy nhìn Chúa thượng Ves-san-ta
Bị đày đi khỏi đất nước quê nhà!

6269. Satta dhenusate datvā sabbā kaṃsupadhāraṇā, esa vessantaro rājā samhā raṭṭhā nirajjati. 

6269. Sau khi bố thí bảy trăm bò cái, tất cả đều có các xô đựng sữa làm bằng bạc, đức vua Vessantara ấy bị lìa khỏi đất nước của mình.

167. Bảy trăm bò ngài cũng đem phân phát,
Với mỗi thùng đựng sữa đều bằng bạc,
Nay hãy nhìn Chúa thượng Ves-san-ta
Bị đày đi khỏi đất nước quê nhà!

6270. Satta dāsīsate datvā satta dāsasatāni ca, esa vessantaro rājā samhā raṭṭhā nirajjati. 

6270. Sau khi bố thí bảy trăm tớ gái và bảy trăm tôi trai, đức vua Vessantara ấy bị lìa khỏi đất nước của mình.168. Bảy trăm nữ tỳ ngài đem cho hết
Khi đám mày râu kêu vang tha thiết,
Nay hãy nhìn Chúa thượng Ves-san-ta
Bị đày đi khỏi đất nước quê nhà!

6271. Hatthī asse rathe datvā nāriyo ca alaṅkatā, esa vessantaro rājā samhā raṭṭhā nirajjati. 

6271. Sau khi bố thí các con voi, các con ngựa, các cỗ xe, và các nữ nhân đã được trang điểm, đức vua Vessantara ấy bị lìa khỏi đất nước của mình.

169. Ngài ban ngựa voi, cỗ xe, nô lệ,
Sau mọi việc kia xảy ra, tuy thế,
Nay hãy nhìn Chúa thượng Ves-san-ta
Bị đày đi khỏi đất nước quê nhà!

6272. Tadāsi yaṃ bhiṃsanakaṃ tadāsi lomahaṃsanaṃ, mahādāne padinnamhi medinī samakampatha.

 6272. Lúc bấy giờ, việc ấy đã là sự kinh hoàng. Lúc bấy giờ, việc ấy đã có sự dựng đứng lông. Vào lúc cuộc đại thí được ban phát, trái đất đã rúng động.170. Việc kia quả thật vô cùng kinh khủng,
Ðã khiến cho lông tóc ta dựng đứng,

6273. Tadāsi yaṃ bhiṃsanakaṃ tadāsi lomahaṃsanaṃ, yaṃ pañjalikato rājā samhā raṭṭhā nirajjati.

6273. Lúc bấy giờ, việc ấy đã là sự kinh hoàng. Lúc bấy giờ, việc ấy đã có sự dựng đứng lông, là việc đức vua Vessantara, hai tay chắp lại, bị lìa khỏi đất nước của mình.Khi giờ đây Chúa thượng Ves-san-ta
Bị đày đi khỏi đất nước quê nhà!

6274. Athettha vattatī saddo tumulo bheravo mahā, dānena taṃ nīharanti puna dānaṃ adā tuvaṃ.

6274. Rồi ở nơi ấy đã xảy ra âm thanh ồn ào, khiếp đảm, vang dội. Họ tiễn đưa vị ấy bằng vật thí. Vị ấy đã ban phát vật thí thêm nữa.

6275. Tesu mattā kilantā ca sampatanti vaṇibbakā, nikkhamante mahārāje sivīnaṃ raṭṭhavaḍḍhane.

6275. Khi vị vua vĩ đại, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, đang rời khỏi, những người nghèo khổ ấy nhảy nhót, say sưa và đang đùa giỡn.

6276. Āmantayittha rājānaṃ sañjayaṃ dhamminaṃ varaṃ, avaruddhasi maṃ deva vaṅkaṃ gacchāmi pabbataṃ.

6276. Vị Vessantara đã thưa gởi với đức vua Sañjaya, bậc cao quý trong số các vị vua công chính, rằng: “Tâu phụ vương, phụ vương đã ép buộc con. Con sẽ đi đến núi Vaṅka.

171. Xin tạ từ Minh chúa Sañ-jà ya,
Và xin trình để phụ vương biết rõ:
- Con sẽ ra đi đến đồi Vạn-cổ
Vì giờ đây cha phán lệnh lưu đày.

6277. Ye hi keci mahārāja bhūtā ye ca bhavissare, atittā yeva kāmehi gacchanti yamasādhanaṃ.

6277. Tâu đại vương, bất cứ những người nào đã hiện hữu và sẽ được sanh ra mà không thỏa mãn với các dục thì sẽ đi đến lãnh địa của Diêm Vương.

172. Tấu Anh quân, thời sắp đến sau này
Sẽ biết rõ những ai đầy tham dục
Không biết thỏa, sẽ đi vào địa ngục.

6278. Sohaṃ sake abhisasiṃ yajamāno sake pure, sivīnaṃ vacanatthena samhā raṭṭhā nirajjahaṃ.

6278. Con đây đã áp bức cư dân của mình trong khi cống hiến cho thành phố của mình. Vì nguyên nhân lời nói của những người dân xứ Sivi mà con bị lìa khỏi đất nước của mình.

173. Vì con làm nên tội với thần dân,
Ðã phát ban hào phóng với tay con,
Nên con đã bị toàn dân xét xử,
Con phải chịu đi đày ra khỏi xứ.

6279. Aghaṃ taṃ patisevissaṃ vane vāḷamigākiṇṇe, khaggadīpinisevite ahaṃ puññāni karomi, tumhe paṅkamhi sīdatha.

6279. Con sẽ làm quen với sự khổ sở ấy ở khu rừng đông đúc các thú dữ, được lai vãng bởi loài tê giác và loài báo, con vẫn làm các việc phước thiện, còn cha đắm chìm trong bãi lầy (ngũ dục).

174. Con sẽ đền tội lỗi ấy bây giờ
Trong khu rừng loài hổ báo du cư.
Nếu cha muốn lội bùn nhơ ác dục,
Tuy thế, con vẫn muốn làm công đức.

6280. Anujānāhi maṃ amma pabbajjā mama ruccati, sohaṃ sake abhisasiṃ yajamāno sake pure, sivīnaṃ vacanatthena samhā raṭṭhā nirajjahaṃ.

6280. Thưa mẹ, xin mẹ hãy cho phép con. Việc xuất gia được con ưa thích. Con đây đã áp bức cư dân của mình trong khi cống hiến cho thành phố của mình. Vì nguyên nhân lời nói của những người dân xứ Sivi mà con bị lìa khỏi đất nước của mình.

175- 176. Thưa mẹ hiền, con xin phép giã từ,
Con bị đày ra khỏi xứ biệt cư,
Vì tội lỗi đã làm cho dân chúng,
Con bố thí với bàn tay hào phóng,
Nay chiếu theo án lệnh của toàn dân
Con đi đày khỏi đất nước quê hương.

6281. Aghaṃ taṃ patisevissaṃ vane vāḷamigākiṇṇe, khaggadīpinisevite ahaṃ puññāni karomi, tumhe paṅkamhi sīdatha.

6281. Con sẽ làm quen với sự khổ sở ấy ở khu rừng đông đúc các thú dữ, được lai vãng bởi loài tê giác và loài báo, con vẫn làm các việc phước thiện, còn mẹ đắm chìm trong bãi lầy (ngũ dục).

177. Bây giờ con sắp phải đền tội lỗi
Trong rừng hoang loài hổ beo lui tới.
Nếu mẹ muốn chìm trong chốn dục tham,
Song phần con công đức quyết tâm làm.

6282. Anujānāmi taṃ puttaṃ pabbajjā te samijjhatu, ayañca maddī kalyāṇī susaññā tanumajjhimā,acchataṃ saha puttehi kiṃ araññe karissati. 

6282. “Này con trai, mẹ cho phép con. Mong rằng việc xuất gia được thành tựu cho con. Hãy để nàng Maddī kiều diễm, vô cùng giỏi giang, có vòng eo thon này cùng với hai con ở lại. Nàng sẽ làm gì ở khu rừng?”

178-179. Mẹ cho phép con ra đi, Thái tử,
Hãy nhận lời mẹ chúc lành vạn sự,
Ðể Mad-dì và các cháu ở nhà,
Nàng sẽ không làm lợi nữa bao giờ,
Chân yếu, tay mềm, thân hình yếu đuối,
Tại sao nàng cần phải đi, con hỡi?

6283. Nāhaṃ akāmā dāsimpi araññaṃ netumussahe, sace icchati anvetu sace nicchati acchatu. 

6283. “Con không ra sức để dẫn theo vào rừng (một ai) ngay cả nữ tỳ một cách miễn cưỡng. Nếu nàng muốn, hãy để nàng đi theo; nếu nàng không muốn, hãy để nàng ở lại.”

180. Con chẳng đem theo dù một nữ tỳ
Trái ý nguyền nàng chẳng muốn ra đi.
Song nàng muốn, hãy cho nàng đi với,
Còn nếu không, hãy để nàng ở lại.

6284. Tato suṇhaṃ mahārājā yācituṃ paṭipajjatha, mā candanasamācāre rajojallaṃ adhārayi. 

6284. Kế đó, vị đại vương đã đến gần để yêu cầu con dâu rằng: “Chớ để bụi bặm và cáu ghét bám vào thân hình đã được tẩm trầm hương (của con).

181. Lúc ấy phụ vương phán bảo công nương:
- Ðừng để tay chân tẩm ướt đàn hương
Chịu lấm bụi và đất dơ, cha bảo,

6285. Mā kāsiyāni dhāretvā kusacīramadhārayi, dukkho vāso araññasmiṃ mā hi tvaṃ lakkhaṇe gami. 

6285. Sau khi đã mặc các vải lụa xứ Kāsi, chớ mặc y phục bằng vỏ cây. Cuộc sống ở rừng là khổ sở. Này người con gái có ưu điểm, con chớ ra đi.”

182. Con đừng đắp vỏ cây rừng làm áo
Thay lụa tơ Ba-la-nại mượt mà,
Công nương diễm phúc, đừng bước đi xa,
Ðời rừng rậm thật khó khăn gian khổ.

6286. Tamabravī rājaputtī maddī sabbaṅgasobhanā, nāhaṃ taṃ sukhamiccheyyaṃ yaṃ me vessantaraṃ vinā

6286. Công chúa Maddī, người phụ nữ có sự xinh đẹp toàn thân, đã nói với vị đại vương ấy rằng: “Con không mong muốn sự sung sướng mà thiếu vắng Vessantara của con.”

183. Công chúa Mad-dì yêu kiều, rực rỡ,
Liền đáp lời thưa với phụ vương nàng:
- Ðược diễm phúc kia con cũng chẳng màng
Nếu không có Ves-san-ta Thái tử.

6287. Tamabravī mahārājā sivīnaṃ raṭṭhavaḍḍhano, iṅgha maddi nisāmehi vane ye honti dussahā.

6287. Vị đại vương, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, đã nói với nàng ấy rằng: “Này Maddī, con hãy lắng nghe về những điều khó chịu đựng ở trong khu rừng.

184. Rồi Ðại vương Si-vi nuôi-quốc-độ
Lại nói thêm với nàng nữa như vầy:
- Này Mad-dì con hỡi, hãy nghe đây,
Khi cha giảng nỗi gian nan rừng thẳm:

6288. Bahū kīṭā paṭaṅgā ca makasā madhumakkhikā, tepi taṃ tattha hiṃseyyuṃ taṃ te dukkhataraṃ siyā.

6288. Có nhiều bọ rầy, châu chấu, muỗi, ong. Chúng cũng có thể hãm hại con tại nơi ấy. Việc ấy đối với con có thể là khổ sở hơn.185. Những bầy bọ ruồi, muỗi mòng, ong, gián,
Sẽ đốt con trong lúc sống ở rừng
Cho đến khi con mắc bệnh thương vong.

6289. Apare passa santāpe nadīnupanisevite, sappā ajagarā nāma avisā te mahabbalā.

6289. Con hãy nhìn xem những nỗi bực bội khác ở nơi kế cận các dòng sông. Có những con rắn không có nọc độc, được gọi là các con trăn; chúng có sức mạnh lớn lao.

186. Còn cư dân trên bờ sông bến nước
Lại nghe nói đến nhiều tai họa khác:
Dù không mang nọc độc, giống trăn rừng,
Loài cuộn tròn siết chặt, mạnh vô cùng,

6290. Te manussaṃ migaṃ vāpi api māsannamāgataṃ, parikkhipitvā bhogehi vasamānenti attano.

6290. Khi loài người hay thậm chí con thú đi đến gần, chúng liền quấn tròn con mồi bằng những vòng thân và đặt dưới sự kiểm soát của bản thân.

187. Hễ người, vật đến gần, liền tóm chặt,
Rồi kéo về hang, cuộn trong nhiều khúc.

6291. Aññepi kaṇhajaṭino acchā nāma aghammigā, na tehi puriso diṭṭho rukkhamāruyha muccati.

6291. Cũng có những con thú nguy hiểm có bộ lông màu đen gọi là gấu; người nào bị chúng nhìn thấy dầu đã trèo lên cây cũng không thoát thân.

188. Còn nhiều loài dã thú khác hiểm nguy
Phủ đầy lông chằng chịt lại đen sì,
Chúng có thể trèo cây bắt người đấy,
Con gấu chính là tên sinh vật ấy.

6292. Saṅghaṭṭayantā siṅgāni tikkhaggāni pahārino. mahisā vicarantettha nadiṃ sotumbaraṃ pati

6292. Các con trâu đi lang thang ở nơi này, cạnh dòng sông Sotumbarā, khiêu khích nhau bằng những cái sừng có mũi nhọn, bằng những cú húc.

189. Dọc theo bờ sông nước So-tum-ba
Có loài trâu cư trú chốn giang hà
Với cặp sừng thật to và nhọn hoắc
Có thể húc một cú đau cùng cực.

6293. Disvā migānaṃ yūthānaṃ gavaṃ sañcarataṃ vane, dhenuva vacchagiddhāva kathaṃ maddi karissasi.

6293. Sau khi nhìn thấy con bò cái trong số các bầy thú đang đi lại ở trong rừng, tựa như con bò cái không nhìn thấy con bê, này Maddī, con sẽ hành động như thế nào?

190. Thấy những đàn trâu vĩ đại thế này
Ði lang thang qua rừng rậm đó đây,
Như bò mẹ đi tìm con, khốn khổ,
Mad-dì sẽ làm gì, cho ta rõ?

6294. Disvā sampatite ghore dummaggesu plavaṅgame, akhettaññāya te maddi bhavitante mahabbhayaṃ.

6294. Sau khi nhìn thấy những con khỉ ghê rợn đang bay nhảy ở các ngọn cây, d0 không hiểu biết về rừng núi, này Maddī, con sẽ có nỗi sợ hãi lớn lao.191. Khi vượn khỉ trên cây tụ họp đoàn,
Chúng sẽ làm con hốt hoảng kinh hoàng,
Công chúa Mad-dì chẳng hề hiểu biết
Trước cảnh tượng dị kỳ và gớm ghiếc.

6295. Yā tvaṃ sivāya sutvāna muhuṃ uttasase pure, sā tvaṃ vaṅkaṃ anuppattā kathaṃ maddi karissasi.

6295. Lúc trước, ở trong thành phố, sau khi nghe tiếng hú của loài sói cái, con đây liên lục bị khiếp sợ, này Maddī, khi con đã đi đến núi Vaṅka, con đây sẽ hành động như thế nào?

192. Xưa mỗi lần tiếng hú của chó rừng
Vẫn làm con thật run sợ hãi hùng,
Nay phải sống ở trên đồi Vạn-cổ
Con sẽ làm gì, Mad-dì bé nhỏ!

6296. Ṭhite majjhantike kāle sannisinnesu pakkhisu, sanateva brahāraññaṃ tattha kiṃ gantumicchasi. 

6296. Vào thời điểm êm ả lúc giữa trưa, khi các con chim đều nghỉ ngơi, khu rừng bao la vẫn vang động, tại sao con lại muốn đi đến nơi ấy?”

193. Sao con muốn đi vào chốn như vầy?
Ngay cả lúc trời đang giữa ban ngày,
Khi các loài chim nghỉ ngơi im lặng,
Khu rừng cây vẫn thét gào vang động.

6297. Tamabravī rājaputtī maddī sabbaṅgasobhanā, yāni etāni akkhāsi vane paṭibhayāni me, sabbāni abhisambhossaṃ gacchaññeva rathesabha. 

6297. Công chúa Maddī, người phụ nữ có sự xinh đẹp toàn thân, đã nói với vị đại vương ấy rằng: “Những điều cha vừa nói là những điều kinh hãi đối với con về khu rừng, con sẽ chịu đựng những điều ấy, con vẫn sẽ ra đi, tâu đấng thủ lãnh xa binh.

194 -195. Rồi Mad-dì diễm lệ ấy, công nương
Liền nói lên vầy đáp lại phụ vương:
- Về những điều này thật là đáng sợ
Mà cha đã cố trình bày cho rõ,
Con sẵn sàng chấp nhận mọi điều kia,
Và nay con đã quyết định ra đi.

6298. Kāsaṃ kusaṃ poṭakilaṃ usīraṃ muñjababbajaṃ, urasā panudahessāmi nāssa hessāmi dunnayā.

6298. Con sẽ ưỡn ngực đương đầu với cỏ kāsa, cỏ kusa, cỏ poṭakila, cỏ usīra, cỏ muñja, và cỏ babbaja, Con sẽ không là sự chọn lựa sai lầm của vị này.

196. Qua mọi đồi hoang và rừng cỏ dại,
Xuyên suốt các đầm lau và khóm sậy,
Với sức mình, con sẽ mở con đường,
Quả thật con không oán trách kêu than.

6299. Bahūhi vata cariyāhi kumārī vindate patiṃ, udarassuparodhena gohanubbeṭhanena ca.

6299, 6300. Thật vậy, người con gái giữ được người chồng bằng nhiều nết hạnh: bằng sự chịu đựng do việc thiếu ăn, bằng việc chăm sóc cơ thể, bằng việc duy trì ngọn lửa, và bằng việc gội rửa (tội lỗi) ở trong nước. Tình cảnh góa bụa là đắng cay ở thế gian, tâu đấng thủ lãnh xa binh, con vẫn sẽ ra đi.

197. Nàng nào muốn giữ chồng cho tốt đẹp,
Phải làm xong phận sự mình trên hết,
Phải sẵn sàng vò các cục phân bò,
Và sẵn sàng ăn bữa đói bữa no.

6300. Aggissa paricariyāya udakummujjanena ca, vedhammaṃ kaṭukaṃ loke gacchaññeva rathesabha.

198. Nàng phải siêng năng chăm lo ngọn lửa
Và phải chuyên cần lọc trong nước nữa.
Song cuộc đời quả phụ thật kinh hoàng,
Con quyết ra đi, tâu bậc Ðại vương.

6301. Apissā hoti appatto ucchiṭṭhamapi bhuñjituṃ, yo naṃ hatthe gahetvāna akāmaṃ parikaḍḍhati, vedhammaṃ kaṭukaṃ loke gacchaññeva rathesabha.

6301. Kẻ nào nắm nàng quả phụ ấy ở bàn tay rồi cưỡng bức lôi kéo nàng đi, thì không xứng đáng để thọ hưởng phần còn lại của nàng. Tình cảnh góa bụa là đắng cay ở thế gian, tâu đấng thủ lãnh xa binh, con vẫn sẽ ra đi.

199. Việc vặt vãnh cũng làm nàng lo lắng,
Nàng thường ăn thứ cơm thừa canh cặn,
Vì cuộc đời quả phụ thật kinh hoàng,
Con quyết ra đi, tâu bậc Ðại vương.

6302. Kesaggahaṇamukkhepā bhūmyā ca parisumbhanā, datvā ca no pakkamati bahuṃ dukkhaṃ anappakaṃ, vedhammaṃ kaṭukaṃ loke gacchaññeva rathesabha.

6302. Với việc nắm đầu tóc nâng dậy và xô ngã trên mặt đất, gã ấy dửng dưng đứng nhìn, sau khi đã ban cho nàng nhiều khổ đau không phải là ít. Tình cảnh góa bụa là đắng cay ở thế gian, tâu đấng thủ lãnh xa binh, con vẫn sẽ ra đi.

200-201. Bị quật ngã và dìm trong bụi bặm,
Bị nắm tóc lôi thật là tàn nhẫn,
Ðàn ông đều có thể đả thương nàng,
Mọi người ngoài chỉ đứng ngắm bàng quan.
Ôi hãi hùng là cuộc đời sương phụ!
Tâu Ðại vương, con quyết đi khỏi xứ.

6303. Sukkacchavī vedhaverā datvā subhagamānino, akāmaṃ parikaḍḍhanti ulūkaññeva vāyasā, vedhammaṃ kaṭukaṃ loke gacchaññeva rathesabha.

6303. Sau khi ban cho chút ít tài sản, những kẻ thèm muốn những người quả phụ có làn da trắng, những kẻ tự hào là có phúc phần, cưỡng bức lôi kéo nàng đi tựa như các con quạ lôi kéo con chim cú. Tình cảnh góa bụa là đắng cay ở thế gian, tâu đấng thủ lãnh xa binh, con vẫn sẽ ra đi.

202-203. Bọn đàn ông vây đánh trẻ mồ côi
Thật bạo tàn vì đấm đá tả tơi
Như bầy quạ thường vồ chim cú nhỏ.
Dù mỹ miều và tự cao quyến rủ,
Ôi cuộc đời quả phụ thật kinh hoàng!
Con quyết ra đi, tâu bậc Ðại vương.

6304. Api ñātikule phīte kaṃsapajjotane vasaṃ, nevātivākyaṃ na labhe bhātūhi sakhikāhi ca, vedhammaṃ kaṭukaṃ loke gacchaññeva rathesabha.

6304. Thậm chí trong khi sống trong gia đình của thân quyến giàu sang, có chén bát vàng lấp lánh, nàng cũng không thể nào tránh khỏi lời nói lăng mạ từ các anh em và từ các bạn gái. Tình cảnh góa bụa là đắng cay ở thế gian, tâu đấng thủ lãnh xa binh, con vẫn sẽ ra đi.

204-205. Ngay cả trong nhà giàu sang thịnh vượng
Sáng ngời lên với bạc vàng vô tận,
Lời đắng cay tuôn chảy mãi không ngừng
Từ đám anh em hoặc các thân bằng,
Ôi hãi hùng là cuộc đời sương phụ!
Tâu Ðại vương, con quyết đi khỏi xứ.

6305. Naggā nadī anūdakā naggā raṭṭhaṃ arājikaṃ, itthīpi vidhavā naggā yassāpi dasa bhātaro, vedhammaṃ kaṭukaṃ loke gacchaññeva rathesabha.

6305. Dòng sông không có nước là trơ trụi, đất nước không có vua là trơ trụi, thậm chí phụ nữ góa chồng cũng là trơ trụi, cho dầu nàng có mười anh em trai. Tình cảnh góa bụa là đắng cay ở thế gian, tâu đấng thủ lãnh xa binh, con vẫn sẽ ra đi.

206-207. Chẳng khác dòng sông suối nước cạn khô.
Chẳng khác gì vương quốc thiếu vị vua,
Người sương phụ dù có mười anh ruột
Cũng chỉ là tấm thân trần trùng trục,
Ôi cuộc đời sương phụ thật kinh hoàng!
Con quyết ra đi, tâu bậc Ðại vương.

6306. Dhajo rathassa paññāṇaṃ dhūmo paññāṇamaggino, rājā raṭṭhassa paññāṇaṃ bhattā paññāṇamitthiyā, vedhammaṃ kaṭukaṃ loke gacchaññeva rathesabha.

6306. Là cờ là tiêu biểu của cỗ xe, khói là tiêu biểu của ngọn lửa, vị vua là tiêu biểu của đất nước, người chồng là tiêu biểu của phụ nữ. Tình cảnh góa bụa là đắng cay ở thế gian, tâu đấng thủ lãnh xa binh, con vẫn sẽ ra đi.

208-209. Dấu hiệu cỗ xe: lá cờ phấp phới,
Lửa được khói xông nên người biết tới,
Ðất nước sáng danh nhờ các quốc vương,
Người vợ có tên nhờ chính phu quân.
Ôi hãi hùng là cuộc đời sương phụ!
Tâu Ðại vương, con quyết đi khỏi xứ.

6307. Yā daḷiddī daḷiddassa aḍḍhā aḍḍhassa kittimā, taṃ ve devā pasaṃsanti dukkaraṃ hi karoti sā. 

6307. Người nữ nào đồng cam cộng khổ với chồng, chia ngọt sẻ bùi với chồng thì có được tiếng tốt. Chư Thiên thật sự khen ngợi người nữ ấy, bởi vì nàng ấy làm được điều khó làm.

210-211. Người vợ chia chung số phận với chồng,
Dù được giàu sang hay chịu bần cùng,
Danh vọng nàng được thần linh tán tụng,
Lúc hoạn nạn nàng cũng đành an phận.

6308. Sāmikaṃ anubandhissaṃ sadā kāsāyavāsinī, pathavyāpi abhejjantyā nicche vessantaraṃ vinā, vedhammaṃ kaṭukaṃ loke gacchaññeva rathesabha. 

6308. Con sẽ mặc vải màu ca-sa và luôn luôn theo sát chồng. Thậm chi, khi trái đất còn chưa bị vỡ tan, con không (bao giờ) mong muốn thiếu vắng Vessantara. Tình cảnh góa bụa là đắng cay ở thế gian, tâu đấng thủ lãnh xa binh, con vẫn sẽ ra đi.

212-213. Con vẫn quyết tâm nối gót theo chàng
Dù khoác hoàng y con cũng chẳng màng,
Làm hoàng hậu khắp thế gian chẳng thiết
Ðời sương phụ than ôi, đầy kinh khiếp,
Tâu Ðại vương, con sẽ quyết ra đi.

6309. Api sāgarapariyantaṃ bahuvittadharaṃ mahiṃ, nānāratanaparipūraṃ nicche vessantaraṃ vinā.

6309. Dầu cho trái đất bao quanh bởi biển cả có chứa đựng nhiều của cải, được chất đầy châu báu các loại khác nhau, con không (bao giờ) mong muốn thiếu vắng Vessantara.

6310. Kathannu tāsaṃ hadayaṃ sukharā vata itthiyo, yā sāmike dukkhitamhi sukhamicchanti attano.

6310. Quả thật có những phụ nữ vô cùng nhẫn tâm, khi người chồng bị khổ cực, mà các nàng lại mong muốn sự sung sướng cho bản thân; trái tim của các nàng ấy là như thế nào?

214. Quả thật vô tâm là những nữ nhi
Lòng sắt đá nên không sao nhận thức
Khi các vị lang quân đang khổ cực,
Lại ước mong vui hưởng cảnh giàu sang.

6311. Nikkhamante mahārāje sivīnaṃ raṭṭhavaḍḍhane, tamahaṃ anubandhissaṃ sabbakāmadado hi me.

6311. Khi vị đại vương, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, đang rời khỏi, con sẽ theo sát chàng, bởi vì chàng là người ban cho con mọi điều ước muốn.”

215. Khi chúa tể Si-vi bỏ quê hương,
Để cất bước lưu đày ra khỏi nước,
Con quyết sẽ cùng theo chàng cất bước,
Vì chàng ban mọi hỷ lạc, hân hoan.

6312. Tamabravī mahārājā maddiṃ sabbaṅgasobhanaṃ, ime te daharā puttā jālī kaṇhājinā cubho, nikkhippa lakkhaṇe gaccha mayaṃ te posiyāmase.

6312. Vị đại vương đã nói với nàng Maddī, người phụ nữ có sự xinh đẹp toàn thân ấy rằng: “Cả hai đứa con này của con, Jāli và Kaṇhājinā, còn thơ dại. Này người con gái có ưu điểm, con hãy để lại và con hãy ra đi. Hãy để cha mẹ nuôi dưỡng chúng.”

216-217. Lúc bấy giờ cất tiếng vị Ðại vương
Nói với Mad-dì huy hoàng diễm lệ:
- Nhưng hãy để lại đây hai con trẻ
Vì chúng làm gì được ở nơi kia,
Hỡi công nương đầy phước đức, Mad-dì?
Chúng ta sẽ chăm nom đầy kỹ lưỡng.

6313. Tamabravī rājaputtī maddī sabbaṅgasobhanā, piyā me puttakā deva jālī kaṇhājinā cubho, tyamhaṃ tattha ramessanti araññe jīvasokinaṃ.

6313. Công chúa Maddī, người phụ nữ có sự xinh đẹp toàn thân, đã nói với vị vua ấy rằng: “Tâu bệ hạ, cả hai Jāli và Kaṇhājinā là hai đứa con nhỏ yêu quý của con. Chúng sẽ khiến cho con, người có cuộc sống sầu muộn, được vui sướng ở tại nơi ấy, trong khu rừng.”

218-219. Rồi Mad-dì trả lời ngay Chúa thượng,
Vị công nương thật rực rỡ yêu kiều:
- Bé Jà-li, Kan-hà ấy thân yêu
Với lòng con thật vô cùng quý giá,
Chúng sẽ cùng con vào rừng cư trú,
Và làm con vơi nhẹ nỗi sầu bi.

6314. Tamabravī mahārājā sivīnaṃ raṭṭhavaḍḍhano, sālīnaṃ odanaṃ bhutvā suciṃ maṃsūpasecanaṃ, rukkhaphalāni bhuñjantā kathaṃ kāhanti dārakā.

6314. Vị đại vương, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, đã nói với nàng ấy rằng: “Sau khi đã thọ dụng bữa ăn với gạo sāli, có trộn lẫn thịt tinh khiết, hai đứa trẻ sẽ làm thế nào trong khi ăn những trái của các cây rừng?

220-221. Vị Ðại vương nuôi-quốc-độ Si-vi,
Vị chúa tể đáp lời ngay lập tức:
- Trước giờ ăn thịt hầm, cơm thơm phức,
Nếu phải dùng quả dại ở rừng hoang,
Bọn trẻ thơ làm gì được hay chăng?

6315. Bhutvā sataphale kaṃse sovaṇṇe satarājike, rukkhapattesu bhuñjantā kathaṃ kāhanti dārakā.

6315. Sau khi đã thọ dụng ở đĩa đồng nặng một trăm phala, ở đĩa vàng nặng một trăm rājika, hai đứa trẻ sẽ làm thế nào trong khi ăn ở những chiếc lá của các cây rừng?222. Trước giờ ăn bằng chén vàng, dĩa bạc,
Nay chỉ lá cây chúng làm gì được?

6316. Kāsiyāni ca dhāretvā khomakodumbarāni ca, kusacīrāni dhārentā kathaṃ kāhanti dārakā.

6316. Sau khi đã mặc các loại tơ lụa xứ Kāsi và các loại vải xứ Khoma và Kodumbara, hai đứa trẻ sẽ làm thế nào trong khi mặc các y vỏ cây làm bằng cỏ kusa?223. Trước áo quần Ba-la-nại lụa tơ,
Nay phải mặc vỏ cây với cỏ khô,
Bọn trẻ ấy biết làm gì cho được?

6317. Vayhāhi pariyāyitvā sivikāya rathena ca, pattikā paridhāvantā kathaṃ kāhanti dārakā. 

6317. Sau khi đã di chuyển bằng các phương tiện chuyên chở, bằng kiệu khiêng và bằng cỗ xe, hai đứa trẻ sẽ làm thế nào trong khi chạy loanh quanh bằng đôi chân (của chúng)?

224. Xưa xe, kiệu, chúng được người đưa rước,
Nay chạy đi quanh quẩn với đôi chân,
Bọn trẻ thơ làm gì được hay không?

6318. Kūṭāgāre sayitvāna nivāte phussitaggale, sayantā rukkhamūlasmiṃ kathaṃ kāhanti dārakā. 

6318. Sau khi đã nằm ngủ trong ngôi nhà có mái nhọn, kín gió, có then cửa đã cài, hai đứa trẻ sẽ làm thế nào trong khi nằm ngủ ở gốc cây?

225. Trước giờ ngủ trong vương cung nóc nhọn,
Cửa khóa then cài thật là an ổn,
Nay phải nằm ngay dưới gốc cây rừng,
Bọn trẻ thơ làm gì được hay chăng?

6319. Pallaṅkesu sayitvāna gonake cittasanthate, sayantā tiṇasanthāre kathaṃ kāhanti dārakā. 

6319. Sau khi đã nằm ngủ ở các giường nệm được trải thảm len lông dài nhiều màu sắc, hai đứa trẻ sẽ làm thế nào trong khi nằm ngủ ở thảm cỏ?226. Trước gối nệm với giường thêu nằm ngủ,
Nay phải ngã lưng nằm trên giường cỏ,
Bọn trẻ thơ làm gì được hay chăng?

6320. Gandhakena vilimpitvā agarūcandanena ca, rajojallāni dhārentā kathaṃ kāhanti dārakā.

6320. Sau khi đã thoa bôi với dầu thơm của gỗ kỳ nam và trầm hương, hai đứa trẻ sẽ làm thế nào trong khi lấm lem bụi bặm và cáu ghét?227. Trước được tẩm đầy các thứ dầu hương,
Nay bị phủ bùn nhơ và bụi bặm,
Bọn trẻ thơ sẽ làm gì cho đặng?

6321. Camarīmorahatthehi vijitaṅgā sukhedhitā, daṭṭhā ḍaṃsehi makasehi kathaṃ kāhanti dārakā.

6321. Được nuôi dưỡng sung sướng, có cơ thể được quạt bởi các cây quạt lông đuôi bò và quạt lông công, hai đứa trẻ sẽ làm thế nào khi bị cắn bởi các con mòng và các con muỗi?”

228. Xưa được người phe phẩy quạt lông công,
Hay quạt đuôi trâu rừng phủ rậm lông,
Nay bị muỗi ruồi bọ sâu đốt cắn,
Bọn trẻ thơ sẽ làm gì cho đặng?

6322. Tamabravī rājaputtī maddī sabbaṅgasobhanā, mā deva paridevesi mā ca tvaṃ vimano ahu, yathā mayaṃ bhavissāma tathā hessanti dārakā.

6322. Công chúa Maddī, người phụ nữ có sự xinh đẹp toàn thân, đã nói với vị vua ấy rằng: “Tâu bệ hạ, xin cha chớ than vãn, và xin cha chớ có ưu tư. Chúng con sẽ như thế nào thì hai đứa trẻ sẽ như thế ấy.”

229-230. Rồi Mad-dì diễm lệ ấy, công nương,
Liền nói lên vầy đáp lại phụ vương:
Ðừng than khóc vì chúng con, cha hỡi,
Xin phụ vương cũng đừng nên bối rối,
Hai trẻ này cùng cha mẹ lên đường
Bất cứ nơi nào rảo bước tha phương.

6323. Idaṃ vatvāna pakkāmi maddī sabbaṅgasobhanā, sivimaggena anvesi putte ādāya lakkhaṇā.

6323. Sau khi nói lời này, nàng Maddī, người phụ nữ có sự xinh đẹp toàn thân, đã ra đi. Người con gái có ưu điểm đã mang hai đứa con đi theo con đường của vị vua xứ Sivi.

231. Với những lời này Mad-dì từ giã,
Vị công nương thật yêu kiều rực rỡ,
Hai trẻ thơ cùng chia xẻ đường trường.

6324. Tato vessantaro rājā dānaṃ datvāna khattiyo, pitu mātu ca vanditvā katvā ca naṃ padakkhiṇaṃ.

6324. Kế đó, đức vua Vessantara, dòng Sát- đế- lỵ, sau khi ban phát vật thí, đã đảnh lễ cha và mẹ, rồi hướng vai phải đi nhiễu quanh họ.

232. Rồi Ves-san-ta-ra chính quốc vương,
Lời ước nguyện đã hoàn thành như ý,
Ðến trước song thân ngài đồng kính lễ
Và đi quanh về phía hữu một vòng.

6325. Catuvāhiṃ rathaṃ yuttaṃ sīghamāruyha sandanaṃ, ādāya puttadārañca vaṅkaṃ pāyāsi pabbataṃ.

6325. Vị ấy đã mau chóng bước lên cỗ xe được thắng bốn ngựa, rồi đã đưa vợ và hai con ra đi về phía ngọn núi Vaṅka.

233. Rồi ngài ngự lên xa giá lẹ làng
Ðược kéo đi nhờ một đoàn tuấn mã,
Cùng vợ con, ngài lên đường vội vã
Ðến nơi kia đồi Vạn-cổ cao vời.

6326. Tato vessantaro rājā yenāsi bahuko jano, āmanta kho taṃ gacchāma arogā hontu ñātayo.

6326. Sau đó, đức vua Vessantara đã đi đến nơi có nhiều người tụ tập và đã nói rằng: “Chúng tôi đi đến nơi ấy. Chúc các thân nhân được mạnh khỏe."

234. Vua Ves-san-ta thúc ngựa đến nơi
Mà hầu hết đám thần dân tụ tập:
Và kêu lớn: - Chúng ta đi! Cầu phúc
Cho bà con thân tộc, vậy giã từ!

Nikkhamitvāna nagarā nivattitvā vilokite tadāpi paṭhavī kampi sineruvanavaṭaṁsakā.

Tam Tạng Sri Lanka và Miến Điện không có câu kệ này.

235. Khi ngài đi ra khỏi kinh thành ấy,
Ngài đã quay đầu nhìn xem trở lại,
Vì thế núi Tu-di lớn chuyển rung
Chẳng khác một cây đa giữa cõi không.

6327. Iṅgha maddi nisāmehi rammarūpaṃva dissati,
āvāso siviseṭṭhassa pettikaṃ bhavanaṃ mama.

6327. “Nào, hỡi nàng Maddī, nàng hãy nhìn xem. Quả thật vẻ đẹp đáng yêu được nhìn thấy: Chỗ ở của vị đứng đầu xứ Sivi là nơi trú ngụ thuộc về người cha của trẫm.”

236. Này Mad-dì, nhìn nơi thân yêu đó,
Nơi chúng ta vừa cất bước ra đi,
Ấy vương cung của chúa tể Si-vi,
Và cũng chính nơi quê cha đất tổ.

6328. Taṃ brāhmaṇā anvagamuṃ te taṃ asse ayācisuṃ, yācito paṭipādesi catunnaṃ caturo haye.

6328. Các vị Bà-la-môn đã đi theo Vessantara. Họ đã cầu xin vị ấy các con ngựa. Được cầu xin, vị ấy đã ban phát bốn con ngựa cho bốn người.

237. Khi bốn Bà-la-môn bắt kịp ngài,
Và muốn xin bầy ngựa, họ kêu nài,
Ngài ban bầy ngựa kia ngay tại chỗ,
Mỗi hành khất được một con tuấn mã.

6329. Iṅgha maddi nisāmehi cittarūpaṃva dissati, migā rohiccavaṇṇena dakkhiṇassā vahanti maṃ.

6329. “Nào, hỡi nàng Maddī, nàng hãy nhìn xem. Quả thật điều kỳ diệu được nhìn thấy: Những con ngựa thuần thục đưa trẫm đi là những con nai với sắc màu hồng.”

238. Này Mad-dì, hãy ngắm việc diệu kỳ,
Này nhìn xem việc hy hữu, Mad-dì:
Những con ngựa này đây thông minh quá,
Ðội lốt hồng dương kéo xe ta đó!

6330. Athettha pañcamo āga so taṃ rathamayācatha, tassa taṃ yācitodāsi na cassupahato mano. 

6330. Rồi, vị Bà-la-môn thứ năm đã đi đến nơi này. Vị ấy đã cầu xin Vessantara cỗ xe. Được cầu xin, Vessantara đã cho cỗ xe đến vị ấy. Và tâm ý của vị Vessantara này không bị bấn loạn.

239. Một kẻ thứ năm tiến đến tức thì
Và cầu xin xe nọ của vương nhi.

6331. Tato vessantaro rājā oropetvā sakaṃ janaṃ, assāsayī assarathaṃ brāhmaṇassa dhanesino.

6331. Sau đó, đức vua Vessantara đã bảo nhóm người của mình xuống xe, rồi đã vui vẻ bàn giao cỗ xe ngựa cho vị Bà-la-môn tầm cầu tài sản.

240. Việc này khiến Ves-san-ta Chúa thượng
Phải đưa đám vợ con ngài đi xuống,
Và ban xe cho kẻ đến xin quà.

6332. Tvaṃ maddī kaṇhājinaṃ gaṇha lahukā esā kaṇiṭṭhikā, ahaṃ jāliṃ gaṇhissāmi garuko bhātiko hi so. 

6332. “Này Maddī, nàng hãy bế Kaṇhājinā, nó nhẹ và là em gái. Trẫm sẽ bồng Jāli, bởi vì nó nặng và là anh trai.”241. Này Mad-dì, nàng hãy bế Kan-hà
Vì nó nhẹ và hãy còn thơ dại,
Còn Jà-li là bé trai nặng đấy,
Ta sẽ mang con trẻ ấy theo cùng.

6333. Rājā kumāraṃ ādāya rājaputtī ca dārikaṃ, sammodamānaṃ pakkāmuṃ aññamaññapiyaṃvadā.

6333. Vị vua đã mang theo đứa bé trai, và nàng công chúa mang theo đứa bé gái, họ đã cùng nhau vui vẻ lên đường, với lời nói yêu thương với nhau.

242. Ngài, con trai, nàng, con gái lên đường
Cùng trò chuyện thật hân hoan mãn nguyện.

Dānakaṇḍaṃ niṭṭhitaṃ. 

Phẩm Bố Thí được hoàn tất.

6334. Yadi keci manujā enti anumagge paṭipathe, maggaṃ te paṭipucchāma kuhiṃ vaṅkatapabbato.  

6334. Mỗi lúc có những người nào đó đi đến ở con đường cùng chiều, ở lối đi ngược chiều, chúng tôi hỏi họ về đường đi rằng: ‘Núi Vaṅka ở đâu?’

243. Bất cứ khi nào gặp du khách đến,
Hai vị hỏi thăm phương hướng đi đường,
Và nơi đâu là Vạn-cổ Cao sơn.

6335. Te tattha amhe passitvā karuṇaṃ paridevayuṃ, dukkhaṃ te paṭivedenti dūre vaṅkatapabbato.  

6335. Tại nơi ấy, sau khi nhìn chúng tôi, những người ấy đã than vãn thương xót. Họ cho biết về nỗi khó nhọc rằng: ‘Núi Vaṅka còn xa lắm.’

244. Ðám du hành đều khóc than thương xót,
Nhìn các ngài trên con đường rảo bước,
Và bảo ngài nhiệm vụ quá nặng nề:
- Con đường còn xa lắc ở đằng kia.

6336. Yadi passanti pavane dārakā phalite dume, tesaṃ phalānaṃ hetūhi uparodanti dārakā.  

6336. Mỗi lúc hai đứa trẻ nhìn thấy những cây đã trổ quả ở khu rừng lớn, chính vì nguyên nhân của những trái cây ấy mà hai đứa trẻ kêu khóc.

245. Khi trẻ thơ ngắm nhìn trên sườn núi
Nhiều cây cao mọc lên đầy hoa trái,
Hai trẻ kia liền kêu khóc đòi ăn.

6337. Rodante dārake disvā ubbiggā vipulā dumā, sayamevonamitvāna upagacchanti dārake.  

6337. Sau khi nhìn thấy hai đứa trẻ đang khóc lóc, các thân cây sum suê, bị xúc động, đã tự mình hạ thấp xuống và di chuyển đến gần hai đứa trẻ.

246. Khi cây rừng nhìn lũ trẻ khóc than,
Cây cao vút bỗng sinh lòng ái ngại
Cúi rạp mình đưa các cành đi tới
Cho tay người hái được trái cây rừng.

6338. Idaṃ accherakaṃ disvā abbhutaṃ lomahaṃsanaṃ, sādhukāraṃ pavattesi maddī sabbaṅgasobhanā.  

6338. Sau khi nhìn thấy sự kỳ diệu, phi thường, có sự dựng đứng lông này, nàng Maddī, người phụ nữ có sự xinh đẹp toàn thân, đã thốt lên lời tán thán (rằng):

247. Lúc ấy Mad-dì reo lớn vui mừng,
Nàng công chúa diễm kiều và rực rỡ,
Khi nhìn thấy phép thần kỳ diệu đó
Khiến cho người ta phải dựng tóc lông.

6339. Accheraṃ vata lokasmiṃ abbhutaṃ lomahaṃsanaṃ, vessantarassa tejena sayamevonatā dumā.  

6339. Thật là điều kỳ diệu ở thế gian, là việc phi thường, có sự rởn lông! Các thân cây đã tự mình hạ thấp xuống bởi oai lực của Vessantara.

248. Tóc lông người dựng đứng lúc nhìn trông
Nhờ thần lực Ves-san-ta Chúa thượng
Các cây cao bỗng nghiêng mình cúi xuống.

6340. Saṅkhipiṃsu pathaṃ yakkhā anukampāya dārake, nikkhantadivaseneva cetaraṭṭhaṃ upāgamuṃ.

6340. Vì lòng thương tưởng hai đứa trẻ, các Dạ-xoa đã thâu ngắn lại đoạn đường. Bọn họ đã đến được đất nước Ceta ngay khi ngày vừa hết.

249. Thần Dạ-xoa thâu ngắn dặm trường
Vì thương con trẻ gặp tai ương,
Ce-ta quốc độ nay vừa đến
Trước buổi hoàng hôn kịp bước đường.

6341. Te gantvā dīghamaddhānaṃ cetaraṭṭhamupāgamuṃ, iddhaṃ phītaṃ janapadaṃ bahumaṃsasurodanaṃ.

6341. Sau khi đã đi đoạn đường dài, bọn họ đã đến được đất nước Ceta, xứ sở giàu có, phồn thịnh, có nhiều cơm, rượu, thịt.

250. Cả đoàn đi đến xứ Ce-ta
Gian khổ lộ trình quả thật xa,
Vương quốc tràn trề đồ ẩm thực,
Phú cường, thịnh vượng cõi sơn hà.

6342. Cetiyā parikariṃsu disvā lakkhaṇamāgataṃ, sukhumālī vatayaṃ ayyā pattikā paridhāvati.  

6342. Sau khi nhìn thấy người phụ nữ có ưu điểm đi đến, các nàng hầu đã vây quanh (nói rằng): “Quả thật vị phu nhân thanh nhã này đi lại bằng đôi chân (của bà)!”

251. Nhìn thấy vương phi dáng tốt lành
Ðàn bà xúm lại đứng vây quanh:
- Bà phu nhân ấy trông hiền dịu
Sao phải đi chân suốt lộ trình?

6343. Vayhāhi pariyāyitvā sivikāya ca khattiyā, sājja maddī araññasmiṃ pattikā paridhāvati.  

6343. Sau khi đã di chuyển bằng các phương tiện chuyên chở và bằng kiệu khiêng, hôm nay, vị nữ Sát-đế-lỵ, nàng Maddī ấy đi lại trong khu rừng bằng đôi chân (của nàng)!

252. Ngày xưa trên võng kiệu, vương xa,
Bà mệnh phụ kia được rước ra,
Nay lúc Mad-dì đành rảo bước,
Nơi nàng cư trú: chốn rừng già.

6344. Taṃ disvā cetapāmokkhā rodamānā upāgamuṃ, kaccinnu deva kusalaṃ kacci deva anāmayaṃ,
kacci pitā arogā te sivīnañca anāmayaṃ.  

6344. Sau khi nhìn thấy vị Vessantara ấy, các lãnh tụ xứ Ceta đã đi đến gần, nức nở (nói rằng): “Tâu bệ hạ, phải chăng ngài được an khang? Phải chăng ngài được vô sự? Phải chăng phụ thân của ngài được vô bệnh, và xứ Sivi được vô sự?

253-254. Vương tộc Ce-ta đến yết kiến ngài
Tất cả đều khóc lóc, thở than hoài:
- Chúng thần kính chào ngài, tâu Chúa thượng,
Chúng thần tin ngài an khang, thịnh vượng.
Còn giang sơn cùng với đại phụ vương
Mong ngài đem mọi tin tức cát tường.

6345. Ko te balaṃ mahārāja ko nu te rathamaṇḍalaṃ, anassako arathako dīghamaddhānamāgato,
kacci nāmittehi pakato anuppattosimaṃ disaṃ.  

6345. Tâu đại vương, quân đội của ngài đâu? Cỗ vương xa của ngài đâu rồi? Ngài đã đi đường xa đến không có ngựa, không có cỗ xe. Phải chăng ngài đã bị các kẻ thù tấn công, rồi ngài đã đến được địa phương này?”

255-256. Quân sĩ của ngài đâu, tâu Chúa tể,
Và ở đâu chiếc vương xa oai vệ?
Không ngựa xe, ngài cất bước hành trình,
Có phải chăng ngài đi đến một mình
đã bị đám quân thù đánh bại?

6346. Kusalaṃ ceva me sammā atho sammā anāmayaṃ, atho pitā arogo me sivīnañca anāmayaṃ.  

6346. “Này các thân hữu, tôi được an khang. Này các thân hữu, tôi được vô sự. Còn phụ thân của tôi được vô bệnh, và xứ Sivi được vô sự.

257. Xin cám ơn các ngài đầy ưu ái,
Hãy bình tâm: ta thịnh vượng, khang an,
Về phụ vương và quốc độ giang sơn
Ta có đủ tin lành đem thông cáo.

6347. Ahaṃ hi kuñjaraṃ dappaṃ īsādantaṃ urūḷhavaṃ, khettaññuṃ sabbayuddhānaṃ sabbasetaṃ gajuttamaṃ.

6347, 6348, 6349. Bởi vì tôi đã bố thí đến các vị Bà-la-môn con voi thông minh, có ngà như cán cày, xứng đáng để cỡi, biết được địa thế của mọi chiến trường, con voi hạng nhất, toàn màu trắng, được choàng lên tấm len màu vàng cam, đã phát dục, có (khả năng) nghiền nát đối phương, có ngà, có cây quạt lông đuôi bò, màu trắng, tương tự như núi Kelāsa, có chiếc lọng màu trắng, có tấm đệm ngồi, có y sĩ chăm sóc, có viên quản tượng, là phương tiện di chuyển cao quý dành để chuyên chở đức vua.

258. Ta đã tặng con voi là quốc bảo
Có ngà dài, toàn trắng, thật tốt lành,
Ðã bao lần thắng trận lúc giao tranh.

6348. Paṇḍukambalasañchannaṃ pabhinnaṃ sattumaddanaṃ, dantiṃ savāḷavījaniṃ setaṃ kelāsasādisaṃ.

259. Với quạt đuôi trâu rừng và ngọc thạch,
Ðã dẫm tan bao đám quân thù địch.
Thật hung hăng, dài thẳng tắp đôi ngà,
Trắng ngần như núi tuyết Ke-là-sa.

6349. Sasetacchattaṃ saupatheyyaṃ sāthabbanaṃ sahatthipaṃ, aggayānaṃ rājavāhiṃ brāhmaṇānaṃ adāsahaṃ.

260. Lọng trắng, cân đai xứng ngôi chúa thượng,
Với đám quân hầu cùng người quản tượng,
Bảo vật này ta đã lấy phát phân.

6350. Tasmiṃ me sivayo kuddhā pitā ca upahato mano, avaruddhati maṃ rājā vaṅkaṃ gacchāmi pabbataṃ, okāsaṃ sammā jānātha vane yattha vasāmase.

6350. Các người dân xứ Sivi giận dữ với tôi về việc này, và phụ hoàng có ý bực mình. Đức vua ép buộc tôi, và tôi đi đến núi Vaṅka. Này các thân hữu, hãy tìm cho một khoảng trống ở khu rừng mà chúng tôi có thể cư ngụ.”

261 -262. Vì thế toàn dân ta đã hận sân,
Và vương phụ xem đây là lầm lỗi.
Do việc kia, ta bị ngài xua đuổi,
Bây giờ ta đi đến Vạn-cổ Sơn,
Xin các ngài cho biết chỗ náu nương.

6351. Svāgatante mahārāja atho te adurāgataṃ, issarosi anuppatto yaṃ idhatthi pavedaya.

6351. “Tâu đại vương, chào mừng ngài đã ngự đến, và việc ngài đã đi đến không gặp khó khăn! Ngài hãy biết rằng ngài là vị chúa tể đã đạt đến vị thế dành cho ngài ở nơi này.

263. Xin đừng nghi ngờ, cung nghênh Chúa thượng,
Xin ngự trị đây, tùy nghi thọ hưởng,

6352. Sākaṃ bhisaṃ madhuṃ maṃsaṃ suddhaṃ sālinamodanaṃ, paribhuñja mahārāja pāhuno nosi āgato.

6352. Tâu đại vương, xin ngài hãy thọ dụng rau cải, ngó sen, mật ong, thịt, cơm gạo lúa sāli thuần khiết. Ngài đã đến và là khách của chúng tôi.”

264. Dùng mật ong, cỏ thuốc, thịt, gạo ngon
Chọn món nào trắng nhất, loại cao lương,
Tùy thánh ý, ngài sẽ là khách quý.

6353. Paṭiggahitaṃ yaṃ dinnaṃ sabbassa agghiyaṃ kataṃ, avaruddhati maṃ rājā vaṅkaṃ gacchāmi pabbataṃ, okāsaṃ sammā jānātha vane yattha vasāmase.  

6353. “Hãy để tôi nhận lãnh vật bố thí quý giá đã được làm ra của tất cả các vị. Nhưng đức vua ép buộc tôi, và tôi sẽ đi đến núi Vaṅka. Này các thân hữu, hãy tìm cho một khoảng trống ở khu rừng mà chúng tôi có thể cư ngụ.”

265-266. Ðây ta nhận quà trao từ các vị,
Xin cảm ơn về thiện chí tràn đầy,
Nhưng phụ vương đã tống xuất giờ đây
Ta đi đến vùng núi đồi Vạn-cổ,
Xin các ngài chỉ ta nơi cư trú.

6354. Idheva tāva acchassu cetaraṭṭhe rathesabha, yāva cetā gamissanti rañño santika yācituṃ,
nijjhāpetuṃ mahārājaṃ sivīnaṃ raṭṭhavaḍḍhanaṃ.  

6354. “Tâu đấng thủ lãnh xa binh, xin ngài hãy ở lại ngay tại nơi này, ở đất nước Ceta, trong lúc các người dân xứ Ceta sẽ đi đến để yêu cầu trực tiếp với đức vua, để giải bày với đại vương, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi.

267. Xin Ðại vương ở lại xứ Ce-ta
Cho đến khi dâng sớ tấu đức vua
Si-vi quốc điều chúng thần biết được!

6355. Taṃ taṃ cetā purakkhatvā patītā laddhapaccayā, parivāretvāna gacchanti evaṃ jānāhi khattiya.  

6355. Sau khi tôn vinh ngài đây, được sung sướng với nhân duyên đã đạt, các người dân xứ Ceta sẽ tập hợp lại và sẽ ra đi, tâu vị Sát-đế-lỵ, xin ngài nhận biết như vậy.”

268. Lúc ấy dân đi theo ngài lũ lượt
Hộ tống ngài, đầy tin tưởng hân hoan,
Ðiều này thần xin thông báo Ðại vương.

6356. Mā vo ruccittha gamanaṃ rañño santika yācituṃ, nijjhāpetuṃ mahārājaṃ rājā tattha na issaro.  

6356. “Chớ vui thích việc ra đi của các vị để yêu cầu trực tiếp với đức vua, để giải bày với đại vương. Đức vua ở nơi ấy không phải là vị chúa tể.

269. Ta không muốn nhờ các ngài dâng sớ
Trình phụ vương nơi đây ta cư trú,
Trong việc này, ngài không phải vua đâu,
Ta e rằng ngài không có quyền cao.

6357. Accuggatā hi sivayo balatthā negamā ca ye, te padhaṃsetumicchanti rājānaṃ mama kāraṇā.  

6357. Các đạo quân và các thị dân xứ Sivi quả thật vô cùng giận dữ. Bọn họ muốn truất phế vua bởi vì việc làm của tôi.”

270. Triều thần và dân thị thành căm phẫn
Tụ họp nhau, mọi người đầy kích động
Bởi vì ta, chúng có thể hại vua.

6358. Sace esā pavattettha raṭṭhasmiṃ raṭṭhavaḍḍhana, idheva rajjaṃ kārehi cetehi parivārito.

6358. “Nếu việc đó đã xảy ra ở đất nước ấy, tâu vị làm hưng thịnh đất nước, xin ngài hãy trị vì vương quốc ngay tại nơi này, ngài được các người dân xứ Ceta ủng hộ.

271. Nếu trong xứ kia có thể xảy ra
Một sự việc đầy kinh hoàng như thế,
Ngài được dân xứ Ce-ta hộ vệ,
Xin ở đây và làm bậc Ðại vương.

6359. Iddhaṃ phītañcidaṃ raṭṭhaṃ iddho janapado mahā, matiṃ karohi tvaṃ deva rajjassamanusāsituṃ.

6359. Đất nước này giàu có và phồn thịnh, là xứ sở giàu có và rộng lớn. Tâu bệ hạ, xin ngài hãy thực hiện ý định chỉ đạo vương quốc.”

272. Ðất nước này đang thịnh vượng, phú cường
Với dân chúng thật hào hùng, vĩ đại,
Cầu xin ngài hãy quyết tâm ở lại
Với chúng thần và cai trị quốc gia.

6360. Na me chando mati atthi rajjassamanusāsituṃ, pabbājitassa raṭṭhasmā cetaputtā suṇātha me.

6360. “Hỡi các con dân xứ Ceta, hãy lắng nghe tôi. Tôi đã bị trục xuất ra khỏi đất nước, tôi không có ước muốn hay ý định chỉ đạo vương quốc.

273. - Hãy nghe ta! Các vương tử Ce-ta
Ta không có ý mong cầu ở lại,
Vì ta đi như một người bị đuổi,
Chẳng đến đây cầm quyền lực quân vương,

6361. Atuṭṭhā sivayo assu balatthā negamā ca ye, pabbājitassa raṭṭhasmā cetā rajjebhisecayuṃ.

6361. Các đạo quân và các thị dân xứ Sivi có thể không vui, nếu các người dân xứ Ceta làm lễ phong vương cho kẻ đã bị trục xuất ra khỏi đất nước.

274. Dân Si-vi tất cả sẽ bất bằng
Biết các ngài tôn ta làm Thiên tử,
Trong khi ta bị đày ra khỏi xứ.

6362. Asammodiyampi vo assa accantaṃ mama kāraṇā, sivīnaṃ bhaṇḍanañcāpi viggaho me na ruccati.

6362. Sẽ có sự bất hòa trầm trọng giữa các vị bởi vì việc làm của tôi, và còn có sự gây gỗ của những người dân xứ Sivi; sự cãi vã không được tôi ưa thích.

275. Nếu các ngài muốn thực hiện điều này,
Sẽ là điều thật bất hạnh từ đây:
Gây tranh chấp với Si-vi dân chúng,
Ta không thích đấu tranh và căm hận.

6363. Athassa bhaṇḍanaṃ ghoraṃ sampahāro anappako, ekassa kāraṇā mayhaṃ hiṃseyyuṃ bahuke jane.

6363. Rồi sẽ có sự gây gỗ khủng khiếp, sự xung đột không phải là ít. Bởi vì việc làm của một mình tôi mà nhiều người có thể bị hãm hại.

6364. Paṭiggahitaṃ yaṃ dinnaṃ sabbassa agghiyaṃ kataṃ, avaruddhati maṃ rājā vaṅkaṃ gacchāmi pabbataṃ, okāsaṃ sammā jānātha vane yattha vasāmase.  

6364. Hãy để tôi nhận lãnh vật bố thí quý giá đã được làm ra của tất cả các vị. Nhưng đức vua ép buộc tôi, và tôi sẽ đi đến núi Vaṅka. Này các thân hữu, hãy tìm cho một khoảng trống ở khu rừng mà chúng tôi có thể cư ngụ.”

276-277. Ðây ta nhận quà do các vị trao
Xin cám ơn thiện chí biết dường nào,
Nhưng từ nay vua đuổi ta khỏi xứ,
Ta ra đi đến vùng đồi Vạn-cổ,
Xin các ngài hãy nói rõ cho ta,
Một nơi đâu có thể gọi là nhà.

6365. Taggha te mayamakkhāma yathāpi kusalā tathā, rājisī yattha sammanti āhutaggī samāhitā.  

6365. “Đương nhiên, chúng tôi thông báo cho ngài tùy theo khả năng. Hãy để cho các vị ẩn sĩ của hoàng gia được an ổn ở nơi mà các ngọn lửa tế thần đã được tập trung lại.

278. - Vâng, chúng thần xin trình tâu Chúa tể
Làm cách nào một vị vua xuất thế
Nhờ lửa thiêng được an tịnh, tốt lành,
Mọi sự đều trôi êm ả, thanh bình.

6366. Esa selo mahārāja pabbato gandhamādano, yattha tvaṃ saha puttehi saha bhariyāya vacchasi.  

6366. Tâu đại vương, kia là ngọn núi đá Gandhamādana, là nơi mà ngài cùng với hai con và người vợ sẽ cư ngụ.”

279. Gan-dha-mà, tâu Ðại vương, núi đá
Là nơi ngài cùng vợ con cư trú.6367. Taṃ cetā anusāsiṃsu assunettā rudammukhā,
ito gaccha mahārāja ujuṃ yenuttarāmukho.  

6367. Các người dân xứ Ceta với cặp mắt ứa lệ, với khuôn mặt đầy nước mắt, đã chỉ dẫn cho vị ấy rằng: “Tâu đại vương, từ đây, ngày hãy đi thẳng, về phía hướng Bắc.

280. Dân Ce-ta với vẻ mặt thảm sầu
Tất cả đều tuôn chảy những dòng châu,
Khuyên Ðại vương đi thẳng đường phương Bắc,
Nơi các đỉnh núi non cao chất ngất.

6368. Atha dakkhisi bhaddante vipulaṃ nāma pabbataṃ, nānādumagaṇākiṇṇaṃ sītacchāyaṃ manoramaṃ.

6368. Thưa ngài, rồi ngài sẽ nhìn thấy ngọn núi tên Vipula, có các cây cối khác loại mọc dày đặc, có bóng râm mát mẻ, làm thích ý.

281. Nơi kia ngài thấy núi Vi-pu-la,
(Cầu phúc lành đi sát cạnh vương gia),
Ðầy lạc thú với nhiều cây xanh ngắt
Ðang đổ xuống dưới kia bao bóng mát.

6369. Tamatikkamma bhaddante atha dakkhisi āpakaṃ, nadiṃ ketumatiṃ nāma gambhīraṃ girigabbharaṃ.

6369, 6370. Sau khi đã vượt qua nơi ấy, thưa ngài, rồi ngài sẽ nhìn thấy chỗ nước xoáy, có dòng sông tên là Ketumatī sâu thẳm, chảy ra từ hang núi, đông đúc với những loài cá lớn vảy, có bến tắm xinh đẹp, và có nhiều nước. Ngài hãy tắm, uống nước, và thư giãn tại nơi ấy cùng với các con.

282. Khi đến nơi, ngài sẽ thấy bên mình
(Cầu chúc ngài lần nữa được phúc lành)
Ke-tu-ma, dòng nước sâu thăm thẳm
Tuôn chảy ra từ ngọn đồi vô tận.

6370. Puthulomamacchākiṇṇaṃ supatitthaṃ mahodikaṃ, tattha nahātvā pivitvā ca assāsetvā ca puttake.

283. Ðầy cá, tôm, nơi trú ngụ bình an,
Dòng nước sâu kia tuôn chảy tràn lan,
Ngài sẽ uống, tắm, chơi cùng con cái.

6371. Atha dakkhisi bhaddante nigrodhaṃ madhuvipphalaṃ, rammake sikhare jātaṃ sītacchāyaṃ manoramaṃ.

6371. Thưa ngài, rồi ngài sẽ nhìn thấy cây sung có trái ngọt đã được mọc lên ở đỉnh đồi đáng yêu, có bóng râm mát mẻ, làm thích ý.

284. Và nơi kia, trên ngọn đồi khả ái,
Bóng mát che, ngài sẽ thấy trĩu đầy
Trái cây thơm như mật ngọt ngào thay,
Thật hùng vĩ một cây đa đại thọ.

6372. Atha dakkhisi bhaddante nālikaṃ nāma pabbataṃ, nānādijagaṇākiṇṇaṃ selaṃ kimpurisāyutaṃ.

6372. Thưa ngài, rồi ngài sẽ nhìn thấy ngọn núi tên là Nālika được đông đúc với những bầy chim khác loại, là tảng núi đá được loài nhân điểu lui tới.

285. Ngài sẽ thấy núi Na-li-ka nọ
Và đó là vùng đất của quỷ thần,
Nơi bầy chim cất tiếng hót hòa âm,
Nhiều ma quái, lắm sơn thần ẩn nấp.

6373. Tassa uttarapubbena mucalindo nāma so saro, puṇḍarīkehi sañchanno setasogandhiyehi ca.

6373. Về phía đông bắc của tảng núi đá, hồ nước ấy có tên là Mucalinda, được bao phủ bởi các bông sen trắng và bởi các bông súng trắng.

286. Từ đó đi xa hơn về phía Bắc
Là đến hồ tên gọi Mu-ca-linh
Bao phủ đầy loài sen súng trắng xanh.

6374. So vanaṃ meghasaṅkāsaṃ dhuvaṃ haritasaddalaṃ, sīhovāmisapekkhīva vanasaṇḍaṃ vigāhaya, puppharukkhehi sañchannaṃ phalarukkhehi cūhabhaṃ.

6374. Ngài đây, tựa như con sư tử có sự quan sát con mồi, đã đi sâu vào khu rừng rậm, là khu rừng tương tự như đám mây, thường xuyên có lớp cỏ xanh bao phủ, được bao phủ bởi cả hai loại: các cây cho hoa và các cây ăn trái.

287-288. Kế đó cánh rừng dày như mây phủ,
Bước chân lên giống như trên thảm cỏ,
Cây đầy hoa và trái nặng trĩu cành
Ở trên đầu che bóng mát tàng xanh,
Hãy vào đó: sự rình mồi mong ngóng
Bắt con thịt và ăn tươi nuốt sống.

6375. Tattha bindussarā vaggu nānāvaṇṇā bahū dijā, kūjantamupakūjanti utusampupphite dume.  

6375. Tại nơi ấy, ở thân cây đã được nở rộ hoa lúc vào mùa, nhiều con chim có màu sắc khác nhau có giọng hót tròn trịa, có âm thanh ngọt ngào, cất tiếng hót hòa theo con chim đang hót.

289. Nơi kia khi rừng nở rộ ngàn hoa,
Nghe rạt rào muôn vạn tiếng chim ca,
Tiếng líu lo ở khắp nơi đây đó
Của bao cánh chim rừng màu rực rỡ.

6376. Gantvā girividuggānaṃ nadīnaṃ pabhavāni ca, so dakkhasi pokkharaṇiṃ karañjakakudhāyutaṃ.  

6376, 6377. Sau khi đi đến các khe núi hiểm trở và các ngọn nguồn của những dòng sông, ngài sẽ nhìn thấy hồ sen có mọc nhiều loại cây karañja và cây kakudha, được đông đúc với những loài cá lớn vảy, có bến tắm xinh đẹp, có nhiều nước, có bốn cạnh bằng nhau, tốt lành, không có mùi khó chịu.

290. Nếu ngài đi theo ngọn thác dần dần
Cho đến khi lên tận chốn suối nguồn,
Ngài sẽ thấy một hồ hoa sen phủ
Với các loài hoa chen nhau đua nở.

6377. Puthulomamacchākiṇṇaṃ supatitthaṃ mahodikaṃ, samañca caturassañca sādhuṃ appaṭigandhiyaṃ.  

291. Ðầy cá tôm, nơi trú ngụ an thân
Dòng nước kia sâu thăm thẳm vô cùng
Bền vững, thanh bình, tỏa mùi thơm dịu,
Chẳng hơi nồng nặc làm ta khó chịu,

6378. Tassā uttarapubbena paṇṇasālaṃ amāpaya, paṇṇasālaṃ amāpetvā uñchācariyāya īhatha.  

6378. Về phía đông bắc của hồ nước ấy, ngài hãy tạo dựng gian nhà lá. Sau khi đã tạo dựng gian nhà lá, ngài hãy cố gắng trong việc thu nhặt củ quả để mưu sinh.

292. Nơi kia ngài xây dựng một thảo đường
Hơi nghiêng về một chút hướng Bắc phương,
Và từ am tranh ngài sắp xây cất,
Ngài hãy bước lên đường tìm lương thực.

Vanappavesanakhaṇḍaṃ niṭṭhitaṃ.

Phẩm Đi Vào Rừng được hoàn tất.

6379. Ahū vāsī kaliṅgesu jūjako nāma brāhmaṇo, tassāsi daharā bhariyā nāmenāmittatāpanā.  

6379. Có lão Bà-la-môn tên Jūjaka cư ngụ ở xứ Kaliṅga. Ông ấy có người vợ trẻ tên là Amittatāpanā.

293. Ngày xưa ở Kà-lin-ga,
Jù-jà-ka chính tên Bà-la-môn,
Sống đây với vợ còn son
A-mit-ta ấy vẫn còn xuân xanh.

6380. Tā naṃ tattha gatāvocuṃ nadīudakahārikā, thiyo naṃ paribhāsiṃsu samāgantvā kutūhalā.  

6380. Các phụ nữ đội nước ở ngôi làng ấy, sau khi đi đến dòng sông, đã nói về nàng ấy. Những người nữ có tánh bộp chộp, sau khi tụ tập lại, đã mắng nhiếc nàng ấy rằng:

294. Bọn đàn bà nọ mang bình
Xuống sông chửi rủa chính danh của nàng,
Cố làm ô nhục hồng nhan,
Cả bầy tụ tập, dọc ngang quây quần:

6381. Amittā nūna te mātā amitto nūna te pitā, ye taṃ jiṇṇassa pādaṃsu evaṃ dahariyaṃ satiṃ.  

6381. “Mẹ của cô chắc chắn là không thương cô, cha của cô chắc chắn là không thương cô. Họ đã gã cô cho lão già, trong khi cô đang còn trẻ như vậy.

295. - Mẹ cô quả thật "cừu nhân",
Và cha cô nữa cũng đồng "oan gia"
Ðể cho một lão già nua
Cưới xin vợ trẻ như cô nõn nường!

6382. Ahitaṃ vata te ñātī mantayiṃsu rahogatā, ye taṃ jiṇṇassa pādaṃsu evaṃ dahariyaṃ satiṃ.  

6382. Các thân quyến của cô quả thật không có lợi ích! Họ đã kín đáo bàn bạc. Họ đã gã cô cho lão già, trong khi cô đang còn trẻ như vầy.

296. Nhà cô mưu kế gì chăng,
Âm mưu hèn hạ bạo tàn xấu xa!
Ép duyên cô gái còn tơ
Gả cho ông lão già nua lòm khòm.

6383. Dukkaraṃ vata te ñātī mantayiṃsu rahogatā, ye taṃ jiṇṇassa pādaṃsu evaṃ dahariyaṃ satiṃ.  

6383. Các thân quyến của cô quả thật có hành động sai trái! Họ đã kín đáo bàn bạc. Họ đã gã cô cho lão già, trong khi cô đang còn trẻ như vầy.

6384. Pāpakaṃ vata te ñātī mantayiṃsu rahogatā, ye taṃ jiṇṇassa pādaṃsu evaṃ dahariyaṃ satiṃ.  

6384. Các thân quyến của cô quả thật là độc ác! Họ đã kín đáo bàn bạc. Họ đã gã cô cho lão già, trong khi cô đang còn trẻ như vầy.

6385. Amanāpaṃ vata te ñātī mantayiṃsu rahogatā, ye taṃ jiṇṇassa pādaṃsu evaṃ dahariyaṃ satiṃ.

6385. Các thân quyến của cô quả thật không được vừa ý! Họ đã kín đáo bàn bạc. Họ đã gã cô cho lão già, trong khi cô đang còn trẻ như vầy.

6386. Amanāpavāsaṃ vasasi jiṇṇena patinā saha, yā tvaṃ vasasi jiṇṇassa matante jīvitā varaṃ.  

6386. Cô sống cuộc sống không được vừa ý với người chồng già nua. Cô đây sống với lão già, cái chết đối với cô còn quý hơn mạng sống.

297. Đời cô quả thật chán chường
Trong khi cô vẫn còn đang nõn nà,
Kết duyên với một lão già,
Ôi thôi, chết quách cũng là tốt hơn!

6387. Na hi nūna tuyhaṃ kalyāṇi pitā mātā ca sobhane, aññaṃ bhattāraṃ vindiṃsu ye taṃ jiṇṇassa pādaṃsu, evaṃ dahariyaṃ satiṃ.  

6387. Này mỹ nữ, này người đẹp, phải chăng cha và mẹ đã không tìm kiếm cho cô người chồng khác? Họ đã gã cô cho lão già, trong khi cô đang còn trẻ như vầy.

298. Hỡi cô xinh đẹp, rõ ràng
Mẹ cha cô quả bất nhân quá chừng,
Nếu như con gái còn xuân
Họ không tìm được một chàng rể xinh.

6388. Duyyiṭṭhaṃ te navamiyaṃ akataṃ aggihuttakaṃ, ye taṃ jiṇṇassa pādaṃsu evaṃ dahariyaṃ satiṃ.  

6388. Việc tế lễ vào ngày mồng chín của cô sẽ được cúng hiến qua loa, việc tế thần lửa của cô sẽ không được thực hiện. Họ đã gã cô cho lão già, trong khi cô đang còn trẻ như vầy.

299. Lễ dâng lửa, lễ tế sinh
Sau ngày sinh nhật hóa thành uổng công,
Nếu như cô gái còn xuân
Bị đưa làm vợ một ông già khòm.

6389. Samaṇe brāhmaṇe nūna brahmacariyaparāyaṇe, sā tvaṃ loke abhisapi sīlavante bahussute, yā tvaṃ vasasi jiṇṇassa evaṃ dahariyaṃ satiṃ. 

6389. Phải chăng cô đây, ở thế gian, đã sỉ vả các vị Sa-môn, các vị Bà-la-môn có sự nương tựa vào Phạm hạnh, có giới hạnh, có kiến thức? (Kết quả là) cô đây sống với lão già, trong khi cô đang còn trẻ như vầy.

300-301. Hẳn nhà khổ hạnh La-môn
Hay là ẩn sĩ đa văn, thiện hiền,
Không còn cấu uế trần duyên
Bị cô phỉ báng rủa nguyền hay chăng?
Nếu như cô gái còn xuân
Bị đưa làm vợ một ông già khòm.

6390. Na dukkhaṃ ahinā daṭṭhaṃ na dukkhaṃ sattiyā hataṃ, tañca dukkhañca tippañca yaṃ passe jiṇṇakaṃ patiṃ.

6390. Bị rắn cắn không khổ, bị gươm đâm không khổ, nhưng khổ sở và đau đớn khi nhìn thấy người chồng già nua.

302. Như dao đâm thật đau lòng,
Như là nọc rắn cháy nồng đốt thiêu,
Song còn đau khổ hơn nhiều
Khi nhìn ông lão tiêu điều tả tơi!

6391. Natthi khiḍḍā natthi ratī jiṇṇena patinā saha, natthi allāpasallāpo jagghitampi na sobhati.

6391. Không có sự vui đùa, không có sự khoái lạc cùng với người chồng già nua, không có chuyện trò trao đổi, thậm chí nụ cười cũng không rạng rỡ.

303. Với chồng đã quá già rồi
Còn gì thích thú vui cười nữa đâu?
Chuyện trò chẳng chút vui nào,
Khi cười, lão cũng nhăn nheo khó nhìn!

6392. Yadā ca daharo daharā mantayanti rahogatā, sabbesaṃ sokā nassanti ye keci hadayanissitā.

6392. Vào lúc chàng trai và cô gái chuyện trò ở nơi vắng vẻ, tất cả các nỗi sầu muộn ẩn náu ở trong tim của hai người đều tiêu tan.

304. Gái trai độ tuổi thanh niên,
Sống cùng nhau chốn tư riêng thắm nồng
Dứt ngay mọi nỗi đau buồn
Vẫn còn tiềm ẩn trong lòng vấn vương.

6393. Daharā tvaṃ rūpavatī purisānaṃ abhipatthitā, gaccha ñātikule accha kiṃ jiṇṇo ramayissati.

6393. Cô trẻ trung, có sắc đẹp, được các nam nhân mong ước. Cô hãy bỏ đi và hãy ở nhà của các thân quyến, lão già sẽ tạo được điều gì vui sướng?”

305. Cô là con gái còn xuân
Xinh tươi, được đám đàn ông mơ hoài,
Thế sao ông lão già rồi
Làm cô thích thú? Hãy lui về nhà!

6394. Na te brāhmaṇa gacchāmi nadiṃ udakahāriyā, thiyo maṃ paribhāsanti tayā jiṇṇena brāhmaṇa.

6394. “Này ông Bà-la-môn, tôi không đi đến dòng sông mang nước về cho ông nữa. Này ông Bà-la-môn, các người đàn bà mắng nhiếc tôi bởi vì ông già cả.”

306. Tôi không lấy nước về nhà,
Ðằng kia một đám đàn bà cười tôi,
Vì chồng tôi quá già rồi,
Họ luôn chế nhạo lúc tôi ra ngoài.

6395. Mā me tvaṃ akarā kammaṃ mā me udakamāhari, ahaṃ udakamāhissaṃ mā bhoti kupitā ahu.

6395. “Nàng chớ làm công việc cho tôi nữa, chớ mang nước về cho tôi nữa. Tôi sẽ mang nước về. Phu nhân chớ có nổi giận.”

307. Nàng không cần lấy nước hoài,
Nàng không cần phục vụ tôi thế này.
Nàng ôi, đừng giận dỗi vầy,
Vì tôi sẽ lấy nước thay cho nàng.

6396. Nāhaṃ tamhi kule jātā yaṃ tvaṃ udakamāhare, evaṃ brāhmaṇa jānāhi na te vacchāmahaṃ ghare.

6396. “Ở gia tộc mà tôi sanh ra không có việc ông phải đi mang nước về. Tôi sẽ không ở trong nhà của ông nữa, này ông Bà-la-môn, ông hãy biết như vậy.

308. Chàng đi lấy nước? Không màng!
Ðó không phải cách thông thường thế gian.
Tôi xin nói thật rõ ràng:
Nếu chàng làm vậy, tôi chàng chia tay.

6397. Sace me dāsaṃ dāsiṃ vā nānayisassi brāhmaṇa, evaṃ brāhmaṇa jānāhi na te vacchāmi santike.

6397. Này ông Bà-la-môn, nếu ông không dẫn về đứa tôi trai hoặc đứa tớ gái cho tôi, tôi sẽ không ở bên cạnh ông nữa, này ông Bà-la-môn, ông hãy biết như vậy.”

309. Ngoại trừ mua một nô tài,
Hoặc là tỳ nữ làm ngay việc này,
Tôi xin nói rõ chàng hay:
Tôi thề, không ở lại đây với chàng.

6398. Natthi me sippaṭṭhānaṃ vā dhanaṃ dhaññañca brāhmaṇiṃ, kutohaṃ dāsaṃ dāsiṃ vā ānayissāmi bhotiyā, ahaṃ bhotiṃ upaṭṭhissaṃ mā bhoti kupitā ahu.  

6398. “Này nữ Bà-la-môn, tôi không có căn bản nghề nghiệp, tài sản, hoặc lúa gạo, từ đâu tôi sẽ dẫn về đứa tôi trai hoặc đứa tớ gái cho phu nhân? Tôi sẽ phục vụ phu nhân. Phu nhân chớ có nổi giận.”

310. Làm sao mua nổi tiểu đồng?
Tôi không nghề ngỗng, bạc vàng, thóc ngô.
Thôi đừng giận dỗi, liễu bồ,
Tôi đi làm việc gia nô của nàng.

6399. Ehi te ahamakkhissaṃ yathā me vacanaṃ sutaṃ, esa vessantaro rājā vaṅke vasati pabbate.  

6399. “Ông hãy đến, tôi sẽ thuật lại cho ông y như lời nói tôi đã nghe được: Vị vua Vessantara ấy cư ngụ ở núi Vaṅka.

311. Giờ tôi muốn nói với chàng
Những lời nghe được dân làng nói ra:
Ðằng kia trên đỉnh Vam-ka
Có vì vua Ves-san-ta lưu đày.

6400. Taṃ tvaṃ gantvāna yācassu dāsaṃ dāsiṃ ca brāhmaṇa, so te dassati yācito dāsaṃ dāsiñca khattiyo.  

6400. Này ông Bà-la-môn, ông hãy đi đến và cầu xin vị ấy đứa tôi trai và đứa tớ gái. Được cầu xin, vị Sát-đế-lỵ ấy sẽ cho đứa tôi trai và đứa tớ gái đến ông.”

312. Giờ chàng hãy vội đi ngay,
Xin ngài cho được một tay tiểu đồng,
Vương gia chắc chắn bằng lòng
Ban chàng những thứ chàng mong ước mà.

6401. Jiṇṇohamasmi abalo dīgho caddhā suduggamo, mā bhotī paridevesī mā ca tvaṃ vimanā ahu, ahaṃ bhotiṃ upaṭṭhissaṃ mā bhoti kupitā ahu.

6401. “Tôi già cả, yếu sức, và đoạn đường đi thì dài, vô cùng hiểm trở. Xin phu nhân chớ than vãn, và xin phu nhân chớ có ưu tư. Tôi sẽ phục vụ phu nhân. Phu nhân chớ có nổi giận.”

313 - 314. Tôi đây lụ khụ quá già,
Lòng e lắm nỗi đường xa gập ghềnh,
Xin đừng than khóc buồn tình,
Nay tôi chẳng có thân mình dẻo dai,
Nhưng đứng giận dỗi, nàng ôi,
Tôi nguyền làm việc chính tôi sẵn lòng.

6402. Yathā agantvā saṅgāmaṃ ayuddhova parājito, evameva tuvaṃ brahme agantvāva parājito.

6402. “Giống như người chưa đi đến chiến trường, còn chưa chiến đấu, mà đã bị thua trận, tương tự y như thế, này ông Bà-la-môn, ông còn chưa đi mà đã đầu hàng.

315. Chàng sao chẳng khác tên quân
Trước khi ra trận đầu hàng, lý do?
Và chàng đành phải chịu thua
Trước khi ra trận và so thử tài?

6403. Sace me dāsaṃ dāsiṃ vā nānayissasi brāhmaṇa, evaṃ brāhmaṇa jānāhi na te vacchāmahaṃ ghare, amanāpaṃ te karissāmi taṃ te dukkhaṃ bhavissati.

6403. Này ông Bà-la-môn, nếu ông không dẫn về đứa tôi trai hoặc đứa tớ gái cho tôi, tôi sẽ không ở trong nhà của ông nữa, này ông Bà-la-môn, ông hãy biết như vậy. Tôi sẽ làm điều không vừa ý đối với ông, điều ấy sẽ là nỗi khổ đau cho ông.

316 - 317. Ngoại trừ mua một nô tài,
Hoặc là tỳ nữ làm ngay việc này.
Tôi xin nói rõ chàng hay
Tôi thề không ở lại đây với chàng,
Chuyện này quả thật đáng buồn,
Ðó là một chuyện đau thương cho chàng.

6404. Nakkhatte utupabbesu yadā maṃ dakkhasilaṅkataṃ, aññehi saddhiṃ ramamānaṃ taṃ te dukkhaṃ bhavissati.

6404. Vào những dịp lễ hội theo thời tiết liên quan đến các vì tinh tú, lúc ông nhìn thấy tôi, đã được trang điểm, đang vui sướng cùng với những người nam khác, điều ấy sẽ là nỗi khổ đau cho ông.

318. Nhìn tôi hạnh phúc ngập tràn
Trong tay của một tình lang khác rồi,
Áo quần lộng lẫy thắm tươi,
Theo mùa thay đổi, trăng trời chuyển luân.

6405. Adassanena mayhaṃ te jiṇṇassa paridevato, bhīyo vaṅkā ca palitā bahū hessanti brāhmaṇa.

6405. Trong khi ông bị già nua và than vãn do việc không nhìn thấy tôi, này ông Bà-la-môn, lưng sẽ còng hơn và nhiều sợi tóc bạc sẽ xuất hiện.”

319. Khi chàng năm tháng tàn dần,
Còn tôi vắng bóng, chàng buồn khóc than,
Tóc chàng sẽ bạc trắng ngần,
Mặt chàng sẽ gấp bội phần nếp nhăn!

6406. Tato so brāhmaṇo bhīto brāhmaṇiyā vasānugo, aṭṭito kāmarāgena brāhmaṇiṃ etadabravī.

406. Do đó, lão Bà-la-môn ấy bị sợ hãi, bị khốn khổ bởi sự luyến ái trong các dục, có sự phục tùng người nữ Bà-la-môn, đã nói với người nữ Bà-la-môn điều này:

320. Và bây giờ lão La-môn
Lòng đầy sợ hãi phục tuân ý nàng,
Bị nàng hành hạ nát tan,
Ta nghe lão phải vội vàng nói năng:

6407. Pātheyyaṃ me karohi tvaṃ saṅkulyā saguḷāni ca, madhupiṇḍikā ca sukatāyo sattubhattañca brāhmaṇi.

6407. “Này nữ Bà-la-môn, nàng hãy chuẩn bị lương thực đi đường cho tôi gồm các kẹo mè và các bánh bột đường, các cục mật đã được khéo làm và giỏ thức ăn.

321. - Cho tôi thực phẩm đi đường,
Làm cho tôi bánh mật ngon ngọt ngào,
Làm thêm lương thực khô nào,
Bánh mì lúa mạch nướng mau trên lò.

6408. Ānayissaṃ methunake ubhe dāsakumārake, te taṃ paricarissanti rattindivamatanditā.

6408. Tôi sẽ dẫn về hai đứa trẻ trai làm nô lệ có cùng dòng dõi với nàng. Chúng sẽ hầu cận nàng ngày đêm không biếng nhác.”

322. Thế rồi một cặp gia nô
Có cùng đẳng cấp với cô đem về,
Bọn này mệt mỏi chẳng hề,
Ngày đêm phục vụ cận kề ái nương.

6409. Idaṃ vatvā brahmabandhu paṭimuñci upāhanā, tato so mantayitvāna bhariyaṃ katvā padakkhiṇaṃ.

6409. Sau khi nói lời này, lão Bà-la-môn đã mang đôi giày vào. Sau đó, lão ấy đã dặn dò và đi nhiễu quanh người vợ.

323. Việc này xong, lão La-môn
Mang giày rồi lại đứng lên tức thì
Ði vòng quanh ả nữ nhi
Nghiêng về phía hữu chia ly vợ mình.

6410. Pakkāmi so ruṇṇamukho brāhmaṇo sahitabbato, sivīnaṃ nagaraṃ phītaṃ dāsapariyesanaṃ caraṃ.  

6410. Với khuôn mặt đẫm lệ, với dáng vẻ đạo sĩ khổ hạnh, lão Bà-la-môn ấy, trong khi thực hiện việc tìm kiếm tôi tớ, đã đi đến thành phố phồn thịnh của xứ Sivi.

324. Ra đi khoác áo tu hành
Lệ rơi lả tả quanh vành mắt y,
Vội vàng đến nước Si-vi,
Kinh đô trù phú tìm về gia nô.

6411. So tattha gantvā avaca ye tatthāsuṃ samāgatā, kuhiṃ vessantaro rājā kattha passemu khattiyaṃ.  

6411. Sau khi đi đến nơi ấy, lão Bà-la-môn ấy đã nói với những người đã tụ tập tại nơi ấy rằng: “Đức vua Vessantara ở đâu? Chúng tôi có thể tìm gặp vị Sát-đế-lỵ ở nơi nào?”

325-326. Lão đi đến tận nơi xa,
Hỏi thăm dân chúng vào ra quây quần:
- Xin cho tôi biết Ðại vương
Ves-san-ta ấy tìm phương hướng nào?

6412. So jano taṃ avacāsi ye tatthāsuṃ samāgatā, tumhehi brahme pakato atidānena khattiyo, pabbājito sakā raṭṭhā vaṅke vasati pabbate.  

6412. Đám dân chúng ấy, những người đã tụ tập tại nơi ấy, đã nói với lão ấy rằng: “Này Bà-la-môn, bị các ngươi quấy rầy với sự bố thí quá mức, vị Sát-đế-lỵ đã bị trục xuất ra khỏi đất nước của mình và cư ngụ ở núi Vaṅka.

Ðáp ngay cho lão đôi câu,
Ðám đông tụ họp cùng nhau trả lời:

327. - Ngài đành phải chịu tàn đời
Chỉ vì bố thí lũ tồi như ngươi,
Ngài vừa bị đuổi đi rồi
Ra ngoài xứ sở, đến đồi Vam-ka.

6413. Tumhehi brahme pakato atidānena khattiyo, ādāya puttadārañca vaṅke vasati pabbate.

6413. Này Bà-la-môn, bị các ngươi quấy rầy với sự bố thí quá mức, vị Sát-đế-lỵ đã mang theo vợ con và cư ngụ ở núi Vaṅka.”

328. Ngài đành phải chịu tiêu ma
Chỉ vì bố thí lũ tà như ngươi,
Ngài vừa bị đuổi đi rồi,
Ðem con vợ đến ở đồi Vam-ka.

6414. So codito brāhmaṇiyā brāhmaṇo kāmagiddhimā, aghaṃ taṃ patisevittha, vane vāḷamigākiṇṇe khaggadīpinisevite.

6414. Bị thúc giục bởi nữ Bà-la-môn, lão Bà-la-môn ấy, có sự tham đắm dục vọng, đã theo đuổi sự sai lầm ấy, ở trong khu rừng đông đúc các thú dữ, được lai vãng bởi loài tê giác và loài báo.

329. Lão kia bị vợ rầy la
Do niềm tham dục bùng ra hoành hành,
Chuộc sai lầm ở rừng xanh
Nơi loài hổ báo thường rình mồi săn.

6415. Ādāya beluvaṃ daṇḍaṃ aggihuttaṃ kamaṇḍaluṃ, so pāvisi brahāraññaṃ yattha assosi kāmadaṃ.

6415. Mang theo cây gậy bằng gỗ beluva, chiếc muỗng tế thần lửa, và cái bình đựng nước, lão ấy đã đi vào khu rừng rộng lớn, nơi lão đã nghe về vị bố thí theo ước muốn.

330. Tay cầm gậy, bát xin ăn,
Muỗng làm tế lễ, vào rừng hoang sơ,
Nơi đây là chốn ẩn cư
Của người bố thí đúng như ý mình.

6416. Taṃ paviṭṭhaṃ brahāraññaṃ kokā naṃ parivārayuṃ, vikkandi so vippanaṭṭho dūre panthā apakkami.

6416. Khi lão ấy đã đi vào khu rừng rộng lớn, các con chó sói đã vây quanh lão ấy. Lão đã kêu thét lên. Bị lạc lối, lão ấy càng đi ra xa khỏi con đường.

331. Một khi vào tận rừng xanh
Từng bầy chó sói vây quanh con đường,
Nhảy quàng xiêng lão La-môn,
Rồi đi hốt hoảng lạc đường nào hay.

6417. Tato so brāhmaṇo gantvā bhogaluddo asaññato, vaṅkassoharaṇe naṭṭho, [sunakhehi parivārito rukkhasmiñca nisinnova]; imā gāthā abhāsatha.

6417. Sau đó, lão Bà-la-môn ấy, bị tham đắm của cải, không tự kiềm chế, đã lạc mất con đường dẫn đến núi Vaṅka. [Bị những con chó vây quanh, lão đã ngồi ở trên cây.] Lão đã nói lên những lời kệ này:

332. La-môn lắm dục vọng này,
Lòng tham buông thả, thấy ngay lạc loài
Ðường lên Vạn - cổ mất rồi,
Bắt đầu thăm hỏi những lời dò la:

6418. Ko rājaputtaṃ nisabhaṃ jayantamaparājitaṃ, bhaye khemassa dātāraṃ ko me vessantaraṃ vidū.

6418. “Người nào cho ta biết về vị thái tử hạng nhất, bậc chiến thắng (tâm bỏn xẻn), không bị khuất phục? Người nào cho ta biết về Vessantara, vị bố thí sự bình an cho kẻ bị sợ hãi?

333. -Ai cho biết Ves-san-ta,
Ông hoàng chiến thắng mọi vua trên đời,
Người ban an lạc đúng thời,
Vị vua vĩ đại, hùng oai trên trần?

6419. Yo yācataṃ patiṭṭhāsi bhūtānaṃ dharaṇīriva, dharaṇūpamaṃ mahārājaṃ ko me vessantaraṃ vidū.

6419. Người nào cho ta biết về Vessantara, vị đại vương ví như quả đất? Người này là nơi nâng đỡ của những kẻ đang cầu xin, tựa như quả đất là nơi nâng đỡ của các chúng sanh.

334. Nơi an trú kẻ cầu ân,
Như đất lành với muôn dân sinh thành?
Nào ai sẽ nói cho mình
Ves-san-ta Chúa quang vinh, hùng cường?

6420. Yo yācataṃ gatī āsi savantīnaṃva sāgaro, udadhūpamaṃ mahārājaṃ ko me vessantaraṃ vidū.

6420. Người nào cho ta biết về Vessantara, vị đại vương ví như biển cả? Người này là điểm đến của những kẻ đang cầu xin, tựa như đại dương là điểm đến của các dòng sông.

335. Mọi người mong muốn cầu ân
Tìm ngài như biển mọi sông đổ vào,
Nào ai nói với ta mau
Ves-san-ta Chúa tối cao hùng cường?

6421. Kalyāṇatitthaṃ sucimaṃ sītūdakaṃ manoramaṃ, puṇḍarīkehi sañchannaṃ yuttaṃ kiñjakkhareṇunā,
rahadūpamaṃ mahārājaṃ ko me vessantaraṃ vidū.

6421. Người nào cho ta biết về Vessantara, vị đại vương ví như hồ nước, có bến tắm xinh đẹp, trong sạch, có nước mát, làm thích ý, được che phủ bởi các bông sen trắng, được gắn liền với tua nhụy và phấn hoa?

336 - 337. Như hồ lạc thú an toàn,
Nước trong mát lạnh ngập tràn nhấp nhô,
Súng sen giăng trải lô xô,
Ngó tơ bao phủ mặt hồ lặng thinh,
Nào ai sẽ bảo cho mình
Ves-san-ta Chúa quang vinh hùng cường?

6422. Assatthaṃva pathe jātaṃ sītacchāyaṃ manoramaṃ, santānaṃ vissametāraṃ kilantānaṃ paṭiggahaṃ, tathūpamaṃ mahārājaṃ ko me vessantaraṃ vidū.  

6422. Tựa như cây sung mọc ở đường lộ, có bóng mát, làm thích ý, là nơi nghỉ dưỡng của những người bị mệt mỏi, là nơi tiếp đón những người bị mệt nhọc, người nào cho ta biết về Vessantara, vị đại vương ví như thế ấy?

338 - 339. Như cây sung lớn bên đường,
Mọc lên làm chốn nghỉ chân an toàn
Dành cho lữ khách nhọc nhằn
Vội vàng đi đến dưới tàn lá xanh,
Nào ai sẽ bảo cho mình
Ves-san-ta Chúa quang vinh hùng cường?

6423. Nigrodhaṃva pathe jātaṃ sītacchāyaṃ manoramaṃ, santānaṃ vissametāraṃ kilantānaṃ paṭiggahaṃ,
tathūpamaṃ mahārājaṃ ko me vessantaraṃ vidū.

6423. Tựa như cây đa mọc ở đường lộ, có bóng mát, làm thích ý, là nơi nghỉ dưỡng của những người bị mệt mỏi, là nơi tiếp đón những người bị mệt nhọc, người nào cho ta biết về Vessantara, vị đại vương ví như thế ấy?

6424. Ambaṃ iva pathe jātaṃ sītacchāyaṃ manoramaṃ, santānaṃ vissametāraṃ kilantānaṃ paṭiggahaṃ, tathūpamaṃ mahārājaṃ ko me vessantaraṃ vidū.

6424. Tựa như cây xoài mọc ở đường lộ, có bóng mát, làm thích ý, là nơi nghỉ dưỡng của những người bị mệt mỏi, là nơi tiếp đón những người bị mệt nhọc, người nào cho ta biết về Vessantara, vị đại vương ví như thế ấy?

340 - 341. Như xoài, hoặc cây bàng
Mọc làm thành chốn bên đường nghỉ chân
Dành cho lữ khách nhọc nhằn
Vội vàng đi đến dưới tàn lá xanh,
Nào ai sẽ báo cho mình
Ves-san-ta Chúa quang vinh hùng cường?

6425. Sālaṃ iva pathe jātaṃ sītacchāyaṃ manoramaṃ, santānaṃ vissametāraṃ kilantānaṃ paṭiggahaṃ,
tathūpamaṃ mahārājaṃ ko me vessantaraṃ vidū.

6425. Tựa như cây sāla mọc ở đường lộ, có bóng mát, làm thích ý, là nơi nghỉ dưỡng của những người bị mệt mỏi, là nơi tiếp đón những người bị mệt nhọc, người nào cho ta biết về Vessantara, vị đại vương ví như thế ấy?

6426. Dumaṃ iva pathe jātaṃ sītacchāyaṃ manoramaṃ, santānaṃ vissametāraṃ kilantānaṃ paṭiggahaṃ, tathūpamaṃ mahārājaṃ ko me vessantaraṃ vidū.  

6426. Tựa như cội cây mọc ở đường lộ, có bóng mát, làm thích ý, là nơi nghỉ dưỡng của những người bị mệt mỏi, là nơi tiếp đón những người bị mệt nhọc, người nào cho ta biết về Vessantara, vị đại vương ví như thế ấy?

6427. Evañca me vilapato paviṭṭhassa brahāvane, ahaṃ jānanti yo vajjā nandiṃ so janaye mamaṃ.  

6427. Và trong lúc than van như vậy, ta đã đi vào khu rừng rộng lớn. Người nào có thể nói rằng: ‘Tôi biết (chỗ ngụ của Vessantara),’ người ấy tạo ra nỗi vui mừng cho ta.’

342. Nào ai nghe tiếng ta than
Chung quanh toàn cả rừng hoang hãi hùng?
Lòng ta xiết đỗi vui mừng
Nếu ai cho biết vương quân nơi nào.

6428. Evañca me vilapato paviṭṭhassa brahāvane, ahaṃ jānanti yo vajjā (vessantaranivesanaṃ ), tāya so ekavācāya pasave puññaṃ anappakaṃ.  

6428. Và trong lúc than van như vậy, ta đã đi vào khu rừng rộng lớn. Người nào có thể nói rằng: ‘Tôi biết (chỗ ngụ của Vessantara),’ với một lời nói ấy, người ấy có thể tạo nên phước báu không phải là ít.”

343. Chung quanh toàn cả rừng sâu,
Ai nghe ta thở than nào có hay?
Hân hoan hạnh phúc lắm thay
Nếu ai cho biết ngài rày nơi nao?

6429. Tassa ceto paṭissosi araññe luddako caraṃ, tumhehi brahme pakato atidānena khattiyo, pabbājito sakā raṭṭhā vaṅke vasati pabbate.  

6429. Có gã thợ săn người xứ Ceta đang đi trong rừng đã đáp lại lão ấy rằng: “Này Bà-la-môn, bị các ngươi quấy rầy với sự bố thí quá mức, vị Sát-đế-lỵ đã bị trục xuất ra khỏi đất nước của mình và cư ngụ ở núi Vaṅka.

344 - 345. Thợ săn ngang dọc rừng hoang,
Lắng nghe lời lão thở than, nói rằng:
- Ngài đành phải chịu tiêu vong
Chỉ vì bố thí những phường như ngươi,
Ngài vừa bị đuổi đi rồi,
Ra ngoài xứ sở đến đồi Vam-ka!

6430. Tumhehi brahme pakato atidānena khattiyo, ādāya puttadārañca vaṅke vasati pabbate.  

6430. Này Bà-la-môn, bị các ngươi quấy rầy với sự bố thí quá mức, vị Sát-đế-lỵ đã mang theo vợ con và cư ngụ ở núi Vaṅka.346. Ngài đành phải chịu tiêu ma
Chỉ vì bố thí lũ tà như ngươi,
Ngài vừa bị đuổi đi rồi,
Ðem vợ con đến ở đồi Vam-ka.

6431. Akiccakārī dummedho raṭṭhā vivanamāgato, rājaputtaṃ gavesanto bako macchamivodake.

6431. Kẻ ngu muội, không có làm phận sự gì, đã rời khỏi đất nước đi vào rừng tìm kiếm vị thái tử, tựa như con cò đang tìm bắt cá ở vũng nước.

347. Ðồ ngu vô dụng quả là,
Nếu ngươi mong muốn bỏ nhà ra đây,
Ðể tìm vương tử rừng này
Như con hạc kiếm cá bầy giữa sông.

6432. Tassa tyāhaṃ na dassāmi jīvitaṃ idha brāhmaṇa, ayaṃ hi te mayā nunno saro pāssati lohitaṃ.  

6432. Này Bà-la-môn, ta sẽ không ban cho lão đây còn mạng sống ở nơi này, bởi vì mũi tên này, được ta bắn ra, sẽ uống máu của lão.

348. Thế thì đây, hỡi tôn ông,
Mạng kia của lão, ta không tha vầy,
Tên ta sẽ hút máu đầy
Khi ta bắn nó từ cây cung dài.

6433. Siro te vajjhayitvāna hadayaṃ chetvā sabandhanaṃ, panthasakuṇaṃ yajissāmi tuyhaṃ maṃsena brāhmaṇa.  

6433. Mũi tên, sau khi giết chết lão, sẽ cắt đứt trái tim cùng với thớ thịt. Này Bà-la-môn, ta sẽ cúng tế loài chim ở con đường bằng thịt của lão.

349. Rồi ta sẽ chẻ đầu ngươi,
Xé tim gan ấy tức thời tại đây,
Như chim cúng lễ thần cây,
Ta làm thịt lão giờ đây tế thần.

6434. Tuyhaṃ maṃsena medena matthakena ca brāhmaṇa, āhutiṃ paggahessāmi chetvāna hadayaṃ tava.

6434. Này Bà-la-môn, ta sẽ cắt đứt trái tim của lão, rồi dâng lên làm vật cúng tế cùng với phần thịt, phần mỡ, và cái đầu của lão.

350. Rồi ta lấy thịt, mỡ, gân,
Lấy đầu, tim lão đủ phần thiếu chi,
Lão thành tế vật tức thì
Ngay khi lão mới ra đi lìa dời.

6435. Taṃ me suyiṭṭhaṃ suhutaṃ tuyhaṃ maṃsena brāhmaṇa, na ca tvaṃ rājaputtassa bhariyaṃ putte ca nessasi.  

6435. Này Bà-la-môn, khi trái tim ấy đã khéo được hiến dâng, đã khéo được cúng tế cùng với thịt của lão, lão sẽ không dẫn đi vợ và các con của vị thái tử.”

451. Lão là lễ vật đáng mời,
Lễ dâng đàn tế tuyệt vời ước mong,
Về sau lão chẳng còn hòng
Tìm đường hãm hại vợ con của ngài.

6436. Avajjho brāhmaṇo dūto cetaputta suṇohi me, tasmā hi dūtaṃ na hananti esa dhammo sanantano.

6436. “Này cậu trai xứ Ceta, hãy lắng nghe ta. Vị Bà-la-môn là người sứ giả, không được giết hại. Chính vì thế, người ta không giết sứ giả; điều này là quy luật cổ xưa.

352. Sứ thần ai cũng kiêng oai,
Không ai được phép giết người sứ quân,
Ðây là qui luật ngàn năm,
Nếu ông muốn, hãy chú tâm nghe này:

6437. Nijjhattā sivayo sabbe pitā naṃ daṭṭhumicchati, mātā ca dubbalā tassa acirā cakkhūni jīyare.

6437. Mọi người dân Sivi đã suy nghĩ lại. Phụ hoàng muốn gặp vị ấy, và mẫu hậu của ngài ấy yếu sức, không bao lâu nữa cặp mắt sẽ hư hoại.

353. Thần dân hối hận lắm thay,
Vua cha thương nhớ suốt ngày lo âu,
Mẹ ngài mòn mỏi ưu sầu,
Mắt bà đang hóa ra mau mờ dần.

6438. Tesāhaṃ pahito dūto cetaputta suṇohi me, rājaputtaṃ nayissāmi yadi jānāsi saṃsa me.

6438. Ta là người sứ giả đã được họ phái đi. Này cậu trai xứ Ceta, hãy lắng nghe ta. Ta sẽ đưa vị thái tử đi. Nếu ngươi biết, ngươi hãy chỉ cho ta.”

354. Ðến đây ta chính sứ thần
Ðem về Chúa tể Ves-san-ta này,
Hãy nghe, cho lão biết vầy
Nơi đâu có thể tìm ngài Chúa công.

6439. Piyassa me piyo dūto puṇṇapattaṃ dadāmi te,imañca madhuno tumbaṃ migasatthiñca brāhmaṇa,
tañca te desamakkhissaṃ yattha sammati kāmado.

6439. “Lão là vị sứ giả yêu quý của người mà ta yêu quý. Này Bà-la-môn, ta sẽ cho lão được thành tựu trọn vẹn, cùng với hũ mật ong này và đùi thịt nai. Ta sẽ nói cho lão về khu vực ấy, nơi mà vị bố thí theo ước muốn cư ngụ.”

355-356. Ta yêu vương tử, sứ thần,
Và đây ta có để phần tặng ông
Món quà thân thiện đón mừng:
Ðùi nai cùng hũ mật ong ngọt ngào;
Ân nhân tìm kiếm cách nào
Ta đây sẽ nói làm sao bây giờ.

Jūjakapabbaṃ niṭṭhitaṃ.

Đoạn Về Bà-la-môn Jūjaka được hoàn tất.

6440. Esa selo mahābrahme pabbato gandhamādano, yattha vessantaro rājā saha puttehi sammati.

6440. “Này vị Bà-la-môn vĩ đại, kia là ngọn núi đá Gandhamādana, là nơi đức vua Vessantara cư ngụ cùng với hai con.

357. Ðạo sĩ ôi, núi đằng xa,
Gan-dha-mà ấy chính là Hương Sơn,
Nơi Ves-san-ta Ðại vương
Hiện đang sống với vợ con một đoàn.

6441. Dhārento brāhmaṇaṃ vaṇṇaṃ āsadañca masaṃ jaṭaṃ, cammavāsī chamā seti jātavedaṃ namassati.

6441. Vị ấy đang khoác vào bộ dạng Bà-la-môn, mang móc câu và muỗng tế thần lửa, tóc bện, mặc y phục da thú, nằm trên đất, tôn thờ thần lửa.

358. Với y của bậc La-môn,
Bát, thìa, tóc bện, đạo nhân khác nào,
Khoác thêm một tấm da vào,
Ngài nằm trên đất, châm cao lửa hồng.

6442. Ete nīlā padissanti nānāphaladharā dumā, uggatā abbhakūṭaṃ va nīlā añjanapabbatā.

6442. Những nơi màu xanh ngắt được nhìn thấy kia là những giống cây mang các trái khác loại, và những ngọn núi của giống cây añjana, có màu xanh um, được vươn lên tận đỉnh của đám mây.

359. Cây đằng xa đó, kìa trông,
Trĩu cành sai quả xanh um sườn đồi,
Trong khi đỉnh núi cao vời
Thẫm đen đến tận mây trời ẩn thân.

6443. Dhavassakaṇṇā khadirā sālā phandanamāluvā, sampavedhanti vātena sakiṃ pītāva māṇavā.  

6443. Các loại cây dhava, cây long thọ, cây nhục quế, cây sāla, các giống dây leo run rẩy, đung đưa theo làn gió, tựa như những chàng trai trẻ lảo đảo một khi đã uống say.

360. Bụi sal, tai ngựa, cát đằng,
Cùng nhiều cây khác nhẹ nhàng chuyển rung
Khác nào một đám túy ông
Lắc lư trong gió, người trông thấy hoài.

6444. Upari dumapariyāyesu saṃgītiyova sūyare, najjuhā kokilasaṅghā sampatanti dumā dumaṃ.  

6444. Ở phía trên những hàng cây, tựa như có những cuộc hòa nhạc được nghe tiếng. Các con chim najjuha, các bầy chim cu cu (líu lo) bay nhảy từ cây này sang cây khác.

361. Trên cao các dãy cây trời
Bầy chim hòa nhạc đồng thời ca vang,
Naj-ju, cu gáy từng đàn
Chuyền từ cây nọ nhẹ nhàng lướt nhanh.

6445. Avhayanteva gacchantaṃ sākhāpaṇṇasameritā, ramayanteva āgantuṃ modayanti nivāsinaṃ,
yattha vessantaro rājā saha puttehi sammati.

6445. Các chiếc lá của những cành cây được lay động tựa như mời gọi người đang đi đến, tựa như làm cho khách đi đến được vui thích, khiến người trú ngụ được hài lòng; nơi ấy đức vua Vessantara cư ngụ cùng với hai con.

362-363. Chen nhau giữa đám lá cành
Chim mời khách lạ, hoan nghênh đón mừng,
Làm vui lòng mọi thế nhân
Tìm nhà an trú giữa rừng hoang sơ,
Nơi kia cùng với con thơ,
Ves-san-ta chúa ẩn cư xuất trần.

6446. Dhārento brāhmaṇaṃ vaṇṇaṃ āsadañca masañjaṭaṃ, cammavāsī chamā seti jātavedaṃ namassati.  

6446. Vị ấy đang khoác vào bộ dạng Bà-la-môn, mang móc câu và muỗng tế thần lửa, tóc bện, mặc y phục da thú, nằm trên đất, tôn thờ thần lửa.

364. Với y của bậc La-môn
Bát, thìa, tóc bện, đạo nhân khác nào,
Khoác thêm một tấm da vào,
Ngài nằm trên đất, châm cao lửa hồng.

6447. Ambā kapitthā panasā sālā jambū vibhītakā, harītakī āmalakā assatthā badarāni ca. 

6447. (Ở tại nơi này) có các cây xoài, các cây táo rừng, các cây mít, các cây sāla, các cây mận, các cây vibhītaka, các cây harītakī, các cây āmalakā, các cây sung, và các cây táo ta.

365. Hồng đào, xoài mít thơm nồng,
Mận mơ đủ loại lòng thòng, Sà-la,
Tin-dook vàng ánh, cây đa,
Cùng nhiều cây khác hiện ra cây bàng.

6448. Cāru timbarukkhā cettha nigrodhā ca kapitthanā, madhu madhukā thevanti nīce pakkā cudumbarā.

6448. Và ở tại nơi này có các cây timba xinh đẹp, các cây đa, và các cây táo rừng, các cây madhuka có vị ngọt chiếu sáng, và các cây sung có trái chín ở chỗ thấp.

366. Lắm cây sung, vả trên ngàn
Toàn thân mọc thấp, chín thơm ngọt ngào,

6449. Pārevatā bhaveyyā ca muddikā ca madhutthikā, madhuṃ anelakaṃ tattha sakamādāya bhuñjare.

6449. Các cây pārevata, các cây chuối có trái dài, các cây nho, và các tổ mật ong. Tại nơi ấy, có thể tự mình lấy mật ong tinh khiết và thọ dụng.

Chà là, nho tuyệt diệu sao,
Tổ ong mật, hãy ăn vào thỏa thuê.

6450. Aññettha pupphitā ambā aññe tiṭṭhanti domilā, aññe āmā ca pakkā ca bhekavaṇṇā tadūbhayaṃ.

6450. Ở tại nơi này, có một số cây xoài đã được trổ bông, một số khác tồn tại và đã được kết trái, một số khác có trái còn non và đã chín, cả hai (loại trái còn non và đã chín) có màu sắc như của con nhái.

367. Vài cây xoài mới trổ hoa,
Vài cây có trái nhú ra đúng mùa,
Một vài trái đã chín vừa,
Trái xanh như ếch, trái chưa chín vàng.

6451. Athettha heṭṭhā puriso ambapakkāni gaṇhati, āmāni ceva pakkāni vaṇṇagandharasuttame.

6451. Và ở nơi này, con người đứng ở bên dưới hái những trái xoài chín. Những trái chín và luôn cả những trái còn non là hạng nhất về màu sắc, mùi thơm, và hương vị.

368. Người nào đứng dưới cây rừng
Hái bao nhiêu quả cây dâng đón mời,
Sắc hương, mùi vị tuyệt vời,
Dù chưa chín, hoặc chín rồi đều phô.

6452. Ateva me acchariyaṃ hiṅkāro paṭibhāti maṃ, devānamiva āvāso sobhati nandanūpamo.

6452. Quả thật là điều quá sức kỳ diệu đối với tôi! Tiếng kêu ‘Ủa’ lóe lên ở tôi. Chỗ ngụ chiếu sáng như là của chư Thiên, tương tự khu vườn Nandana.

369. Ôi! Làm ta phải la to
Khi nhìn cảnh tượng bao la, phi thường
Khác nào khung cảnh thiên đường,
Nơi thần tiên ở, khu vườn Lạc hoan.

6453. Vibhedikā nāḷikerā khajjurīnaṃ brahāvane, mālāva ganthitā ṭhanti dhajaggāneva dissare,
nānāvaṇṇehi pupphehi nabhaṃ tārācitāmiva.

6453. Ở khu rừng rộng lớn của những cây chà là, có các cây lá cọ và các cây dừa đứng thẳng, tựa như những tràng hoa đã được kết lại, được nhìn thấy tựa như những cây cờ hiệu, với những bông hoa có nhiều màu sắc khác nhau tựa như các chòm sao điểm tô bầu trời.

370-371. Cọ, dừa, thốt nốt tràn lan
Trên cao nguyên của núi ngàn hoang sơ,
Muôn hoa dăng chuỗi kết tua
Khác nào lễ hội ngọn cờ tung cao,
Hoa kia có đủ sắc màu
Giống như ngàn vạn vì sao điểm trời.

6454. Kuṭajī kuṭṭhatagarā pāṭaliyo ca pupphitā, punnāgā giripunnāgā koviḷārā ca pupphitā.

6454. Các cây kuṭaji, các cây kuṭṭha, các cây tagara, và các cây pāṭalī đã được trổ hoa. Các cây nguyệt quế, các cây nguyệt quế núi, và các cây koviḷārā đã được trổ hoa.

372. Gụ, đàn hương mọc khắp nơi
Cùng nhiều cây khác không lời diễn ra,
Cây dâu, cây dẻ, phượng hoa
Mọc dày chi chít chen đua la đà.

6455. Uddālakā somarukkhā agarubhalliyo bahū, puttajīvā ca kakudhā asanā cettha pupphitā.  

6455. Các cây bả đậu, các cây soma, các cây kỳ nam, và các cây bhallī là có nhiều. Các cây puttajīva, các cây kakudha, và các cây asana ở nơi này đã được trổ hoa.

6456. Kuṭajā salalā nīpā kosambalabujā dhavā, sālā ca pupphitā tattha palālakhalasannibhā. 

6456. Các cây kuṭaja, các cây salala, các cây nīpa, các cây kosamba, các cây sa kê, các cây dhava, và các câysāla đã được trổ hoa ở tại nơi ấy, tương tự như những đống rơm.

6457. Tassāvidūre pokkharaṇī bhūmibhāge manorame, padumuppalasañchannā devānamiva nandane.  

6457. Không xa khu rừng ấy, ở vùng đất làm cho thích ý, có một cái hồ được che phủ bởi các giống sen hồng và sen xanh, tựa như (hồ nước Nandā) ở khu vườn Nandana của chư Thiên.

373. Gần bên có một cái hồ,
Súng sen xanh trắng tràn bờ phủ lên,
Khác nào vườn các thần tiên
Chính tên là cảnh Lạc Viên trên trời.

6458. Athettha puppharasamattā kokilā mañjubhāṇikā, abhinādenti pavanaṃ utusampupphite dume.  

6458. Rồi ở nơi này, tại thân cây đã được nở rộ hoa lúc vào mùa, các con chim cu cu có giọng hót du dương, bị ngất ngây bởi mật của các bông hoa, làm vang động khu rừng.

374. Sơn ca, cu gáy hót hoài
Làm cho khắp mọi sườn đồi âm vang,
Ðắm say vì các hoa ngàn
Nở ra theo đúng mùa màng quanh năm.

6459. Bhassanti makarandehi pokkhare pokkhare madhū, athettha vātā vāyanti dakkhiṇā atha pacchimā,
padumakiñjakkhareṇūhi okiṇṇo hoti assamo.  

6459. Những giọt mật với các bụi phấn hoa nhỏ xuống ở mỗi chiếc lá sen. Rồi ở nơi này, có các làn gió thổi từ hướng nam rồi từ hướng tây; khu ẩn cư được rải rắc bởi bụi phấn từ tua nhụy của các hoa sen.

375-376. Hãy nhìn mật ngọt âm thầm
Rơi rơi từng giọt trên tàn sen thưa,
Và nghe ngọn gió đong đưa
Lướt đi nhè nhẹ từ bờ tây nam
Ðến khi tất cả phấn hương
Ðược mang theo gió tỏa lan ngát trời.

6460. Thūlā siṅghāṭakā cettha saṃsādiyā pasādiyā, macchakacchapavyāviddhā bahū cettha mupayānakā, madhuṃ bhiṃsehi savati khīraṃ sappi mulālihi.  

6460. Ở nơi này, có các cây siṅghāṭaka thô kệch, các giống lúa tự nhiên saṃsādiyā và pasādiyā. Và ở nơi này, có nhiều con cua di chuyển cùng với các con cá và rùa. Có mật ngọt tiết ra từ các củ sen, rồi sữa và bơ lỏng tiết ra từ các rễ sen.

377-378. Biết bao dâu, lúa chín muồi
Mọc quanh vùng ấy thường rơi xuống hồ,
Từng đàn cua, cá, trạnh, rùa
Phóng vào tìm kiếm say sưa miệt mài,
Mật rơi như thể sữa tươi,
Như bơ từ đám hoa cười mênh mang.

6461. Surabhi taṃ vanaṃ vāti nānāgandhasameritaṃ, sammaddateva gandhena pupphasākhāhi taṃ vanaṃ, bhamarā pupphagandhena samantāmabhināditā.  

6461. Có mùi thơm ngát thổi vào khu rừng ấy, hòa quyện cùng với các hương thơm khác loại. Khu rừng ấy dường như làm cho con người say đắm với hương thơm, với những cành hoa. Các con ong kêu vo ve ở khắp các nơi bởi mùi thơm của các bông hoa.

379. Từng làn gió nhẹ đưa ngang
Cỏ cây đủ loại mùi hương diệu huyền,
Hình như rừng rậm quanh miền
Ðắm say với đám hoa trên núi đồi.

380-381. Bầy ong bay lượn khắp nơi
Vo ve quanh quẩn theo mùi hoa thơm,

6462. Athettha sakuṇā santi nānāvaṇṇā bahū dijā, modanti saha bhariyāhi aññamaññaṃ pakūjino.  

6462. Rồi ở nơi này, còn có những con chim, gồm nhiều loài chim có các màu sắc khác nhau. Chúng vui đùa cùng với các con chim mái, hót líu lo với nhau. Bầy chim đủ sắc bay cùng
Líu lo, chiêm chiếp trong lòng hân hoan
Nhiều chim cùng bạn lượn vòng:

6463. Nandikā jīvaputtā ca jīvaputtā ca piyā ca no, piyā puttā piyā nandā dijā pokkharaṇīgharā.  

6463. Có bốn loài chim làm tổ cạnh hồ nước, có bốn tiếng hót khác nhau, chúc mừng vị Vessantara sống vui vẻ, hạnh phúc cùng với hai con yêu dấu.

382. - Chích chích, chép chép, vui mừng biết bao!
Chim kêu ríu rít lao xao:
- Bạn yêu, bạn quý, bạn trao ân tình!

6464. Mālāva ganthitā ṭhanti dhajaggāneva dissare, nānāvaṇṇehi pupphehi kusalehi sugandhikā,
yattha vessantaro rājā saha puttehi sammati.  

6464. Tựa như những tràng hoa đã được kết lại đứng thẳng, tựa như những cây cờ hiệu được nhìn thấy, với những bông hoa có nhiều màu sắc khác nhau được kết lại khéo léo bởi các tay thợ thiện xảo, nơi ấy đức vua Vessantara cư ngụ cùng với hai con.

383 - 384. Muôn hoa dăng chuỗi viền quanh
Như khi cờ xí tung hoành lượn bay,
Hoa đầy màu sắc đẹp thay,
Hương thơm ngào ngạt thoảng bay xa gần,
Nơi kia cùng với đàn con,
Ves-san-ta Chúa ẩn thân xuất trần.

6465. Dhārento brāhmaṇaṃ vaṇṇaṃ āsadaṃ ca masañjaṭaṃ, cammavāsī chamā seti jātavedaṃ namassati.

6465. Vị ấy đang khoác vào bộ dạng Bà-la-môn, mang móc câu và muỗng tế thần lửa, tóc bện, mặc y phục da thú, nằm trên đất, tôn thờ thần lửa.”

385. Với y của bậc La- môn,
Bát, thìa, tóc bện, đạo nhân khác nào,
Khoác thêm một tấm da vào,
Ngài nằm trên đất, châm cao lửa hồng.

6466. Idañca me sattubhattaṃ madhunā paṭisaṃyutaṃ, madhupiṇḍikā ca sukatāyo sattubhattaṃ dadāmi te.  

(Lời Bà-la-môn Jūjaka)

6466. “Đây là phần ăn lúa mạch của ta, đã được trộn đều với mật ong, và các cục mật ong đã khéo được vo lại. Ta biếu ngươi phần ăn lúa mạch của ta.”

386. Nhận đây bánh lúa mạch non
Thảy đều được nhúng mật ong ngọt ngào.
Nhiều viên bánh mật khéo sao,
Ta nay đem biếu ông nào ăn đi.

6467. Tuyheva sambalaṃ hotu nāhaṃ icchāmi sambalaṃ, itopi brahme gaṇhāhi gaccha brahme yathāsukhaṃ.  

6467. “Hãy để lại phần ăn đi đường cho chính ông. Tôi không cần phần ăn đi đường. Này vị Bà-la-môn, ông hãy bắt đầu từ đây. Này vị Bà-la-môn, ông hãy đi một cách thoải mái.

387. Cám ơn, tôi chẳng cần gì,
Giữ phần lương thực mà đi đường dài.
Lấy thêm lương thực tôi mời,
Rồi xin Ðạo sĩ đến nơi ông cần.

6468. Ayaṃ ekapadī eti ujuṃ gacchati assamaṃ, isīpi accuto tattha paṅkadanto rajassiro,
dhārento brāhmaṇaṃ vaṇṇaṃ āsadañca masañjaṭaṃ.  

6468. Lối đi bộ này đi đến, đi thẳng đến khu ẩn cư. Tại nơi ấy, còn có vị ẩn sĩ Accuta, có răng bị đóng bợn, có đầu lấm bụi, đang khoác vào bộ dạng Bà-la-môn, mang móc câu và muỗng tế thần lửa, tóc bện.

388. Thẳng lên về phía thảo đường,
Lộ trình nơi ấy dẫn ông đến nhà
Ẩn nhân là Ac-ca-ta,
Răng đen, đầu bẩn, ly gia xuất trần.

6469. Cammavāsī chamā seti jātavedaṃ namassati, taṃ tvaṃ gantvāna pucchassu so te maggaṃ pavakkhati.  

6469. Vị ấy, mặc y phục da thú, nằm trên đất, tôn thờ thần lửa. Ông hãy đi đến và hỏi vị ấy. Vị ấy sẽ chỉ đường cho ông.”389 - 390. Với y của bậc La-môn,
Bát, thìa, tóc bện, đạo nhân khác nào,
Khoác thêm một tấm da vào,
Ngài nằm trên đất, châm cao lửa hồng.
Ðến kia, và hỏi con đường,
Rồi ngài sẽ chỉ cho tường, Tôn ông.

6470. Idaṃ sutvā brahmabandhu cetaṃ katvā padakkhiṇaṃ,udaggacitto pakkāmi yenāsi accuto isi.

6470. Nghe xong điều này, vị thân quyến của đấng Brahmā đã đi nhiễu quanh người thợ săn xứ Ceta, rồi với tâm phấn khởi, đã khởi hành đi đến nơi vị ẩn sĩ Accuta đang ở.

391. Ðiều này nghe được vừa xong,
Lão quay bên phải, đi vòng Ce-ta,
Rồi đi tìm Ac-ca-ta,
Con tim rộn rã chan hòa hân hoan.

Cūḷavanavaṇṇanā niṭṭhitā.

Phần Mô Tả Khu Rừng Nhỏ được hoàn tất.

6471. Gacchanto so bhāradvājo addasa accutaṃ isiṃ, disvāna taṃ bhāradvājo sammodi isinā saha.  

6471. Trong lúc đang đi, lão (Jūjaka) dòng họ Bhāradvāja ấy đã nhìn thấy vị ẩn sĩ Accuta. Sau khi nhìn thấy vị ấy, lão Bhāradvāja đã tỏ ra thân thiện với vị ẩn sĩ ấy rằng:

392. Jù-ja-ka tiến thẳng đường
Ðến khi lão đã bước gần thảo am,
Vào nơi ẩn sĩ trú thân,
Như vầy lão vội ân cần hỏi thăm:

6472. Kaccinnu bhoto kusalaṃ kacci bhoto anāmayaṃ, kacci uñchena yāpesi kacci mūlaphalā bahū.

 6472. “Thưa ngài, phải chăng ngài được an khang? Thưa ngài, phải chăng ngài được vô sự? Phải chăng ngài nuôi sống bằng việc thu nhặt? Phải chăng có nhiều rễ củ và trái cây?

393. - Ta tin rằng, hỡi Thánh nhân,
Ngài thường thịnh vượng, an khương mọi bề,
Với bao thóc lúa thu về,
Và bao củ quả tràn trề ẩn am.

6473. Kacci ḍaṃsā ca makasā ca appameva siriṃsapā, vane vāḷamigākiṇṇe kacci hiṃsā na vijjati.  

6473. Phải chăng có rất ít ruồi, muỗi, và các loài bò sát? Phải chăng không có sự hãm hại ở khu rừng đông đúc các loài thú dữ?”

394. Ngài nay có bị phiền lòng
Vì loài rắn rít, bọ ong quấy hoài?
Hoặc bầy dã thú tìm mồi,
Chẳng hay ngài tránh mọi loài được chăng?

6474. Kusalañceva me brahme atho brahme anāmayaṃ, atho uñchena yāpemi atho mūlaphalā bahū.  

(Lời vị ẩn sĩ Accuta)

6474. “Thưa vị Bà-la-môn, tôi được an khang. Và thưa vị Bà-la-môn, tôi được vô sự. Tôi nuôi sống bằng việc thu nhặt. Rễ củ và trái cây có nhiều.

395. Cám ơn ngài, hỡi La-môn,
Ta nay thịnh vượng, an khương mọi bề,
Với bao thóc lúa thu về,
Và bao củ quả tràn trề ẩn am.

6475. Atho ḍaṃsā ca makasā ca appameva siriṃsapā, vane vāḷamigākiṇṇe hiṃsā mayhaṃ na vijjati.  

6475. Có rất ít ruồi, muỗi, và các loài bò sát. Không có sự hãm hại đến với tôi ở khu rừng đông đúc các loài thú dữ. 396. Ta không phải chịu phiền lòng
Vì loài rắn rít, bọ ong quấy hoài,
Hoặc bầy dã thú tìm mồi,
Ta đây tránh được mọi loài, Tôn ông.

6476. Bahūni cassa pūgāni assame vasato mama, nābhijānāmi uppannaṃ ābādhaṃ amanoramaṃ.

6476. Và có nhiều cây cau cho tôi đây khi tôi sống ở khu ẩn cư. Tôi không biết đến bệnh tật không thích ý đã được sanh khởi.

397. Biết bao nhiêu tháng năm ròng
Mà ta đã sống trong vùng đất đây,
Những gì bệnh tật xưa nay,
Ta không hề thấy ở đây khi nào.

6477. Svāgataṃ te mahābrahme atho te adurāgataṃ. anto pavisa bhaddante pāde pakkhālayassu te.  

6477. Thưa vị Bà-la-môn vĩ đại, chào mừng ngài đã đến và việc đi đến tốt lành của ngài. Thưa ngài, xin ngài hãy đi vào bên trong. Xin ngài hãy rửa sạch hai bàn chân của ngài.

398. Bà-la-môn hỡi, kính chào!
Mừng duyên hạnh ngộ đưa vào chốn đây.
Xin vào, ta chúc cầu may,
Và xin hãy rửa chân tay của ngài.

6478. Tindukāni piyālāni madhuke kāsumāriyo, phalāni khuddakappāni bhuñja brahme varaṃ varaṃ.

6478. Thưa vị Bà-la-môn, có các loại trái cây tinduka,piyāla, madhuka, kāsumārī ngọt như mật ong, xin ngài hãy thưởng lãm các trái ngon nhất.

399. Pi-yal, tin-dook lá cây,
Kà-su-ma quả ngọt thay nồng nàn,
Trái cây như thể mật ong
Chọn ngay hạng nhất, La-môn, ăn nào.

6479. Idampi pānīyaṃ sītaṃ ābhataṃ girigabbharā, tato piva mahābrahme sace tvaṃ abhikaṅkhasi.  

6479. Cũng có nước uống mát lạnh này được mang lại từ hang núi, thưa vị Bà-la-môn vĩ đại, xin ngài hãy uống nước từ nơi ấy nếu ngài muốn.”

400. Nước này lấy tự hang sâu
Ẩn mình dưới một đồi cao trong rừng,
Xin mời, hỡi bậc Thánh nhân,
Uống vào cho thỏa tấm lòng ước mong.

6480. Paṭiggahītaṃ yaṃ dinnaṃ sabbassa agghiyaṃ kataṃ, sañjayassa sakaṃ puttaṃ sivīhi vippavāsitaṃ, tamahaṃ dassanamāgato yadi jānāsi saṃsa me.  

6480. “Vật bố thí quý giá của tất cả các vị làm ra đã được ta nhận lãnh. Có người con trai ruột của đại vương Sañjaya đã bị lưu đày bởi những người dân xứ Sivi. Ta đi đến để gặp vị ấy; nếu ngài biết, xin ngài hãy chỉ cho ta.”

401-402. Tôi xin nhận vật ngài ban,
Và xin nhận lễ cúng dường, Tôn ông.
Tôi tìm con của vương quân
Sañ-ja-ya bị lưu vong lâu rày,
Dân Si-vi phán lệnh đày,
Xin cho tôi biết nơi ngài ẩn thân.

6481. Na bhavaṃ eti puññatthaṃ sivirājassa dassanaṃ, maññe bhavaṃ patthayati rañño bhariyaṃ patibbataṃ.  

6481. “Ngài đi đến gặp đức vua xứ Sivi không có mục đích tốt lành. Tôi nghĩ rằng ngài ước ao người vợ chung thủy của đức vua.

403. Ông tìm Si-vi Ðại vương
Mà không có ý thiện lương trong đầu,
Chắc ông cố ý mong cầu
Chiếm vương phi của ngài đâu khó gì.

6482. Maññe kaṇhājinaṃ dāsiṃ jāliṃ dāsañca icchasi, athavā tayo mātāputte araññā netumāgato,
na tassa bhogā vijjanti dhanaṃ dhaññañca brāhmaṇa.

6482. Tôi nghĩ rằng ngài muốn Kaṇhājinā là tớ gái và Jāli là tôi trai. Hay là ngài đã đi đến để đưa ba mẹ con rời khỏi khu rừng. Thưa vị Bà-la-môn, các của cải, tài sản, và lúa gạo của vị vua ấy không thấy có.”

404-405. Kan-hà cùng với Jà-li
Làm gia nô với nữ tỳ nhà ông,
Hay ông tìm mẹ lẫn con
Nếu ông có thể cầu ơn vua này,
Ngài không lạc thú gì đây,
Cũng không thực phẩm, tiền tài, Tôn ông.

6483. Akuddharūpāhaṃ bhoto nāhaṃ yācitumāgato, sādhu dassanamariyānaṃ sannivāso sadā sukho.

6483. “Thưa ngài đạo sĩ, ta không có dáng vẻ giận dữ, ta không đi đến để cầu xin. Việc nhìn thấy các bậc thánh thiện là tốt đẹp. Việc cộng trú (với họ) luôn luôn an lạc.

406. Tôi không có ý bất lương,
Cũng không đến để cầu mong ơn ngài.
Song nhìn người thiện tuyệt vời,
Vui thay sống với các người thiện lương.

6484. Adiṭṭhapubbo sivirājā sivīhi vippavāsito, tamahaṃ dassanamāgato yadi jānāsi saṃsa me.

6484. Từ khi đức vua xứ Sivi bị lưu đày bởi những người dân xứ Sivi, ta chưa được gặp lại. Ta đi đến để gặp vị ấy; nếu ngài biết, xin ngài hãy chỉ cho ta.”

407. Tôi chưa từng thấy quân vương,
Chính ngài đã bị thần dân lưu đày.
Tôi mong diện kiến vua này,
Xin ông cho biết nơi ngài ẩn cư.

6485. Esa selo mahābrahme pabbato gandhamādano, yattha vessantaro rājā saha puttehi sammati.

6485. “Thưa vị Bà-la-môn vĩ đại, kia là ngọn núi đá Gandhamādana, là nơi đức vua Vessantara cư ngụ cùng với hai con.

408. Ðạo sĩ ôi, núi đằng xa
Gan-dha-mà ấy chính là Hương Sơn,
Nơi Ves-san-ta Ðại vương
Hiện đang sống với vợ con một đoàn.

6486. Dhārento brāhmaṇaṃ vaṇṇaṃ āsadañca masaṃ jaṭaṃ, cammavāsī chamā seti jātavedaṃ namassati.

6486. Vị ấy đang khoác vào bộ dạng Bà-la-môn, mang móc câu và muỗng tế thần lửa, tóc bện, mặc y phục da thú, nằm trên đất, tôn thờ thần lửa.

409. Với y của bậc La-môn,
Bát, thìa, tóc bện, đạo nhân khác nào,
Khoác thêm một tấm da vào,
Ngài nằm trên đất, châm cao lửa hồng.

6487. Ete nīlā padissanti nānāphaladharā dumā, uggatā abbhakūṭāva nīlā añjanapabbatā.

6487. Những nơi màu xanh ngắt được nhìn thấy kia là những giống cây mang các trái khác loại, và những ngọn núi của giống cây añjana, có màu xanh um, được vươn lên tận đỉnh của đám mây.

6488. Dhavassakaṇṇā khadirā sālā phandanamāluvā, sampavedhanti vātena sakiṃ pītāva māṇavā.

6488. Các loại cây dhava, cây long thọ, cây nhục quế, cây sāla, các giống dây leo run rẩy, đung đưa theo làn gió, tựa như những chàng trai trẻ lảo đảo một khi đã uống say.
6489. Upari dumapariyāyesu saṃgītiyova sūyare,
najjuhā kokilasaṅghā sampatanti dumā dumaṃ.

6489. Ở phía trên những hàng cây, tựa như có những cuộc hòa nhạc được nghe tiếng. Các con chim najjuha, các bầy chim cu cu (líu lo) bay nhảy từ cây này sang cây khác.

6490. Avhayanteva gacchantaṃ sākhāpattasameritā, ramayanteva āgantuṃ modayanti nivāsinaṃ,
yattha vessantaro rājā saha puttehi sammati.

6490. Các chiếc lá của những cành cây được lay động tựa như mời gọi người đang đi đến, tựa như làm cho khách đi đến được vui thích, khiến người trú ngụ được hài lòng; nơi ấy đức vua Vessantara cư ngụ cùng với hai con.

6491. Dhārento brāhmaṇaṃ vaṇṇaṃ āsadañca masaṃ jaṭaṃ, cammavāsī chamā seti jātavedaṃ namassati.

6491. Vị ấy đang khoác lên bộ dạng Bà-la-môn, mang móc câu và muỗng tế thần lửa, tóc bện, mặc y phục da thú, nằm trên đất, tôn thờ thần lửa.

6492. Karerimālā vitatā bhūmibhāge manorame, saddalāharitā bhūmi na tatthuddhaṃsate rajo.  

6492. Những chùm hoa kareri lan rộng ở vùng đất làm cho thích ý. Mặt đất xanh tươi màu cỏ mới; tại nơi ấy không có bụi bặm bốc lên.

410. Tàn cây tiêu nọ, thấy không,
Ở trên mảnh đất tiên thần khác đâu,
Bụi không hề thổi lên cao,
Cỏ kia xanh mãi chẳng bao giờ tàn.

6493. Mayūragīvasaṅkāsā tūlaphassasamūpamā, tiṇāni nātivattanti samantā caturaṅgulā.

6493. Các cọng cỏ (có màu sắc) giống như cái cổ của loài chim công, (mềm mại) tương tự như sự xúc chạm với bông gòn, và không vươn lên quá bốn ngón tay ở xung quanh.

411. Cỏ xanh tựa cổ chim công,
Sờ vào êm dịu nhu bông khác nào,
Mọc không quá bốn tấc cao,
Lúc nào cũng vậy, không bao giờ nhiều.

6494. Ambā jambū kapitthā ca nīce pakkā udumbarā, paribhogehi rukkhehi vanaṃ taṃ rativaḍḍhanaṃ.

6494. Các trái xoài, mận đỏ, táo rừng, và các trái sung chín muồi ở chỗ thấp bên dưới. Với các giống cây sản xuất ra hoa quả, khu rừng ấy là nơi làm tăng trưởng niềm thích thú.

412. Ka-pi, xoài, mận hồng đào,
Chùm sung lủng lẳng không cao, chín muồi,
Mọi cây có quả tốt tươi,
Mọc lên trong cánh rừng đồi xinh sao.

6495. Veḷuriyavaṇṇūpanibhaṃ macchagumbanisevitaṃ, suciṃ sugandhaṃ salilaṃ āpo tatthapi sandati.

6495. Ở tại nơi ấy, cũng có dòng nước trôi chảy với nước trong sạch, có mùi thơm, tương tự màu sắc của ngọc bích, được lai vãng bởi những đàn cá.

413. Trong veo dòng suối ngọt ngào
Xanh như ngọc bích rì rào chảy ngang,
Tung tăng cá lội từng đàn,
Vui đùa lên xuống khe ngàn lượn quanh.

6496. Tassāvidūre pokkharaṇī bhūmibhāge manorame, padumuppalasañchannā devānamiva nandane.

6496. Không xa khu rừng ấy, ở vùng đất làm cho thích ý, có một cái hồ được che phủ bởi các giống sen hồng và sen xanh, tựa như (hồ nước Nandā) ở khu vườn Nandana của chư Thiên.

414. Hồ nằm trong cảnh hữu tình
Với bao sen trắng sen xanh kế gần,
Khác nào ở chốn thiên cung,
Trong vườn Hoan lạc trên tầng trời xa.

6497. Tīṇi uppalajātāni tasmiṃ sarasi brāhmaṇa, vicitra nīlānekāni setā lohitakāni ca.

6497. Thưa vị Bà-la-môn, ở trong hồ nước ấy có ba giống hoa sen với nhiều màu sắc: một số màu xanh, một số màu trắng, và một số màu đỏ.

415. Có ba chủng loại liên hoa
Trong hồ khoe sắc cho ta thấy nào,
Sắc màu thay đổi biết bao
Xanh lơ, đỏ sẫm, trắng sao trắng ngần.

6498. Khomā ca tattha padumā setasogandhikehi ca, kalambakehi sañchanno mucalindo nāma so saro.

6498. Các hoa sen ở tại nơi ấy tựa như vải sợi len. Hồ nước ấy có tên là Mucalinda, được che phủ bởi các loài sen trắng, súng trắng, và cây kalamba.

416. Hoa kia êm dịu như bông,
Hoa sen xanh thẫm, trắng ngần đua chen,
Nhiều cây cỏ khác mọc lên,
Mu-ca-lin chính là tên của hồ.

6499. Athettha padumā phullā apariyantāva dissare, gimhā hemantikā phullā jaṇṇutagghā upattharā.

6499. Rồi ở nơi này, các hoa sen nở rộ được nhìn thấy như là vô số kể. Chúng nở rộ vào mùa nóng, vào mùa lạnh; chúng vươn cao đến đầu gối, và che lấp phần ở bên dưới.

417. Ông nhìn hoa nở thật to,
Nơi kia vô số chen đua lục hồng,
Mùa hè hay dẫu mùa đông
Ðều cao đến tận gối ông đây này.

6500. Surabhī sampavāyanti vicittā pupphasanthatā, bhamarā pupphagandhena samantāmabhināditā.

6500. Có những hương thơm tỏa ra bao trùm các bông hoa nhiều màu sắc. Các con ong kêu vo ve ở khắp các nơi bởi mùi thơm của các bông hoa.

418. Hoa nhiều màu sắc đẹp thay
Theo làn gió nhẹ hương bay dịu dàng,
Rồi ông nghe tiếng rộn ràng
Của bầy ong đến theo làn hương đưa.

6501. Athettha udakantasmiṃ rukkhā tiṭṭhanti brāhmaṇa, kadambā pāṭalī phullā kovilārā ca pupphitā.

6501. Rồi ở nơi này, thưa vị Bà-la-môn, có những giống cây sống ở trong nước. Các cây kadamba, các cây pāṭalī nở rộ, và các cây kovilāra đã được trổ hoa.

419. Chung quanh bến nước bờ hồ
Ðứng thành một dãy lô xô tiếp liền,
Kìa cây gụ, nọ hoa kèn,
Ka-dam-ba ngất nghểu lên cao hoài.

6502. Aṅkolā kaccikārā ca pārijaññā ca pupphitā, vāraṇasāyanā rukkhā mucalindamabhito saraṃ.

6502. Các cây aṅkola, các cây kaccikāra, và các cây pārijañña đã được trổ hoa. Có những cây vāraṇa và sāyana ở hai bên bờ hồ Mucalinda.

6503. Sirīsā setapārīsā sādhu vāyanti padmakā, nigguṇḍī sirinigguṇḍī asanā cettha pupphitā.

6503. Các cây keo, các cây setapārīsa, các câypadmaka tỏa ra làn gió tốt lành. Các cây nigguṇḍī, các cây sirinigguṇḍī, và các cây asana ở nơi ấy được đã được trổ hoa.

6504. Paṃgurā vakulā sālā sobhañjanā ca pupphitā, ketakā kaṇikārā ca kaṇaverā ca pupphitā.  

6504. Các cây paṃgura, các cây vakula, các cây sāla, và các cây sobhañjana đã được trổ hoa. Các cây ketaka, các cây kaṇikāra, và các cây kaṇavera đã được trổ hoa.

6505. Ajjunā ajjukaṇṇā ca mahānāmā ca pupphitā, sampupphitaggā tiṭṭhanti pajjalanteva kiṃsukā.  

6505. Các cây ajjuna, các cây ajjukaṇṇa, và các cây mahānāma đã được trổ hoa. Các cây kiṃsuka đứng thẳng, với các ngọn đã được trổ hoa trọn vẹn, tựa như đang cháy sáng.

6506. Setapaṇṇī sattapaṇṇā kadaliyo kusumbharā, dhanutakkārī pupphehi siṃsapāvaraṇehi ca.  

6506. Các cây setapaṇṇi, các cây thất diệp, các cây chuối, các cây kusumbhara, các cây dhanu, các câytakkārī, cùng với các cây siṃsapā và các cây varaṇacó các bông hoa.

420. Loài hoa sáu cánh khoe tươi,
Nhiều cây hoa khác cùng cười rộ ra;
Lùm cây rậm rạp quanh hồ
Thảy đều đứng lặng để cho ta nhìn.

6507. Acchivā sabalā rukkhā sallakiyo ca pupphitā, setagerū ca tagarā maṃsikuṭṭhā kulāvarā.  

6507. Các cây acchiva, các cây sabala, các cây sallakī, các cây setageru, các cây tagara, các cây maṃsi, các cây kuṭṭha, và các cây kulāvara đã được trổ hoa.

421. Cây kia đủ mọi dáng hình,
Hoa kia đua nở đẹp xinh đủ màu,
Các lùm cây rậm biết bao
Chen nhau cao thấp đón chào mắt ta.

6508. Daharā ca rukkhā vuddhā ca akuṭilā cettha pupphitā, assamaṃ ubhato ṭhanti agyāgāraṃ samantato.  

6508. Các cây mới lớn và các cổ thụ ở nơi này không bị cong queo, đã trổ hoa, mọc ở cả hai bên của khu ẩn cư, xung quanh ngôi nhà thờ lửa.

422. Từng làn gió nhẹ hương đưa
Từ rừng hoa trắng, xanh lơ, đỏ hường,
Mọc lên quanh chốn thảo đường,
Nơi kia ngọn lửa được ươm nóng bừng.

6509. Athettha udakantasmiṃ bahujāto phajjaṇiko, muggatiyo karatiyo sevālasiṃsakaṃ bahū.  

6509. Rồi ở nơi này, các cây phajjaṇika được sanh trưởng nhiều ở trong nước, có các loại cây họ đậu nhưmuggati và karati, có nhiều rong rêu và loài thủy thảo siṃsaka.

423. Chung quanh bờ nước kế gần
Nhiều cây cỏ mọc quây quần thiết thân,

6510. Uddāpavantaṃ ulluḷitaṃ makkhikā hiṃgujālakā, dāsīmakacako cettha bahū nīcekalambakā.  

6510. Nước hồ được bao bọc bởi các bờ đất và bị xao động bởi gió. Có các loài ong tên gọi là hiṃgujāla. Và ở nơi này, có các cây dāsīma và các cây kacaka, có nhiều cây kalamba nhỏ thấp.

Cỏ cây vẫn cứ rung rung
Trong khi vang vọng tiếng ong thầm thì.

6511. Eḷambarakasañchannā rukkhā tiṭṭhanti brāhmaṇa, sattāhaṃ dhāriyamānānaṃ gandho tesaṃ na chijjati.  

6511. Thưa vị Bà-la-môn, các cây còn sống được bao phủ bởi giống dây leo eḷambaraka; hương thơm của chúng được lưu lại bảy ngày.

6512. Ubhato saraṃ mucalindaṃ pupphā tiṭṭhanti sobhanā, indīvarehi sañchannaṃ vanaṃ taṃ upasobhitaṃ, aḍḍhamāsaṃ dhāriyamānānaṃ gandho tesaṃ na chijjati.

6512. Các bông hoa xinh đẹp tồn tại ở hai bên hồ Mucalinda. Được bao phủ bởi các loài hoa súng xanh, khu rừng ấy trở nên rạng rỡ; hương thơm của chúng được lưu lại nửa tháng.

424. Mùi hương của vạn hoa kia
Mọc lên khắp chốn bờ khe, suối, hồ
Luyến lưu bên bạn lâu xa
Nếu như bạn giữ hai ba tuần liền.

6513. Nīlapupphī setavārī pupphitā girikaṇṇikā, kaṭerukehi sañchannaṃ vanaṃ taṃ tulasīhi ca.  

6513. Các loài dây leo nīlapupphī, setavārī,girikaṇṇikā đã được trổ hoa, Khu rừng ấy được bao phủ bởi các cây kaṭeruka và các bụi cây tulasī.

6514. Saddammateva gandhena pupphasākhāhi taṃ vanaṃ, bhamarā pupphagandhena samantāmabhināditā.

6514. Khu rừng ấy dường như làm cho con người say đắm với hương thơm, với những cành hoa. Các con ong kêu vo ve ở khắp các nơi bởi mùi thơm của các bông hoa.

6515. Tīṇikakkārujātāni tasmiṃ sarasi brāhmaṇa, kumbhamattāni cekāni murajamattāni tā ubho.  

6515. Thưa vị Bà-la-môn, có ba loại dây bí đã mọc lên ở cái hồ nước ấy. Và một số có trái lớn bằng chậu nước, hai loại kia có trái lớn bằng cái trống con.

425. Ba loài bầu, bí hiển nhiên
Mọc lên giữa hồ sen thế này,
Quả bằng bình nước trong tay,
Quả kia thật lớn sánh tày trống canh.

6516. Athettha sāsapo bahuko nādiyo haritāyuto, asī tālāva tiṭṭhanti chejjā indīvarā bahū.  

6516. Rồi ở nơi này, có nhiều cây cải, cây tỏi màu xanh, cây asī tựa như cây thốt nốt sinh trưởng; có nhiều hoa súng xanh có thể ngắt (bằng tay).

426. Tỏi, hành, hạt cải, súng xanh
Muôn hoa nở rộ trên cành dễ thương.
Hoa lài, ngào ngạt trầm hương,
Cát đằng rậm rạp vấn vương cây hoài.

6517. Apphoṭā suriyavallī ca kāḷiyā madhugandhiyā, asokā mudayantī ca vallibho khuddapupphiyo.  

6517. (Có các loài dây leo như) cây apphoṭā, câysuriyavallī, cây kāḷiyā, cây madhugandhiya, cây asoka, cây mudayantī, cây vallibha, và cây khuddapupphiya.

6518. Koraṇḍakā anojā ca pupphitā nāgavallikā, rukkhamāruyha tiṭṭhanti phullā kiṃsukavalliyo.  

6518. Các bụi cây koraṇḍaka, cây anojā, các loài dây leo nāgā và vallikā đã được trổ hoa. Các loài dây leo kiṃsuka đã leo lên thân cây rồi sinh trưởng, và nở rộ hoa. 

6519. Kaṭeruhā ca vāsantī yūthikā madhugandhiyo, nīliyā sumanā bhaṇḍī sobhati padumuttaro.  

6519. Các cây kaṭeruha, cây vāsantī, cây yūthikā, câymadhugandhiya, cây nīliyā, cây hoa nhài trâu, câybhaṇḍī, cây padumuttara rạng ngời rực rỡ.

6520. Pāṭalī samuddakappāsi kaṇikārā ca pupphitā, hemajālāva dissanti rucirā aggisikhūpamā.  

6520. Các cây hoa kèn, cây samuddakappāsi, và câykaṇikārā đã trổ hoa, được nhìn thấy tựa như tấm lưới bằng vàng, sáng lấp lánh tương tự ngọn lửa.

427. Ngọt ngào thay khóm hoa lài,
Cây chàm, bông vải, nhiều loài hữu danh,
Hoa kèn, rau diếp mọc quanh
Khác nào ngọn lửa vàng hanh nắng trời.

6521. Yāni kāni ca pupphāni thalajānudakāni ca, sabbāni tattha dissanti evaṃ rammo mahodadhi.  

6521. Bất cứ những loài hoa nào đã sinh trưởng ở đất liền và ở trong nước, tất cả đều được nhìn thấy ở tại nơi ấy; hồ Mucalinda chứa đựng khối nước lớn đáng yêu như vậy.

428. Thưa vâng, mỗi loại hoa tươi
Mọc ra trong nước hay trồi đất lên
Chung quanh hồ nước thần tiên
Hãy nhìn chúng sống đua chen quây quần.

6522. Athassā pokkharaṇiyā pahūtā vārigocarā, rohitā naḷapī siṅgū kumbhilā makarā susū.  

6522. Rồi hồ nước này có nhiều loài thủy tộc, như là cá rohita, cá naḷapī, cá siṅgu, cá sấu, cá kiếm, và cásusu.

429. Nơi kia bầy sấu vẫy vùng,
Mọi loài thủy tộc ẩn thân chốn này.
Những đàn hươu đỏ thường ngày
Cùng nhiều thú khác tìm đây nước nguồn.

6523. Madhū ca madhulaṭṭhī ca tālīsā ca piyaṅgukā, unnakā bhaddamuttā ca satapupphā ca lolupā.  

6523. Mật ong, cây cam thảo, và cây tālīsa, câypiyaṅguka, cây unnaka, cây bhaddamutta, câysatapuppha, và cây lolupa.

6524. Surabhī ca rukkhā tagarā pahūtā tuṅgavaṇṭakā, padmakā naradā kuṭṭhā jhāmakā ca hareṇukā.  

6524. Và các loại cây có mùi thơm là vô số như cây tagara, cây tuṅgavaṇṭaka, cây padmaka, cây narada, cây kuṭṭha, cây jhāmaka, và cây hareṇukā.

6525. Haliddakā gandhasilā hiriverā ca guggulā, vibhedikā corakā kuṭṭhā kappurā ca kaliṅgu ca.  

6525. Các cây nghệ, các loại đá thơm, và các cây hirivera, cây guggula, cây vibhedikā, cây coraka, câykuṭṭha, cây long não, cây kaliṅgu.430. Nghệ vàng, long não, cỏ hương,
Hạt thơm, cam thảo thân vươn cao ngồng.

6526. Athettha sīhavyagghā ca purisālū ca hatthiyo, eṇeyyā pasadā ceva rohiccā sarabhā migā.

6526. Rồi ở nơi này, có các con sư tử, các con cọp, các nữ Dạ-xoa mặt lừa, các con voi, các con sơn dương, các con hoẵng, và có cả các con hươu, các con nai rừng.

431. Nơi kia sư tử, voi rừng,
Cọp vằn tìm kiếm bạn lòng dấu yêu,
Từng bầy hươu đỏ, hươu sao,
Chó hoang, nai hoẵng dáng cao lẹ làng.

6527. Koṭṭhusuṇā sulopī ca tuliyā naḷasannibhā, camarī calanī laṅghī jhāpitā makkaṭā picu.  

6527. Hai loài chó: chó koṭṭhu và chó suṇa, các con nai nhỏ, chồn bay, sóc, bò mộng, hai loài nai: nai calanī và nai laṅghī, ba loài khỉ: khỉ jhāpitā, khỉ makkaṭā, và khỉpicu.

432. Chồn bay, trâu yak, linh dương,
Những bầy lớn nhỏ khỉ rừng lao xao,
Gấu, bò, mãnh thú biết bao,
Từng đàn dồn dập đi vào dọc ngang.

6528. Kakkaṭā katamāyā ca ikkā goṇasirā bahū, khaggā varāhā nakulā kāḷakettha bahūtaso.  

6528. Hai loài nai lớn: nai kakkaṭa và nai katamāya, gấu, trâu rừng là có nhiều, tê ngưu, heo rừng, cáo, và sóc đen là vô số ở nơi này.

6529. Mahisā soṇā sigālā ca pampakā ca samantato, ākuccā pacalākā ca citrakā cāpi dīpiyo.  

6529. Các con trâu rừng, chó nhà, chó rừng, và các con vượn ở khắp nơi; các con kỷ đà, tắc kè, nai đốm, và cả các con báo.

433. Tê ngưu, sóc nhỏ, chuột hoang,
Chó săn, trâu nước, giả-can, heo rừng,
Tắc kè, beo gấm, sói lang,
Thỏ rừng, chồn nhỏ từng đàn ra vô.

6530. Pelakā ca vighāsādā sīhā kokanisātakā, aṭṭhapādā ca morā ca bhassarā ca kukutthakā.  

6530. Các con thỏ rừng, diều hâu, sư tử, chim quạ, gà lôi, nai, chim công, thiên nga trắng, và chim trĩ.

6531. Caṅkorā kukkuṭā nāgā aññamaññaṃ pakūjino, bakā balākā najjuhā dindibhā kuñjavādikā.  

6531. Các con gà gô, gà rừng, các con voi cất tiếng hót đối đáp qua lại; có các chim cò, chim diệc, gà nước, chim le le, chim kuñja, và chim vādika.

6532. Vyagghīnasā lohapiṭṭhā pampakā jīvajīvakā, kapiñjarā tittirāyo kulāvā paṭikuttakā.  

6532. Các chim ưng, chim diều hâu đỏ, chim pampaka, chim jīvajīvaka, chim kapiñjara, chim đa đa, chimkulāva, và chim paṭikuttaka.

6533. Maddālakā celakedu bhaṇḍutittiranāmakā, celābakā piṅgulāyo godhakā aṅgahetukā.

6533. Các con chim maddālaka, chim celakedu, chimbhaṇḍu, và chim tên đa đa, chim celābaka, chimpiṅgulā, chim godhaka, và chim aṅgahetuka.

434. Ðủ loài rắn, nhện giăng tơ,
Ðủ loài chim chóc líu lo trên cành,
Tạo nên đủ loại âm thanh
Trong khi chiêm chiếp lượn quanh lòng vòng.

6534. Karaviyā ca vaggā ca uhuṅkārā ca kukkuhā, nānādijagaṇākiṇṇaṃ nānāsaranikujjitaṃ.

6534. Các con chim karaviya, chim vagga, chim cú mèo, chim ưng biển. (Khu rừng) được đông đúc với những bầy chim khác loại, líu lo với nhiều giọng hót khác nhau.

6535. Athettha sakuṇā santi nīlakā mañjubhāṇakā, modanti sabha bhariyāhi aññamaññaṃ pakūjino.

6535. Rồi ở nơi này, có những con chim màu lục sẫm có tiếng hót du dương; chúng vui đùa với những con chim mái, cất tiếng hót đối đáp qua lại.

6536. Athettha sakuṇā santi dijā mañjussarā sitā, setacchakūṭā bhadrakkhā aṇḍajā citrapekkhuṇā.

6536. Rồi ở nơi này, có những con chim là loài lưỡng sanh có âm giọng du dương đều đều, có cặp mắt đẹp với đuôi mắt màu trắng, có chùm lông đuôi nhiều màu sắc.

6537. Athettha sakuṇā santi dijā mañjussarā sitā, sikhaṇḍinīlagīvāhi aññamaññaṃ pakūjino.

6537. Rồi ở nơi này, có những con chim là loài lưỡng sanh có âm giọng du dương đều đều, là những con chim công với những cái cổ màu lục, cất tiếng hót đối đáp qua lại.

6538. Kukutthakā kulīrakā koṭṭhā pokkharasātakā, kāḷāmeyyā balīyakkhā kadambā suvasāḷikā.

6538. Các con chim trĩ, chim kulīraka, chim gõ kiến, chim pokkharasātaka, chim kāḷāmeyya, chimbalīyakkha, chim kadamba, chim két, và chim sāḷika.

6539. Haliddā lohitā setā athettha naḷakā bahū, vāraṇā hiṅgurājā ca kadambā sucikokilā.  

6539. Rồi ở nơi này, các con chim naḷaka màu vàng nghệ, màu đỏ, màu trắng là có nhiều, chim vāraṇa, chim hiṅgurāja, chim kadamba, chim két, và chim cu cu.

6540. Ukkusā kurarā haṃsā āṭā parivadantikā, pākahaṃsā atibalā najjuhā jīvajīvakā.

6540. Các con chim ưng, chim ó biển, chim thiên nga, chim bồ nông, chim parivadantika, chim pākahaṃsavô cùng mạnh mẽ, chim najjuha, và chim jīvajīvaka.

435. Diều hâu, cú, diệc, gà rừng,
Sơn ca với tiếng du dương đồng hòa,
Trĩ, ưng, công với thiên nga,
Hạc, chim lưng đỏ hòa ca bạn tình.

6541. Pārevaṭā ravihaṃsā cakkavākā nadīcarā, vāraṇābhirudā rammā ubho kālūpakūjino.

6541. Các con chim bố câu, chim ravihaṃsa, chim hồng hạc, chim nadīcara, chim vāraṇa với tiếng kêu đáng yêu, cất lên tiếng hót vào cả hai thời điểm (ban ngày và ban đêm).

6542. Athettha sakuṇā santi nānāvaṇṇā bahū dijā, modanti saha bhariyāhi aññamaññaṃ pakūjino.

6542. Rồi ở nơi này, có nhiều con chim là các loài lưỡng sanh với nhiều màu sắc khác nhau; chúng vui đùa cùng những con chim mái, cất tiếng hót đối đáp qua lại.

436. Nơi kia dịu ngọt âm thanh
Sắc màu rực rỡ dáng hình chim muông:
Cổ xanh, mào trắng, lục hồng
Như công, vỗ cánh phập phồng bay lên.

6543. Athettha sakuṇā santi nānāvaṇṇā bahū dijā, sabbe mañjūni kūjanti mucalindamabhito saraṃ.

6543. Rồi ở nơi này, có nhiều con chim là các loài lưỡng sanh với nhiều màu sắc khác nhau, tất cả bọn chúng hót lên những điệu nhạc du dương ở hai bên bờ hồ Mucalinda.

437. Sao ta cố kể ngàn tên
Ðủ từng chi tiết chẳng quên thế này?
Hãy suy đủ loại chim bay,
Và đem chúng lại thêm đầy thơ ta.

6544. Athettha sakuṇā santi karavīyā nāma te dijā, modanti sabha bhariyāhi aññamaññaṃ pakūjino.

6544. Rồi ở nơi này, có những con chim là loài lưỡng sanh tên gọi karaviya; chúng vui đùa cùng những con chim mái, cất tiếng hót đối đáp qua lại.

6545. Athettha sakuṇā santi karavīyā nāma te dijā, sabbe mañjūni kūjanti mucalindamabhito saraṃ.

6545. Rồi ở nơi này, có những con chim là loài lưỡng sanh tên gọi karaviya; tất cả bọn chúng hót lên những điệu nhạc du dương ở hai bên bờ hồ Mucalinda.

438. Cả đàn chim chóc đồng hòa
Du dương ngàn khúc hoan ca tưng bừng,
Ngập tràn đầy giữa khoảng không
Hồ Mu-ca với tiếng ồn vui tai...

6546. Eṇeyyapasadākiṇṇaṃ nāgasaṃsevitaṃ vanaṃ, nānālatāhi sañchannaṃ kadalīmigasevitaṃ.

6546. Khu rừng đông đúc với các con sơn dương, các con hoẵng, được tới lui bởi các con voi, được che phủ bởi những loài dây leo khác nhau, được lai vãng bởi các con nai kadali.

439. Khu rừng có đủ loài voi,
Linh dương, các loại hươu nai thiếu gì.
Lòng thòng từ các cây kia
Cát đằng to lớn từng bè quấn ngang.

6547. Athettha sāsapo bahuko nīvāro varako bahu, sālī akaṭṭhapāko ca ucchu tattha anappako.

6547. Rồi ở nơi này, có nhiều cây cải, nhiều lúa mọc hoang và đậu varaka, lúa sāli đơm hạt không phải cày bừa và cây mía ở nơi ấy không phải là ít.

440. Nơi kia hạt cải, mía đường,
Nhiều loài thóc gạo mọc vươn cao dày.
Ðậu, mè, dược thảo quý thay
Sẵn sàng cung cấp đủ đầy khách thăm.

6548. Ayaṃ ekapadī eti ujuṃ gacchati assamaṃ, khudaṃ pipāsaṃ aratiṃ tattha patto na vindati,
yattha vessantaro rājā saha puttehi sammati.

6548. Lối đi bộ này đi đến, đi thẳng đến khu ẩn cư. Người đã đạt đến nơi ấy không tìm thấy sự đói, sự khát, và sự bất mãn, là nơi đức vua Vessantara cư ngụ cùng với hai con.

441-442. Ðằng kia có lối đường mòn
Ðưa ông đến chốn ẩn thân của ngài.
Nơi kia đói khát không ai,
Cũng không hề thấy mảy may chán chường.
Nơi kia cùng với các con.
Ves-san-ta bậc Ðại vương lánh trần.

6549. Dhārento brāhmaṇaṃ vaṇṇaṃ āsadañca masaṃ jaṭaṃ, cammavāsī chamā seti jātavedaṃ namassati.  

6549. Vị ấy đang khoác vào bộ dạng Bà-la-môn, mang móc câu và muỗng tế thần lửa, tóc bện, mặc y phục da thú, nằm trên đất, tôn thờ thần lửa.”

443. Với y của bậc La-môn,
Bát, thìa, tóc bện, đạo nhân khác nào.
Khoác thêm một tấm da vào,
Ngài nằm trên đất, châm cao lửa hồng.

6550. Idaṃ sutvā brahmabandhu isiṃ katvā padakkhiṇaṃ, udaggacitto pakkāmi yattha vesasantaro ahu.  

6550. Nghe được điều này, lão Bà-la-môn đã đi nhiễu quanh vị ẩn sĩ, rồi với tâm phấn khởi, đã khởi hành đi đến nơi vị Vessantara đang ở.

444. Việc này khi đã nghe xong,
Quanh ngài bên phải, lão vòng bước ra,
Ði tìm vua Ves-san-ta
Tâm hồn rộn rã chan hòa niềm vui.

Mahāvanavaṇṇanā niṭṭhitā.

Phần Mô Tả Khu Rừng Lớn được hoàn tất.

 

6551. Uṭṭhehi jāli patitiṭṭha porāṇaṃ viya dissati, brāhmaṇaṃ viya passāmi nandiyo mābhikīrare. 

(Lời vị Vessantara)

6551. “Này Jāli, con hãy đứng lên và hãy đứng ngay ngắn. Được nhìn thấy như là trước đây, như khi cha nhìn thấy vị Bà-la-môn, các niềm vui lan tỏa ở nơi cha.”

445. Jà-li, hãy đứng lên con,
Ngắm xem kìa lão La-môn đến rồi,
Chính thời xưa đã tái hồi,
Làm ta tràn ngập niềm vui chan hòa.

6552. Ahaṃpi tāta passāmi yo so brahmāva dissati, atthiko viya āyāti atithī no bhavissati. 

6552. “Thưa cha, con cũng nhìn thấy; vị ấy có vẻ như là vị Bà-la-môn, dường như vị ấy đi đến có mục đích. Chúng ta sẽ có khách.”

446. Vâng vâng, phải đấy thưa cha,
Con đang nhìn thấy lão Bà-la-môn,
Hình như lão đến cầu ân,
Hẳn là vị khách đang cần nhà ta.

6553. Kaccinnu bhoto kusalaṃ kacci bhoto anāmayaṃ, kacci uñchena yāpetha kacci mūlaphalā bahū. 

(Lời trao đổi giữa Bà-la-môn Jūjaka và vị Vessantara)

6553. “Thưa ngài, phải chăng ngài được an khang? Thưa ngài, phải chăng ngài được vô sự? Phải chăng ngài nuôi sống bằng việc thu nhặt? Phải chăng có nhiều rễ củ và trái cây?

447. Ta tin rằng, hỡi Thánh nhân,
Ngài thường thịnh vượng, an khương mọi bề,
Với bao thóc lúa thu về
Và bao củ quả tràn trề ẩn am.

6554. Kacci ḍaṃsā ca makasā ca appameva siriṃsapā, vane vāḷamigākiṇṇe kacci hiṃsā na vijjati. 

6554. Phải chăng có rất ít ruồi, muỗi, và các loài bò sát? Phải chăng không có sự hãm hại ở khu rừng đông đúc các loài thú dữ?”

448. Ngài nay có bị phiền lòng
Vì loài rắn rít bọ ong quấy hoài?
Hoặc bầy dã thú tìm mồi,
Chẳng hay ngài tránh mọi loài được chăng?

6555. Kusalañceva no brahme atho brahme anāmayaṃ, atho uñchena yāpema atho mūlaphalā bahū.

6555. “Này vị Bà-la-môn, chúng tôi được an khang. Và Này vị Bà-la-môn, chúng tôi được vô sự. Chúng tôi nuôi sống bằng việc thu nhặt. Rễ củ và trái cây có nhiều.

449. Cám ơn ông, hỡi đạo nhân,
Ta nay thịnh vượng, an khương mọi bề,
Với bao thóc lúa thu về
Và bao củ, quả tràn trề ẩn am.

6556. Atho ḍaṃsā ca makasā ca appameva siriṃsapā, vane vāḷamigākiṇṇe hiṃsā amhaṃ na vijjati.

6556. Có rất ít ruồi, muỗi, và các loài bò sát. Không có sự hãm hại đến với chúng tôi ở khu rừng đông đúc các loài thú dữ.

450. Ta không phải chịu phiền lòng
Vì loài rắn rít, bọ ong quấy hoài,
Hoặc bầy dã thú tìm mồi
Ta đây tránh được mọi loài bình an.

6557. Satta no māse vasataṃ araññe jīvasokinaṃ, idampi paṭhamaṃ passāma brāhmaṇaṃ devavaṇṇinaṃ, ādāya beḷuvaṃ daṇḍaṃ aggihuttaṃ kamaṇḍaluṃ.

6557. Suốt bảy tháng chúng tôi sống cuộc sống sầu muộn ở trong rừng, chúng tôi nhìn thấy người này đầu tiên, là vị Bà-la-môn với dáng vóc thiên thần, mang theo cây gậy bằng gỗ beḷuva, cái bật lửa, và bình nước uống.

451. Sống đây đã bảy tháng trường,
Chúng ta hạnh phúc trong rừng hoang sơ,
Chẳng hề từ trước đến giờ
Ðược trông thấy một vị Bà-la-môn.

452. Như nay nhìn thấy tôn ông
Khác nào thấy được thần nhân thế này:
Vil-va làm gậy cầm tay,
Hộp bùi nhùi với bình đầy nước trong.

6558. Svāgataṃ te mahābrahme atho te adurāgataṃ, anto pavisa bhaddante pāde pakkhālayassu te.

6558. Này vị Bà-la-môn vĩ đại, chào mừng ông đã đến và việc đi đến tốt lành của ông. Xin ông hãy đi vào bên trong. Mong rằng điều tốt lành hãy có cho ông. Xin ông hãy rửa sạch hai bàn chân của ông.

453. Kính chào ông, hỡi đạo nhân,
Mừng duyên hạnh ngộ đưa đường đến đây.
Hãy vào chúc phúc cầu may,
Bước vào và rửa chân tay, ta mời.

6550. Tindukāni piyālāni madhuke kāsumāriyo, phalāni khuddakappāni bhuñja brahme varaṃ varaṃ.

6559. Này vị Bà-la-môn, có các loại trái cây tinduka, piyāla, madhuka, kāsumārī ngọt như mật ong, xin ông hãy thưởng lãm các trái ngon nhất.

454. Pi-yal, tin-dook lá tươi,
Kà-su-ma quả ngọt bùi thơm ngon,
Trái cây như thể mật ong,
Chọn ngay hạng nhất, La-môn, ăn nào.

6560. Idampi pānīyaṃ sītaṃ ābhataṃ girigabbharā, tato piva mahābrahme sace tvaṃ abhikaṅkhasi. 

6560. Cũng có nước uống mát lạnh này được mang lại từ hang núi, Này vị Bà-la-môn vĩ đại, xin ông hãy uống nước từ nơi ấy nếu ông muốn.

455. Nước này lấy tự hang sâu
Ẩn mình dưới ngọn đồi cao trong rừng,
Xin mời, hỡi bậc Thánh nhân,
Uống vào cho thỏa tấm lòng ước mong.

6561. Atha tvaṃ kena vaṇṇena kena vā pana hetunā, anuppatto brahāraññaṃ taṃ me akkhāhi pucchito. 

6561. Vậy thì vì lý do gì, hay là vì nguyên nhân gì, mà ông đã đi đến khu rừng rộng lớn? Được hỏi, xin ông hãy giải thích điều ấy cho tôi.”

456. Nói cho ta biết nguyên nhân,
Lý do nào khiến tôn ông lên đường,
Ðẩy đưa ông tận rừng hoang,
Xin ông hãy nói rõ ràng ta hay.

6562. Yathā vārivaho pūro sabbakāle na khīyati, evaṃ taṃ yācitāgañchiṃ putte me dehi yācito.

6562. “Giống như dòng nước chảy luôn luôn được tràn đầy, không bị cạn kiệt, tương tự như vậy, ta đã đi đến để cầu xin ngài. Được yêu cầu, xin ngài hãy ban cho ta hai người con.”

457. Giống như hồng thủy ngập đầy
Và không hề có một ngày nào vơi,
Thần nay muốn đến xin ngài
Ban cho thần được cả hai con nhà.

6563. Dadāmi na vikampāmi issaro naya brāhmaṇa, pāto gatā rājaputtī sāyaṃ uñchāto ehīti. 

6563. “Tôi sẽ ban cho, tôi không do dự. Này vị Bà-la-môn, ông là chủ nhân, ông hãy dẫn chúng đi. Vào buổi sáng, nàng công chúa đã ra đi, chiều tối, nàng sẽ trở về sau việc thu nhặt củ quả.

458. Ban ân, ta chẳng chần chừ,
Ông là chủ chúng từ giờ trở đi.
Sáng nay đi vắng vương phi,
Ðể tìm thực phẩm, chiều về đến đây.

6564. Ekarattiṃ vasitvāna pāto gacchasi brāhmaṇa, tassā nahāte upaghāte atha ne māladhārine. 

6564. Này vị Bà-la-môn, ông hãy ở qua một đêm, đến sáng hãy ra đi, để nàng ấy tắm rửa, xức dầu thơm, rồi đeo tràng hoa cho chúng.

459. Xin ông ở lại đêm nay,
Sáng mai, ông sẽ đi ngay lên đường.
Tắm con, bà xức dầu thơm,
Và quàng cho chúng những tràng hoa tươi.

6565. Ekarattiṃ vasitvāna pāto gacchasi brāhmaṇa, nānāpupphehi sañchanne nānāgandhavibhūsite, nānāmūlaphalākiṇṇe gacchissādāya brāhmaṇa.

6565. Này vị Bà-la-môn, ông hãy ở qua một đêm, đến sáng hãy ra đi. Này vị Bà-la-môn, ông sẽ ra đi mang theo hai đứa trẻ đã được che phủ với các bông hoa khác nhau, đã được tô điểm với nhiều hương thơm khác nhau, đã được chất đầy với các loại củ quả khác nhau.”

460-461. Ðêm nay ở lại, xin ông,
Sáng mai vừa hé vầng đông lên đường,
Hai con sẽ được điểm trang
Với nhiều hoa đẹp mùi hương ngạt ngào,
Rồi ông đem chúng đi mau
Cùng nhiều củ quả dồi dào thức ăn.

6566. Na vāsamabhirocāmi gamanaṃ mayha ruccati, antarāyopi me assa gacchaññeva rathesabha. 

6566. “Ta không thích thú việc ở lại, việc ra đi được ta vui thích. Có thể có sự nguy hiểm cho ta, thưa đấng thủ lãnh xa binh, ta cần phải ra đi.

462. Thưa không, trình tấu Ðại vương,
Thần đi, chẳng dám vấn vương nơi này,
E rằng trở ngại gì đây
Sẽ ngăn cản bước chân ngay trên đường.

6567. Na hetā yācayogī naṃ antarāyassa kāriyā, itthiyo mantaṃ jānanti sabbaṃ gaṇhanti vāmato.

6567. Bởi vì nàng ấy không sẵn sàng đáp ứng lời cầu xin, có thể gây trở ngại. Các nữ nhân biết được quỷ kế. Họ nắm giữ mọi thứ theo sự sai trái.

463. Nữ nhân chẳng phải rộng lòng
Phát ban thường vẫn cản ngăn cố tình,
Biết nhiều mưu kế thông minh,
Thường hay lạc lối, ác hành tạo nên.

6568. Saddhāya dānaṃ dadato māsaṃ addakkhi mātaraṃ, antarāyampi sā kayirā gacchaññeva rathesabha.

6568. Đối với người đang bố thí vật thí vì niềm tin (vào nghiệp và quả), chớ nhìn người mẹ của những đứa trẻ ấy. Nàng ấy thậm chí có thể gây trở ngại, thưa đấng thủ lãnh xa binh, ta cần phải ra đi.

464. Người ban bố với niềm tin
Đừng nên thấy mặt mẹ mình thiết thân,
Nếu không, bà sẽ cản ngăn,
Tâu Quân vương, tiểu thần mong lên đường.

6569. Āmantayassu te putte mā te mātaramaddasuṃ, saddhāya dānaṃ dadato evaṃ puññaṃ pavaḍḍhati.

6569. Xin ngài hãy thông báo cho hai đứa trẻ ấy. Chớ để hai đứa trẻ nhìn thấy mẹ của chúng. Đối với người đang bố thí vật thí vì niềm tin (vào nghiệp và quả), như vậy phước báu được tăng trưởng.

465. Xin ban vương tử, công nương,
Đừng cho trẻ thấy mặt vương phi này.
Người ban bố, tín tâm đầy,
Thì công đức ấy càng ngày càng tăng.

6570. Āmantayassu te putte mā te mātaramaddasuṃ, mādisassa dhanaṃ datvā rāja saggaṃ gamissasi.

6570. Xin ngài hãy thông báo cho hai đứa trẻ ấy. Chớ để hai đứa trẻ nhìn thấy mẹ của chúng. Tâu bệ hạ, sau khi bố thí tài sản đến người như ta đây, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.”

466. Xin ban vương tử, công nương,
Ðừng cho trẻ thấy mặt vương phi này
Người cho kẻ giống thần đây,
Ði lên thiên giới thẳng ngay tức thì!

6571. Sace tvaṃ nicchase daṭṭhuṃ mama bhariyaṃ patibbataṃ, ayyakassapi dassehi jāliṃ kaṇhājinañcubho.

6571. “Nếu ông không muốn gặp người vợ chung thủy của tôi, ông hãy cho cả hai Jāli và Kaṇhājinā gặp mặt ông nội.

467. Nếu không muốn thấy vương phi,
Trung thành tận tụy hiền thê quả là,
Hãy đưa Jà-lí, Kan-hà,
Ði thăm tổ phụ vương gia trên đường.

6572. Ime kumāre disvāna mañjuke piyabhāṇine, patīto sumano vitto bahuṃ dassati te dhanaṃ.

6572. Sau khi nhìn thấy hai đứa trẻ có giọng nói du dương, có lời nói đáng yêu này, ông nội sẽ sung sướng, có thiện ý, hân hoan, rồi sẽ ban cho ông nhiều tài sản.”

468. Khi nhìn đôi trẻ dễ thương,
Nói năng dịu ngọt đến gần vương gia,
Ngài ban nhiều của lắm quà,
Tràn đầy hỷ lạc, chan hòa hân hoan.

6573. Acchedanassa bhāyāmi rājaputta suṇohi me, rājā daṇḍāya maṃ dajjā vikkiṇeyya haneyya vā, jino dhanañca dāse ca gārayhassa brahmabandhuyā.

6573. “Ta sợ hãi về tội bắt cóc. Thưa thái tử, xin ngài hãy lắng nghe tôi. Đức vua có thể ban cho ta hình phạt, có thể bán ta đi, hoặc giết chết ta. Bị thất bại về tài sản và những kẻ nô tỳ, ta sẽ bị chê trách bởi vị nữ Bà-la-môn (người vợ).”

469-470. Thần e làm hỏng hành trang,
Thần xin ngài, hỡi ông hoàng, nghe đây:
Phụ vương trừng trị thần ngay,
Hoặc sai giết, bản thân này còn chi,
Không tiền của, chẳng nô tỳ,
Thì bà nội tướng cười chê trăm đường.

6574. Ime kumāre disvāna mañjuke piyabhāṇine, dhamme ṭhito mahārājā sivīnaṃ raṭṭhavaḍḍhano,
laddhā pītisomanassaṃ bahuṃ dassati te dhanaṃ.

6574. “Sau khi nhìn thấy hai đứa trẻ có giọng nói du dương, có lời nói đáng yêu này, vị đại vương, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, đứng vững ở công lý, sau khi đạt được tâm phỉ lạc, sẽ ban cho ông nhiều tài sản.”

471-472. Khi nhìn đôi trẻ dễ thương,
Nói năng dịu ngọt, đến gần vương quân,
Vị vua cấp dưỡng toàn dân
Si-vi quốc vốn công bằng chánh chân,
Sẽ ban ông lắm bạc vàng,
Hân hoan thích thú ngập tràn niềm vui.

6575. Nāhaṃ tampi karissāmi yaṃ maṃ tvaṃ anusāsasi, dārake ca ahaṃ nessaṃ brāhmaṇiyā paricārake. 

6575. “Ta sẽ không làm theo điều mà ngài chỉ bảo cho ta. Và ta sẽ dẫn hai đứa trẻ về làm người hầu hạ cho vị nữ Bà-la-môn.”

473. Không, thần không thể nghe lời
Làm điều này nọ mà ngài đưa ra.
Thần mong đem bọn trẻ thơ
Ðể về hầu hạ vợ nhà đó thôi!

6576. Tato kumārā byathitā sutvā luddassa bhāsitaṃ,tena tena padhāviṃsu jālikaṇhājinā cubho. 

6576. Vì thế, sau khi nghe được lời nói của kẻ hung ác, cả hai đứa trẻ Jāli và Kaṇhājinā, bị bức hiếp, đã bỏ chạy đến nơi này nơi khác.

474. Jà-li chạy tới chạy lui
Cùng Kan-hà, chúng đứng ngồi không an
Trong niềm đau khổ muôn vàn,
Khi nghe giọng nói người săn theo mình.

6577. Ehi tāta piyaputta pūretha mama pāramiṃ, hadayaṃ mebhisiñcetha karotha vacanaṃ mama. 

(Lời vị Vessantara nói với con trai Jāli)

6577. “Này con thương, con hãy đến. Này con trai yêu quý, con hãy làm cho pháp toàn hảo của cha được hoàn tất. Con hãy tưới mát trái tim của cha, hãy làm theo lời nói của cha.

475. Con yêu dấu, tới đây nhanh,
Hãy làm đạo hạnh hoàn thành cho cha.
Ðến đây thánh hóa tim ta,
Hãy theo ý nguyện cha đến cùng.

6578. Yānanāvā ca me hotha acalā bhavasāgare, jātipāraṃ tarissāmi santāressaṃ sadevake.

6578. Và con hãy là phương tiện di chuyển, là chiếc thuyền không bị chao đảo của cha ở biển cả của hiện hữu. Cha sẽ vượt qua bờ kia của sự sanh, cha sẽ giúp cho cả thế gian luôn cả chư Thiên vượt qua.”

476. Con làm thuyền chở băng dòng
Cho cha vượt biển sinh tồn bình yên,
Vượt lên thế giới Nhân Thiên,
Cha nguyền qua đến bến miền tự do.

6579. Ehi amma piyadhīti pūretha mama pāramiṃ, hadayaṃ mebhisiñcetha karotha vacanaṃ mama.

(Lời vị Vessantara nói với con gái Kaṇhājinā)

6579. “Này con thương, con hãy đến. Này con gái yêu quý, con hãy làm cho pháp toàn hảo của cha được hoàn tất. Con hãy tưới mát trái tim của cha, hãy làm theo lời nói của cha.

477. Con yêu dấu, tới đây nhanh,
Hãy làm đạo hạnh hoàn thành cho cha.
Ðến đây thánh hóa tim ta,
Hãy theo ý nguyện cha đến cùng.

6580. Yānanāvā ca me hotha acalā bhaasāgare, jātipāraṃ tarissāmi uddharissaṃ sadevake.

6580. Và con hãy là phương tiện di chuyển, là chiếc thuyền không bị chao đảo của cha ở biển cả của hiện hữu. Cha sẽ vượt qua bờ kia của sự sanh, cha sẽ nâng đỡ thế gian luôn cả chư Thiên.”

478. Con làm thuyền chở băng dòng
Cho cha vượt biển sinh tồn bình yên,
Vượt lên thế giới Nhân Thiên,
Cha nguyền qua đến bến miền tự do.

6581. Tato kumāre ādāya jāliṃ kaṇhājinañcubho, brāhmaṇassa adā dānaṃ sivīnaṃ raṭṭhavaḍḍhano. 

6581. Sau đó, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi đã dắt hai đứa trẻ Jāli và Kaṇhājinā lại, rồi đã bố thí vật thí đến lão Bà-la-môn.

479. Người bảo dưỡng dân, vị Ðại vương
Si-vi quốc độ dẫn hai con
Và đem tặng vật cao sang nhất
Cho đạo sĩ kia, thật sẵn lòng.

6582. Tato kumāre ādāya jāliṃ kaṇhājinañcubho, brāhmaṇassa adā vitto puttake dānamuttamaṃ.

6582. Sau đó, vị Vessantara đã dắt hai đứa trẻ Jāli và Kaṇhājinā lại, rồi đã hân hoan bố thí vật thí tối thượng – là hai đứa con nhỏ – đến lão Bà-la-môn.

6583. Tadāsi yaṃ bhiṃsanakaṃ tadāsi lomahaṃsanaṃ, yaṃ kumāre padinnamhi medinī samakampatha. 

6583. Lúc bấy giờ, việc ấy đã là sự kinh hoàng. Lúc bấy giờ, đã có sự dựng đứng lông. Vào lúc hai đứa con nhỏ được ban ra, trái đất đã rúng động.

480. Thế rồi, đầy sợ hãi, kinh hoàng,
Cõi đất lớn này đã chuyển rung
Giờ phút này vua tay chắp lại
Và ban tặng vật: cả hai con.

6584. Tadāsi yaṃ bhiṃsanakaṃ tadāsi lomahaṃsanaṃ, yaṃ pañjalikato rājā kumāre sukhavacchite,
brāhmaṇassa adā dānaṃ sivīnaṃ raṭṭhavaḍḍhano. 

6584. Lúc bấy giờ, việc ấy đã là sự kinh hoàng. Lúc bấy giờ, đã có sự dựng đứng lông. Vào lúc đức vua, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, đã chắp tay lại, và đã bố thí vật thí – là hai đứa trẻ đã được sống sung sướng – đến lão Bà-la-môn.

481. Thế rồi đầy sợ hãi, kinh hoàng,
Cõi đất lớn này đã chuyển rung
Khi chúa Si-vi đem quý tử
Sẵn lòng cho lão Bà-la-môn.

6585. Tato so brāhmaṇo luddo lataṃ dantehi chindiya, latāya hatthe bandhitvā latāya anumajjatha. 

6585. Sau đó, lão Bà-la-môn hung ác ấy đã dùng những chiếc răng cắn đứt sợi dây rừng, và đã trói hai cánh tay của hai đứa trẻ lại bằng sợi dây rừng, rồi đã dùng sợi dây rừng quất vào chúng.

482. Lão đạo sĩ kia độc ác thay
Cắt ngay một nhánh dây leo dài,
Buộc dây vào cánh tay đôi trẻ
Và kéo chúng đi cách thế này.

6586. Tato so rajjumādāya daṇḍañcādāya brāhmaṇo, ākoṭayanto te neti sivirājassa pekkhato. 

6586. Kế đến, lão Bà-la-môn ấy đã cầm lấy sợi dây thừng và đã cầm lấy cây gậy, rồi vừa đánh đập vừa dẫn chúng đi, trong khi đức vua xứ Sivi đang dõi mắt nhìn theo.

483. Rồi đạo sĩ kia, gậy dưới tay,
Cầm dây leo ấy chặt trong tay,
Ðánh bầy con trẻ và xua chúng
Trước mắt nhìn theo của chính ngài.

6587. Tato kumārā pakkāmuṃ brāhmaṇassa pamuñciya, assupuṇṇehi nettehi pitaraṃ so udikkhati.

6587. Tiếp đó, hai đứa trẻ, sau khi được thoát khỏi lão Bà-la-môn, đã bỏ đi. Đứa bé trai ấy đã ngước nhìn cha với cặp mắt tràn đầy nước mắt.

484. Ðôi trẻ như vầy được thoát thân
Chạy bay khỏi lão Bà-la-môn,
Bé trai nhìn mặt cha khi ấy
Dòng lệ tuôn ra cặp mắt tràn.

6588. Vedhaṃ assatthapattaṃva pitu pādāni vandati, pitu pādāni vanditvā idaṃ vacanamabravi. 

6588. Đứa bé trai đảnh lễ hai bàn chân của người cha, trong khi đang run rẩy tựa như chiếc lá sung. Sau khi đảnh lễ hai bàn chân của người cha, nó đã nói lời nói này:

485. Như gặp gió lay, ngọn lá sung,
Thân bé trai kia cứ chuyển rung,
Tay cậu ôm chân cha thật chặt,
Nói lời cùng với vị cha thân:

6589. Ammā ca tāta nikkhantā tvaṃ ca no tāta dassasi, yāva ammampi passemu atha no tāta dassasi. 

6589. “Thưa cha, trong lúc mẹ đi vắng, và thưa cha, cha sẽ bố thí chúng con. Thưa cha, hãy chờ đến khi chúng ta gặp lại mẹ rồi cha sẽ bố thí chúng con.

486. - Sao cha muốn bỏ lũ con thơ
Trong lúc mẹ đang phải vắng nhà?
Ðừng bỏ, đợi khi bà trở lại,
Khi bà trở lại, hãy chần chờ.

6590. Ammā ca tāta nikkhantā tvaṃ ca no tāta dassasi, mā no tvaṃ tāta adadā yāva ammāpi eti no, tadāyaṃ brāhmaṇo kāmaṃ vikkiṇātu hanātu vā. 

6590. Thưa cha, trong lúc mẹ đi vắng, và thưa cha, cha sẽ bố thí chúng con. Thưa cha, cha chớ bố thí chúng con cho đến khi mẹ về lại với chúng con. Khi ấy, hãy để cho lão Bà-la-môn này bán chúng con hoặc giết chết tùy ý.

487-488. Sao cha muốn bỏ lũ con thơ
Trong lúc mẹ đang phải vắng nhà?
Hãy đợi đến khi bà trở lại,
Rồi cho con trẻ hợp lòng cha!
Rồi cho đạo sĩ đem đi bán
Hoặc để lão già giết trẻ thơ!

6591. Balaṅkapādo addhanakho atho ovaddhapiṇḍiko, dīghuttaroṭṭho capalo kaḷāro bhagganāsako.

6591. Bàn chân (của lão) to rộng, móng dơ dáy, mông xệ xuống, môi trên trề ra, nhểu nước miếng, nhe răng nanh, mũi bị gãy.

489. Chân lão to phù, móng xác xơ,
Thịt u xệ xuống tựa bao da,
Môi dài phía dưới luôn run rẩy,
Mũi gãy, đen sì thật khó ưa!

6592. Kumbhodaro bhaggapiṭṭhi atho visamacakkhulo, lohamassu haritakeso valīnaṃ tilakāhato.

6592. Bụng (của lão) như cái lu, lưng còng, rồi hai mắt không đều, râu màu hung đỏ, tóc màu vàng, da nhăn nheo, lấm tấm các chấm tàn nhang.

490. Bụng như cái trống, chiếc lưng còng,
Ðôi mắt nhìn sao lé đứng tròng,
Ðầy vết nhăn nheo và lốm đốm,
Râu màu máu đỏ, tóc vàng hung.

6593. Piṅgalo ca vinato ca vikaṭo ca brahā kharo, ajināni ca sannaddho amanusso bhayānako.

6593. Hai mắt như mắt mèo, hông, lưng, và thân cong quẹo, bàn chân bị biến dạng, mặc y phục da dê đồ sộ và thô kệch, không giống con người, là kẻ gây nên nỗi sợ hãi.

491. Võ vàng, rệu rã, khoác da nai,
Thô lỗ, bạo tàn, chẳng giống ai,
Nửa ngợm nửa người, co quắp lại,
Thật là khủng khiếp cái hình hài!

6594. Manusso udāhu yakkho maṃsalohitabhojano, gāmā araññaṃ āgamma dhanaṃ taṃ tāta yācati, nīyamāne pisācena kinnu tāta udikkhasi.

6594. Thưa cha, lão là người hay là Dạ-xoa có thức ăn là thịt và máu, mà lão đã từ làng đi vào rừng cầu xin cha tài sản? Trong khi chúng con bị quỷ sứ dẫn đi, tại sao cha lại dửng dưng?

492. Quỷ ăn thịt sống hoặc người trần?
Cha cứ nhìn xem thật tĩnh tâm:
Con quỷ này vào rừng vắng vẻ
Ðể xin cha bố thí ban ân?

6595. Asmā nūna te hadayaṃ āyasaṃ daḷhabandhanaṃ, yo no baddhe na jānāsi brāhmaṇeṇa dhanesinā, accāyikena luddena yo no gāvova sumbhati.

6595. Phải chăng trái tim của cha là tảng đá, là cục sắt có sự trói buộc chặt chẽ, khi cha không biết đến chúng con bị lão Bà-la-môn tầm cầu tài sản, vô cùng hung ác, trói lại và đánh đập chúng con như là đánh đập trâu bò?

493-494. Có phải tim cha hóa đá chăng
Buộc thêm sợi thép chặt quanh vòng,
Không quan tâm lão già tham dục
Chẳng chút nào thương xót chạnh lòng
Trói chúng con và xua đuổi mãi
Như trâu bò phải chạy lông rông?

6596. Idheva acchataṃ kaṇhā na sā jānāsi kismici, migīva khīrasammattā yūthā hīnā pakandati.

6596. Hãy để Kaṇhā ở lại ngay tại nơi này. Nó không hiểu biết bất cứ việc gì. Nó tựa như con nai cái nhỏ bị lạc khỏi bầy, thèm khát sữa mẹ, kêu khóc.

495. Ít nhất, con mong cầu khẩn cha
Cho em ở lại, bé Kan-hà
Giống như nai nhỏ đang còn bú
Kêu khóc vì đi lạc cả nhà.

6597. Na me idaṃ tathā dukkhaṃ labbhā hi pumunā idaṃ, yañca ammaṃ na passāmi taṃ me dukkhataraṃ ito.

6597. Việc (bị đánh đập) như thế này không là điều khổ sở đối với con, bởi vì việc này loài người có thể nhận lãnh. Và việc con không còn nhìn thấy mẹ, việc ấy đối với con là khổ sở hơn việc (bị đánh đập) này.

496. Con chẳng lo gì chết khổ thân,
Ðó là số phận mọi thường nhân,
Nhưng không thấy bóng hình từ mẫu
Quả thật điều trên đáng khổ buồn!

6598. Na me idaṃ tathā dukkhaṃ labbhā hi pumunā idaṃ, yañca tātaṃ na passāmi taṃ me dukkhataraṃ ito.

6598. Việc (bị đánh đập) như thế này không là điều khổ đau đối với con, bởi vì việc này loài người có thể nhận lãnh. Và việc con không còn nhìn thấy cha, việc ấy đối với con là khổ sở hơn việc (bị đánh đập) này.

497. Con chẳng lo gì chết khổ thân,
Ðó là số phận mọi thường nhân,
Nhưng không nhìn thấy hình thân phụ,
Quả thật điều trên đáng khổ buồn.

6599. Sā nūna kapaṇā ammā cirarattāya rucchati, kaṇhājinaṃ apassantī kumāriṃ cārudassaniṃ. 

6599. Người mẹ khốn khổ ấy quả thật sẽ khóc lóc trong đêm dài, khi không nhìn thấy Kaṇhājinā, cô bé gái có dáng vẻ dễ mến.

6600. So nūna kapaṇo tāto cirarattāya rucchati, kaṇhājinaṃ apassanto kumāriṃ cārudassaniṃ. 

6600. Người cha khốn khổ ấy quả thật sẽ khóc lóc trong đêm dài, khi không nhìn thấy Kaṇhājinā, cô bé gái có dáng vẻ dễ mến.

6601. Sā nūna kapaṇā ammā ciraṃ rucchati assame, kaṇhājinaṃ apassantī kumāriṃ cārudassaniṃ. 

6601. Người mẹ khốn khổ ấy quả thật sẽ khóc lóc dài lâu ở khu ẩn cư, khi không nhìn thấy Kaṇhājinā, cô bé gái có dáng vẻ dễ mến.

6602. So nūna kapaṇo tato ciraṃ rucchati assame, kaṇhājinaṃ apassanto kumāriṃ cārudassaniṃ. 

6602. Người cha khốn khổ ấy quả thật sẽ khóc lóc dài lâu ở khu ẩn cư, khi không nhìn thấy Kaṇhājinā, cô bé gái có dáng vẻ dễ mến.

6603. Sā nūna kapaṇā ammā cirarattāya rucchati, aḍḍharatte va ratte vā nadīva avasucchati. 

6603. Người mẹ khốn khổ ấy quả thật sẽ khóc lóc trong đêm dài, vào lúc nửa đêm hoặc lúc cuối đêm, tựa như dòng sông sẽ trở nên khô cạn.

498-499. Mẹ cha than khóc sẽ dài lâu,
Chẳng biết bao giờ hết khổ đau,
Vào lúc nửa đêm, trời tảng sáng,
Như nguồn suối chảy, các dòng châu
Vì không thấy mặt Kan-hà nữa,
Con gái được yêu quý biết bao!

6604. So nūna kapaṇo tāto cirarattāya rucchati, aḍḍharatte va ratte vā nadīva avasucchati. 

6604. Người cha khốn khổ ấy quả thật sẽ khóc lóc trong đêm dài, vào lúc nửa đêm hoặc lúc cuối đêm, tựa như dòng sông sẽ trở nên khô cạn.

6605. Ime te jambukā rukkhā vedisā sindhuvārikā, vividhāni rukkhajātāni tāni ajja jahāmase. 

6605. Những cây táo hồng, những cây vedisa, những cây sindhuvārika này thuộc về cha, hôm nay, chúng con từ giã những giống cây đa dạng ấy.

500. Khóm hồng đào vẫn mọc la đà
Lủng lẳng chung quanh mặt nước hồ,
Ôi! Cả rừng cây đầy quả chín,
Từ nay ta ngoảnh mặt làm ngơ!

6606. Assatthā panasā ceme nigrodhā ca kapitthanā, vividhāni phalajātāni tāni ajja jahāmase.

6606. Những cây sung, những cây mít, những cây đa, những cây táo rừng này, hôm nay, chúng con từ giã những loại trái cây đa dạng ấy.

501. Cây sung, cây mít với cây đa
Tỏa rộng, mọi cây cối mọc ra,
Ôi! Cả rừng cây đầy quả chín
Từ nay ta ngoảnh mặt làm ngơ!

6607. Ime tiṭṭhanti ārāmā ayaṃ sītodikā nadī, yatthassu pubbe kīḷāma tāni ajja jahāmase.

6607. Những khu vườn này tồn tại, dòng sông có nước mát này, là những nơi chúng con đùa giỡn trước đây, hôm nay, chúng con từ giã chúng.

502. Ðứng kia như cả một vườn hoa,
Dòng suối kìa trôi thật lặng lờ,
Nơi chốn ngày xưa đùa giỡn ấy,
Ngày nay ta ngoảnh mặt làm ngơ!

6608. Vividhāni pupphajātāni asmiṃ upari pabbate, yānassu pubbe dhārema tāni ajja jahāmase.

6608. Những thứ trái cây nhiều loại ở bên trên ngọn núi này, những trái cây chúng con mang đi trước đây, hôm nay, chúng con từ giã chúng.

503. Trái núi ngày xưa ta vẫn ăn
Hoa rừng thuở trước vẫn thường mang,
Mọc trên đồi nọ đằng xa ấy,
Giờ phút này ta phải bỏ ngang!

6609. Vividhāni phalajātāni asmiṃ upari pabbate, yānassu pubbe bhuñjāma tāni ajja jahāmase.

6609. Những thứ trái cây nhiều loại ở bên trên ngọn núi này, những trái cây chúng con ăn trước đây, hôm nay, chúng con từ giã chúng.

6610. Ime no hatthikā assā balivaddā ca no ime, yehissu pubbe kīḷāma tāni ajja jahāmase.

6610. Những con voi, những con ngựa (đồ chơi) này của chúng con, và những con trâu (đồ chơi) này của chúng con, chúng con đùa giỡn với chúng trước đây, hôm nay, chúng con từ giã chúng.”

504. Xinh xinh, nhỏ nhắn các đồ chơi,
Ngày trước ta đùa giỡn chúng hoài,
Bầy ngựa, trâu bò, voi đủ thứ,
Ngày nay ta cũng phải xa rời!

6611. Nīyamānā kumārā te pitaraṃ etadabravuṃ, ammaṃ ārogyaṃ vajjāsi tvaṃ ca tāta sukhī bhava.

6611. Hai đứa trẻ ấy, trong khi bị lôi đi, đã nói với người cha điều này: “Cha ơi, cầu mong mẹ sẽ sống mạnh khỏe, và cầu mong cha được an lạc.

505. Hai con trẻ nói với người cha
Trong lúc bị đưa đẩy thật xa:
- Cha hỡi! Mẹ hiền mong mạnh khỏe,
Và mong hạnh phúc tháng ngày qua!

6612. Ime no hatthikā assā balivaddā ca no ime, tāni ammāya dajjāsi sokaṃ tehi vinessati. 

6612. Những con voi, những con ngựa (đồ chơi) này của chúng con, và những con trâu (đồ chơi) này của chúng con, cha có thể trao chúng cho mẹ; với chúng mẹ sẽ vơi đi nỗi sầu muộn.

506. Trâu bò, bầy ngựa, cả bầy voi
Ngày trước chúng con vẫn lấy chơi,
Trao chúng dùm cho hiền mẫu nhé,
Sẽ làm sầu khổ mẹ dần nguôi.

6613. Ime no hatthikā assā balivaddā ca no ime, tāni ammā udikkhantī sokaṃ paṭivinessati. 

6613. Những con voi, những con ngựa (đồ chơi) này của chúng con, và những con trâu (đồ chơi) này của chúng con, trong khi ngắm nhìn chúng, mẹ sẽ dẹp đi nỗi sầu muộn.”

507. Trâu bò, bầy ngựa, cả bầy voi
Ngày trước chúng con vẫn lấy chơi,
Lúc mẹ ngắm nhìn vào bọn chúng
Sẽ làm sầu khổ mẹ dần nguôi.

6614. Tato vessantaro rājā dānaṃ datvāna khattiyo, paṇṇasālaṃ pavisitvā karuṇaṃ paridevayi. 

6614. Sau đó, khi đã bố thí xong vật thí (hai con), đức vua Vessantara, vị Sát-đế-lỵ, đã đi vào gian nhà lá và đã than khóc một cách bi thương rằng:

508. Ông hoàng Sát-lỵ Ves-san-ta
Bố thí như vầy lũ trẻ thơ,
Vội bước đi vào lều cỏ lá,
Ngồi kia than khóc lẫn buồn lo.

6615. Kaṃ nvajja chātā tasitā uparucchanti dārakā, sāyaṃ saṃvesanākāle ko ne dassati bhojanaṃ. 

6615. “Vậy thì hôm nay, hai đứa trẻ sẽ khóc lóc với ai khi bị đói, bị khát? Ai sẽ cho chúng thức ăn lúc chiều tối vào thời điểm đi ngủ?

509. Vào lúc sáng mai hoặc xế chiều,
Ðói ăn, lũ trẻ phải kêu rêu,
Bị cơn đói khát luôn hành hạ,
Ai sẽ cho con trẻ ít nhiều?

6616. Kaṃ nvajja chātā tasitā uparucchanti dārakā, sāyaṃ saṃvesanākāle amma chātamha detha no.

6616. Vậy thì hôm nay, hai đứa trẻ sẽ khóc lóc với ai khi bị đói, bị khát lúc chiều tối vào thời điểm đi ngủ rằng: ‘Mẹ ơi, chúng con đói. Hãy cho chúng con ăn’?

6617. Kathannu pathaṃ gacchanti pattikā anupāhanā, santā sūṇehi pādehi ko ne hatthe gahessati.

6617. Làm thế nào chúng có thể đi bộ đường xa, không giày dép, bị mệt nhọc với hai bàn chân bị sưng vù? Ai sẽ nắm lấy bàn tay chúng (dẫn đi)?

510. Làm sao chân bé bỏng run run
Cất bước đi theo mọi lối mòn
Không có hài? Ai dắt díu chúng,
Ai đưa lối chúng nhẹ nhàng chăng?

6618. Kathannu so na lajjeyya sammukhā paharaṃ mama, adūsakānaṃ puttānaṃ alajjī vata brāhmaṇo.

6618. Tại sao lão ấy không có xấu hổ trong khi đánh đập chúng ngay trước mặt ta, trong khi hai đứa con của ta không phải là những đứa trẻ tồi bại? Lão Bà-la-môn quả thật vô liêm sỉ!

511. Làm sao có thể lão La-môn
Vô sỉ, lúc ta đứng ngóng trông,
Lại đánh con ta nào có tội,
Lão vô liêm sỉ thế là cùng!

6619. Yo hi me dāsi dāsassa añño vā pana pessiyo, tassāpi suvihīnassa ko lajjī paharissati.

6619. Người có sự liêm sỉ thì ai sẽ đánh đập kẻ vô cùng hư hỏng, khi chính kẻ ấy có thể là tôi trai, tớ gái, hay là kẻ hầu hạ nào khác của ta?

512. Không ai biết sỉ nhục như vầy
Lại đối xử người khác thế này,
Dẫu đó là con nô lệ nữa
Mà ta xem thật thấp hèn thay.

6620. Vārijasseva me sato baddhassa kumināmukhe, akkosati paharati piye putte apassato. 

6620. Lão sỉ vả và đánh đập hai đứa con yêu quý của ta, trong khi ta tựa như con cá đã bị giam hãm ở miệng của chiếc lưới đánh cá.

513. Ta không thể thấy lão đằng xa
Nhưng lão đánh đau lũ trẻ nhà
Như thể cá nằm trong chiếc bẫy,
Ta đây bất lực đứng trơ ra!

6621. Āduṃ cāpaṃ gahetvāna khaggaṃ bandhitvā vāmato, ānayāmi sake putte puttānaṃ hi vadho dukho.

6621. Ta sẽ cầm lấy cây cung và buộc thanh gươm ở phía trái, rồi sẽ dẫn đi hai đứa con của mình, bởi vì sự đọa đày của hai đứa con là nỗi khổ đau.

514. Bên trái buộc thanh kiếm cạnh sườn,
Ngài nai nịt đủ với cây cung:
"Ta đem con trẻ về nhà lại,
Ðánh mất con thơ thật khổ buồn.

6622. Aṭṭhānametaṃ dukkharūpaṃ yaṃ kumārā vihaññare, satañca dhammamaññāya ko datvā atha tappati.

6622. Điều này là không có cơ sở, là trạng thái khổ đau về việc hai đứa trẻ có thể bị giết chết. Người nào đã hiểu rõ truyền thống của các bậc thiện nhân mà còn bị tiếc nuối sau khi đã bố thí?”

515. Nhưng nếu con ta phải mạng vong
Thật tàn nhẫn quá, nỗi đau lòng:
Nào ai biết thói lề người thiện
Và đến cầu xin nữa phải không?"

6623. Saccaṃ kirevamāhaṃsu narā ekacciyā idha, yassa natthi sakā mātā yathā natthi tatheva so. 

(Lời Lời than van của bé trai Jāli)

6623. “Nghe rằng sự thật là như vầy, một số người ở thế gian này đã nói rằng: ‘Người nào (có cha) mà không có mẹ của mình thì giống như là không có; ta đây là như thế ấy.

516. Tục ngữ hình như thật đúng thay
Người đời thường vẫn nói như vầy:
Ai không có mẹ mình bên cạnh
Cũng giống không cha ruột thế này.

6624. Ehi kaṇhe marissāma natthattho jīvitena no, dinnamhāpi janindena brāhmaṇassa dhanesino, accāyikassa luddassa yo no gāvova sumbhati. 

6624. Này Kaṇhā, hãy đến. Chúng ta sẽ chết. Mạng sống của chúng ta không có ý nghĩa gì. Chúng ta đã được cha bố thí cho lão Bà-la-môn tầm cầu tài sản, vô cùng hung ác, là kẻ đánh đập chúng ta như là đánh đập trâu bò.

517. Ðời chẳng còn gì với chúng ta,
Thà ta chết: chỉ phận gia nô,
Con người tàn bạo đầy tham ác
Xua đuổi chúng ta tựa lũ bò.

6625. Ime te jambukā rukkhā vedisā sindhuvārikā, vividhāni rukkhajātāni tāni kaṇhe jahāmase. 

6625. Những cây táo hồng, những cây vedisa, những cây sindhuvārika này thuộc về cha, này Kaṇhā, chúng ta từ giã những giống cây đa dạng ấy.

518. Khóm hồng đào vẫn mọc la đà
Lủng lẳng chung quanh mặt nước hồ,
Ôi! Cả rừng cây đầy quả chín
Từ nay ta ngoảnh mặt làm ngơ!

6626. Assatthā panasā ceme nigrodhā ca kapitthanā, vivadhāni phalajātāni tāni kaṇhe jahāmase. 

6626. Những cây sung, những cây mít, những cây đa, những cây táo rừng này, này Kaṇhā, chúng ta từ giã những loại trái cây đa dạng ấy.

519. Cây sung, cây mít với cây đa
Tỏa rộng, mọi cây cối mọc ra,
Ôi! Cả rừng cây đầy quả chín
Từ nay ta ngoảnh mặt làm ngơ!

6627. Ime tiṭṭhanti ārāmā ayaṃ sītodikā nadī, yatthassu pubbe kīḷāma tāni kaṇhe jahāmase. 

6627. Những khu vườn này tồn tại, dòng sông có nước mát này, là những nơi chúng con đùa giỡn trước đây, hôm nay, chúng ta từ giã chúng.

520. Ðứng kia như cả một vườn hoa,
Dòng suối kìa trôi thật lặng lờ,
Nơi chốn ngày xưa đùa giỡn ấy,
Ngày nay ta ngoảnh mặt làm ngơ!

6628. Vividhāni pupphajātāni asmiṃ upari pabbate, yānassu pubbe dhārema tāni kaṇhe jahāmase. 

6628. Những thứ trái cây nhiều loại ở bên trên ngọn núi này, những trái cây chúng ta mang đi trước đây, này Kaṇhā, chúng ta từ giã chúng.

521. Trái núi ngày xưa ta vẫn ăn,
Hoa rừng thuở trước vẫn thường mang,
Mọc trên đồi nọ đằng xa ấy,
Giờ phút này ta phải bỏ ngang!

6629. Vividhāni phalajātāni asmiṃ upari pabbate, yānassu pubbe bhuñjāma tāni kaṇhe jahāmase.

6629. Những thứ trái cây nhiều loại ở bên trên ngọn núi này, những trái cây chúng ta ăn trước đây, này Kaṇhā, chúng ta từ giã chúng.

6630. Ime no hatthikā assā balivaddā ca no ime, yehissu pubbe kīḷāma tāni kaṇhe jahāmesa.

6630. Những con voi, những con ngựa (đồ chơi) này của chúng ta, và những con trâu (đồ chơi) này của chúng ta, chúng ta đùa giỡn với chúng trước đây, này Kaṇhā, chúng ta từ giã chúng.”

522. Xinh xinh, nhỏ nhắn các đồ chơi,
Ngày trước ta đùa giỡn chúng hoài,
Bầy ngựa, trâu bò, voi đủ thứ,
Ngày nay ta cũng phải xa rời!

6631. Nīyamānā kumārā te brāhmaṇassa pamuñciya, tena tena padhāviṃsu jālī kaṇhājinā cubho.

6631. Hai đứa trẻ ấy, trong khi bị lôi đi, sau khi được thoát khỏi lão Bà-la-môn, cả hai đứa trẻ Jāli và Kaṇhājinā đã bỏ chạy đến nơi này nơi khác.

523. Lúc ấy Kan-hà với Jà-li
Ðược La-môn nọ dẫn đường đi,
Thoát thân, chúng vội vùng lên chạy
Mải miết chúng bay biến tức thì.

6632. Tato so rajjumādāya daṇḍañcādāya brāhmaṇo, ākoṭayanto te neti sivirājassa pekkhato.

6632. Sau đó, lão Bà-la-môn ấy đã cầm lấy sợi dây thừng và đã cầm lấy cây gậy, rồi vừa đánh đập vừa dẫn chúng đi, trong khi đức vua xứ Sivi đang dõi mắt nhìn theo.

524. Rồi lão đạo nhân nắm sợi dây,
Và cầm cây gậy ở trong tay
Vừa đem chúng trở về, vừa đánh,
Trong lúc vua đành phải ngó ngây!

6633. Taṃ taṃ kaṇhājināvoca ayaṃ maṃ tāta brāhmaṇo, laṭṭhiyā patikoṭeti ghare jātaṃva dāsiyaṃ.

6633. Kaṇhājinā đã nói điều ấy với cha rằng: “Cha ơi, lão Bà-la-môn này đánh con bằng cây gậy như là đánh đứa tớ gái đã được sanh ra ở trong nhà.

525. Cô bé Kan-hà nói thế này:
- Cha ơi, xin hãy ngắm nhìn đây:
Con như nô lệ xuất thân ấy
Ðạo sĩ đánh con thật mạnh tay!

6634. Na cāyaṃ brāhmaṇo tāta dhammikā honti brāhmaṇā, yakkho brāhmaṇavaṇṇena khādituṃ tāta neti no, nīyamāne pisācena kinnu tāta udikkhasi.

6634. Và cha ơi, lão này không phải là Bà-la-môn; các vị Bà-la-môn là có đạo lý. Cha ơi, gã Dạ-xoa với vóc dáng Bà-la-môn dẫn chúng con đi để ăn thịt. Trong khi chúng con bị quỷ sứ dẫn đi, tại sao cha lại dửng dưng?”526-527. Ðạo sĩ là người sống chánh chân,
Lão này không phải Bà-la-môn,
Quỷ ma đội lốt La-môn ấy
Lão dẫn đi ăn thịt chúng con,
Cha có thể ngồi yên ngắm nghía
Trẻ con bị bắt để ma ăn?

6635. Ime no pādukā dukkhā dīgho caddhā suduggamo, nīce volambate suriyo brāhmaṇo ca tareti no.

(Lời than van của bé gái Kaṇhājinā)

6635. “Các bàn chân nhỏ của chúng con đau nhức, và cuộc hành trình dài là vô cùng khó đi. Mặt trời treo lơ lửng ở dưới thấp, và lão Bà-la-môn thúc giục chúng con bước đi.

528. Ðau nhức đôi chân của trẻ thơ,
Con đường thật khó bước đi qua,
Ðạo nhân xua đuổi bầy con trẻ,
Vầng nhật lăn dần ở phía xa.

6636. Okandāmasi bhūtāni pabbatāni vanāni ca, sarassa sirasā vandāma supatitthe ca āpake.

6636. Chúng con cầu khấn các thần linh, các ngọn núi và các khu rừng. Chúng con xin cúi đầu đảnh lễ (các gia tộc loài rồng cai quản) hồ nước và (đang cư ngụ) ở dòng sông có những bến tắm xinh đẹp.

529. Qua các núi đồi, rừng thẳm xanh,
Những nơi cư ngụ các thần linh,
Chúng con trân trọng chào chư vị,
Tất cả, chúng con thảy cúi mình.

6637. Tiṇalatā ca osaddhyo pabbatāni vanāni ca, ammaṃ ārogyaṃ vajjātha ayaṃ no neti brāhmaṇo. 

6637. Thưa các loài cỏ, các giống dây leo, các thảo dược, các ngọn núi và các khu rừng, xin các ngài hãy chúc sức khỏe cho mẹ. Lão Bà-la-môn này dẫn chúng con đi.

530-531. Chào chư thần trú ngụ hồ này,
Cùng cỏ dây leo, rễ mọc dày,
Mong ước mẹ hiền con mạnh khỏe,
Nhưng La-môn nọ đuổi con ngay,
Nếu bà muốn chạy theo con trẻ.
Xin chớ chần chờ, phải chạy bay.

6638. Vajjantu bhonto ammañca maddiṃ amhākamātaraṃ, sace anupatitukāmāsi khippaṃ anupatiyāsi no. 

6638. Xin các ngài hãy nói với mẹ Maddī, là mẹ của chúng con, rằng: ‘Nếu mẹ muốn đuổi theo, mẹ nên mau chóng đuổi theo chúng con.

6639. Ayaṃ ekapadī eti ujuṃ gacchati assamaṃ, tamevanupateyyāsi api passesi no lahuṃ. 

6639. Lối đi bộ này đi đến, đi thẳng đến khu ẩn cư. Mẹ nên đi theo chính lối đi ấy, mẹ có thể mau chóng nhìn thấy chúng con.

532. Con đường dẫn đến chiếc am tranh,
Con trẻ thường theo bước lộ trình,
Nếu mẹ muốn theo đường lối ấy,
Mẹ tìm con trẻ thật là nhanh.

6640. Aho vata re jaṭini vanamūlaphalahārike, suññaṃ disvāna assamaṃ taṃ te dukkhaṃ bhavissati.

6640. Ôi, hỡi người mẹ có tóc bện, hỡi người mẹ mang lại rễ và trái cây rừng, sau khi nhìn thấy khu ẩn cư trống không, điều ấy sẽ là nỗi đau khổ cho mẹ.

533. Mẹ hái trái cây, các củ rừng,
Tóc thường được kết lại từng chùm,
Khi nhìn thấy chiếc am tranh vắng
Sẽ khiến mẹ đau đớn tột cùng.

6641. Ativelaṃ nūna ammāya uñchāladdho anappako, yā no baddhe na jānāti brāhmaṇena dhanesinā, accāyikena luddena yo no gāvova sumbhati. 

6641. Phải chăng quá tốn thời gian cho mẹ trong việc đạt được không ít củ quả thu nhặt? Và mẹ không biết chúng con bị lão Bà-la-môn tầm cầu tài sản, vô cùng hung ác, trói lại và đánh đập chúng con như là đánh đập trâu bò?

534-535. Mẹ ta đi kiếm quả từ lâu,
Chắc mẹ đã chất đống thật cao,
Mẹ chẳng biết con người độc ác
Tham lam buộc chặt trẻ ra sao.
Vô cùng độc ác là người đó
Xua đuổi chúng ta tựa lũ trâu.

6642. Ahajja ammaṃ passemu sāyaṃ uñchāto āgataṃ, dajjā ammā brāhmaṇassa phalaṃ khuddena missitaṃ. 

6642. Ôi, ước gì hôm nay chúng con cũng còn nhìn thấy mẹ trở về vào lúc chiều tối sau việc thu nhặt củ quả. Mẹ sẽ mời lão Bà-la-môn món trái cây trộn với mật ong.

536. Ôi, nếu mẹ ta đến xế tà,
Nếu hai bên gặp gỡ tình cờ,
Mẹ cho lão ấy ăn nhiều quả
Trộn với mật ong thật đủ no,

6643. Tadāyaṃ asito dhāto na bāḷhaṃ tarayeyya no, sūṇā ca vata no pādā bāḷhaṃ tāreti brāhmaṇo, iti tattha vilapiṃsu kumārā mātugiddhino. 

6643. Một khi đã được ăn no, đã được thỏa mãn, lão này có thể không thúc giục chúng con một cách tàn nhẫn. Lão Bà-la-môn quả thật đã thúc giục một cách tàn nhẫn khiến các bàn chân của chúng con bị sưng vù.’” Với sự mong ngóng mẹ, hai đứa trẻ đã than van tại nơi ấy như thế.

537-538. Lão sẽ không xua đuổi bạo tàn,
Sau khi được một bữa ăn ngon,
Lão già xua trẻ thơ tàn nhẫn,
Chân của trẻ thơ bước vọng vang,
Vì ngóng mẹ hiền lâu quá đỗi,
Các con đã thảm thiết kêu than.

Kumārapabbaṃ.
Đoạn Về Hai Đứa Trẻ.Chuyện Trẻ thơ.

6644. Tesaṃ lālappitaṃ sutvā tayo vālā vane migā, sīho vyaggho ca dīpī ca idaṃ vacanamabravuṃ. 

6644. Sau khi nghe lời than vãn của hai đứa trẻ, các Thiên nhân đã nói với ba vị Thiên tử lời nói này: “Ba ngài hãy biến thành ba loài thú dữ trong khu rừng là: sư tử, cọp, và beo.

539. Sư tử, Hổ, Beo, ba vị thần
Giả làm sinh vật của rừng hoang,
Vừa nghe lời trẻ thơ than khóc,
Các vị liền cất tiếng nói năng:

6645. Mā heva no rājaputtī sāyaṃ uñchāto āgamā, mā hevamhākaṃ nibbhoge heṭhayittha vane migā. 

6645. Chớ bao giờ để nàng công chúa của chúng ta trở về vào lúc chiều tối sau việc thu nhặt củ quả. Chớ bao giờ để các loài thú ở trong khu rừng vắng vẻ của chúng ta giết hại nàng ấy.

540. - Đừng cho trở lại vị công nương
Chiều tối sau khi kiếm thức ăn,
Sợ lũ thú hoang kia sát hại
Ở trong lãnh địa của rừng hoang.

6646. Sīho cenaṃ viheṭheyya vyaggho dīpi ca lakkhaṇaṃ, neva jālikumārassa kuto kaṇhājinā siyā, ubhayeneva jīyetha patiṃ putte ca lakkhaṇā.

6646. Nếu loài sư tử, cọp, và beo giết hại người mẹ gương mẫu ấy, làm sao bé trai Jāli và bé gái Kaṇhājinā có thể sống còn? Với cả hai điều ấy, hãy để con người gương mẫu được sống đến già với chồng và hai người con.”

541-542. Ví thử loài beo, hoặc hổ, sư
Sát tàn bà mẹ thật hiền từ,
Thì đâu vương tử Jà-li ấy
Cùng với Kan-hà sẽ ở nhờ?
Vậy mẹ và hai con trẻ nọ
Các ngài phải bảo vệ từ giờ.

6647. Khaṇittikaṃ me patati dakkhiṇakkhi ca phandati, aphalā phalino rukkhā sabbā muyhanti me disā. 

(Lời công chúa Maddī)

6647. “Cây xẻng nhỏ của ta rơi xuống, và con mắt phải co giật, các cây có trái trở nên không còn trái, tất cả phương hướng đối với ta trở nên mờ mịt.

543. Cuốc ta rơi xuống đất rồi,
Ta nghe mắt phải giật hoài giờ đây,
Trái cây dường chẳng có này,
Chung quanh vạn vật như quay như cuồng.

6648. Tassā sāyanhakālamhi assamāgamanaṃ pati, atthaṅgatamhi suriyamhi vālā panthe upaṭṭhahuṃ. 

6648. Đối với ta đây, vào thời điểm chiều tối là việc trở về lại khu ẩn cư. Khi mặt trời đã lặn xuống, các thú dữ đã rình rập ở con đường.

544. Khi nàng trở lại chiều hôm
Sau ngày làm việc vẹn tròn xong xuôi,
Thú hoang vẫn cứ rình hoài
Ðường về nhà lúc mặt trời lặn mau.

6649. Nīce volambate suriyo dūre ca vata assamo, yañca nesaṃ ito hassaṃ taṃ te bhuñjeyyuṃ bhojanaṃ. 

6649. Mặt trời treo lơ lửng ở dưới thấp, và khu ẩn cư thật sự là còn xa. Và vật mà ta sẽ mang về từ nơi này là thức ăn mà họ có thể thọ dụng.

545. Thảo am xa tận nơi đâu
Mặt trời khuất bóng chìm sâu xuống dần,
đây tất cả thức ăn
Cả nhà phải đợi ta mang tới rồi.

6650. So nūna khattiyo eko paṇṇasālāya acchati, tosento dārake chāte mamaṃ disvā anāyatiṃ. 

6650. Có lẽ vị Sát-đế-lỵ ấy một mình ngồi yên ở gian nhà lá, đang dỗ dành hai đứa trẻ bị đói bụng sau khi nhìn thấy ta còn chưa về.

546. Nơi kia vương tử thường ngồi
Một mình một bóng trong chòi lá tranh,
Con thơ chàng phải dỗ dành,
Ta chưa trở lại, con đành đói meo.

6651. Te nūna puttakā mayhaṃ kapaṇāya varākiyā, sāyaṃ saṃvesanākāle khīrapītāva acchare.

6651. Có lẽ hai đứa con nhỏ ấy của ta – của người mẹ khốn khổ và thảm thương – lúc chiều tối vào thời điểm đi ngủ, vẫn ngồi yên, như là đã được uống sữa.

547. Giờ đây là buổi ăn chiều,
Ôi! Ta phải khổ bao nhiêu muộn rồi!
Khát khao sữa, nước, con đòi,
Các con ta phải đợi hoài mẫu thân.

6652. Te nūna puttakā mayhaṃ kapaṇāya varākiyā, sāyaṃ saṃvesanākāle vāripītāva acchare.

6652. Có lẽ hai đứa con nhỏ ấy của ta – của người mẹ khốn khổ và thảm thương – lúc chiều tối vào thời điểm đi ngủ, vẫn ngồi yên, như là đã được uống nước.

6653. Te nūna puttakā mayhaṃ kapaṇāya varākiyā, paccuggatā maṃ tiṭṭhanti vacchā bālāva mātaraṃ.

6653. Có lẽ hai đứa con nhỏ ấy của ta – của người mẹ khốn khổ và thảm thương – đã đi ra đón và đứng chờ ta, tựa như hai con bê thơ dại trông chờ bò mẹ.

548. Trẻ thơ thường đến đón mừng,
Ðứng như bê con ngóng trông mẹ bò,
Như thiên nga đậu bên hồ,
Ôi sao phải khổ thân ta thế này!

6654. Te nūna puttakā mayhaṃ kapaṇāya varākiyā, paccuggatā maṃ tiṭṭhanti haṃsāva upari pallale.

6654. Có lẽ hai đứa con nhỏ ấy của ta – của người mẹ khốn khổ và thảm thương – đã đi ra đón và đứng chờ ta, tựa như hai con chim thiên nga đứng ở phía trên hồ nước cỏn con.

6655. Te nūna puttakā mayhaṃ kapaṇāya varākiyā, paccuggatā maṃ tiṭṭhanti assamassāvidūrato.

6655. Có lẽ hai đứa con nhỏ ấy của ta – của người mẹ khốn khổ và thảm thương – đã đi ra đón và đứng chờ ta ở chỗ không xa khu ẩn cư.

6656. Ekāyano ekapatho sarā sobbhā ca passato, aññaṃ maggaṃ na passāmi yena gaccheyya assamaṃ.

6656. Có con đường chỉ vừa đủ cho một người đi bộ, là con đường độc đạo, bên hông là hồ nước và đầm lầy. Ta không nhìn thấy con đường nào khác theo đó có thể đi về khu ẩn cư.

549. Con đường độc nhất là đây,
Chung quanh hang hố rẫy đầy hồ ao,
Ta không tìm thấy đường nào,
Bây giờ ta phải làm sao về nhà?

6657. Migā namatthu rājāno kānanasmiṃ mahabbalā, dhammena bhātaro hotha maggaṃ me detha yācitā.

6657. Xin kính lễ các loài thú là các vị vua có sức mạnh vĩ đại ở chốn rừng thẳm. Theo nguyên tắc, các ngài là anh em với ta.[1] Được yêu cầu, xin các ngài hãy nhường đường cho ta.

[1] Ta là con gái của vua loài người, các ngài cũng là con trai của vua loài thú. Như vậy, theo nguyên tắc, các ngài là anh em với ta (Sđd. 558).

550. Các ngài chúa tể rừng già,
Ta xin các vị là vua thú rừng,
Hãy làm huynh đệ chánh chân
Ðể cho ta được an thân về nhà.

6658. Avaruddhassahaṃ bhariyā rājaputtassa sirīmato, tañcāhaṃ nātimaññāmi rāmaṃ sītāvanubbatā.

6658. Ta là vợ của vị thái tử có sự vinh quang và đã bị đày đọa. Nhưng ta không khinh thường chồng, tựa như nàng Sīta chung thủy không khi dễ Rāma chồng nàng.

551. Ta là chánh hậu vương gia,
Vinh quang thái tử bị đưa đi đày,
Ta thờ chồng của ta nay
Như Si-tà trước thờ ngài Rà-ma.

6659. Tumhe ca putte passetha sāyaṃ saṃvesanaṃ pati, ahañca putte passeyyaṃ jāliṃ kaṇhājinañcubho.

6659. Các ngài có thể nhìn thấy các con lúc chiều tối, khi đến giờ đi ngủ. Và ta có thể gặp lại các con, cả hai Jāli và Kaṇhājinā.

552. Buổi chiều khi trở về nhà,
Các ngài lại thấy con ra đón chờ,
Như Jà-li với Kan-hà,
Xin lần nữa hãy cho ta, thưa ngài!

6660. Bahuṃ cidaṃ mūlaphalaṃ bhakkho cāyaṃ anappako, tato upaḍḍhaṃ dassāmi maggaṃ me detha yācitā. 

6660. Rễ củ và trái cây này là có nhiều, và thức ăn này không phải là ít. Ta sẽ để lại một nửa trong số này. Được yêu cầu, xin các ngài hãy nhường đường cho ta.

553. Ðây dồi dào củ quả tươi,
Có nhiều thực phẩm ta mời ngài ăn,
Ta đem một nửa xin dâng,
Ðể cho ta được an thân về nhà.

6661. Rājaputtī ca no mātā rājaputto ca no pitā, dhammena bhātaro hotha maggaṃ me detha yācitā. 

6661. Mẹ của chúng ta là con gái của vua, và cha của chúng ta là con trai của vua. Theo nguyên tắc, các ngài là anh em với ta. Được yêu cầu, xin các ngài hãy nhường đường cho ta.”

554. Vua rừng này chính là cha,
Vương phi là mẹ, nghe ta than cùng:
Hãy làm huynh đệ chánh chân,
Ðể cho ta được an thân đi về.

6662. Tassā lālappamānāya bahuṃ kāruññasaṃhitaṃ, sutvā nelapatiṃ vācaṃ vālā panthā apakkamuṃ. 

6662. Sau khi lắng nghe lời nói êm ái chứa đựng nhiều bi thương của nàng lúc nàng ấy đang than vãn, các con thú dữ đã rời khỏi con đường bỏ đi.

555. Thú rừng kia đã lắng nghe
Lời nàng than khóc não nề thảm thương,
Âm thanh êm ái dịu dàng,
Chúng liền chạy mất để nàng đi ngay.

6663. Imamhi naṃ padesamhi puttakā paṃsukuṇṭhitā, paccuggatā maṃ tiṭṭhanti vacchā bālāva mātaraṃ.

(Lời công chúa Maddī)

6663. “Ở khu vực này, hai đứa con nhỏ, bị lem luốc bụi bặm, đã đi ra đón và đứng chờ ta, tựa như hai con bê thơ dại trông chờ bò mẹ.

 556. Trẻ thơ lấm bụi thường ngày
Vẫn ra đứng đón ta đây gần nhà
Như bê con đợi mẹ bò,
Như chim non ở trên hồ thiên nga.

6664. Imamhi naṃ padesamhi puttakā paṃsukuṇṭhitā, paccuggatā maṃ tiṭṭhanti haṃsāva upari pallale.

6664. Ở khu vực này, hai đứa con nhỏ, bị lem luốc bụi bặm, đã đi ra đón và đứng chờ ta, tựa như hai con chim thiên nga đứng ở phía trên hồ nước cỏn con.

6665. Imamhi naṃ padesamhi puttakā paṃsukuṇṭhitā, paccuggatā maṃ tiṭṭhanti assamassāvidūrato.

6665. Ở khu vực này, hai đứa con nhỏ, bị lem luốc bụi bặm, đã đi ra đón và đứng chờ ta ở chỗ không xa khu ẩn cư.

6666. Te migā viya ukkaṇṇā samantāmabhidhāvino, ānanditā pamuditā vaggamānāva kampare, tyajja putte na passāmi jāliṃ kaṇhājinañcubho.

6666. Chúng tựa như những con thú con, vểnh tai lên, hối hả chạy đến gần bên, vui vẻ, mừng rỡ, nhảy nhót, làm rung động trái tim người mẹ. Hôm nay, ta không nhìn thấy cả hai đứa con ấy, Jāli và Kaṇhājinā.

557- 558. Như nai bé vểnh tai ra,
Chúng thường đi đến đón ta trên đường,
Tràn đầy hạnh phúc vui mừng
Ðùa chơi chạy nhảy tưng bừng quanh ta.
Nhưng Jà-li với Kan-hà,
Hôm nay ta chẳng thấy ra đón đường.

6667. Chakalīva migī chāpaṃ pakkhī muttāva pañjarā, ohāya putte nikkhamiṃ sīhīvāmisagiddhinī, tyajja putte na passāmi jāliṃ kaṇhājinañcubho.

6667. Tựa như con dê cái, con nai cái rời bầy thú con, tựa như con chim được tự do khỏi chiếc lồng, tựa như con sư tử cái thèm muốn thức ăn, ta đã rời khỏi hai con và đã đi ra ngoài. Hôm nay, ta không nhìn thấy cả hai đứa con ấy, Jāli và Kaṇhājinā.

559-560. Như sư tử cái, sơn dương,
Rời bầy con nhỏ, chim muông rời lồng,
Ðể mà đi kiếm thức ăn,
Ta làm cho đỡ đói lòng con ta,
Nhưng Jà-li với Kan-hà,
Hôm nay ta chẳng thấy ra đón đường.

6668. Idaṃ tesaṃ parakkantaṃ nāgānamiva pabbate, citakā parikiṇṇāyo assamassāvidūrato, tyajja putte na passāmi jāliṃ kaṇhājinañcubho.

6668. Dấu chân này của chúng tựa như dấu chân như của các con voi ở ngọn núi. Có những đống cát rải rác ở chỗ không xa khu ẩn cư. Hôm nay, ta không nhìn thấy cả hai đứa con ấy, Jāli và Kaṇhājinā.

561-562. Gần nhà đây những dấu chân
Giống như loài rắn ẩn thân trên đồi,
Chúng làm những đống đất bồi
Vẫn còn nằm đó rã rời quanh ta,
Nhưng Jà-li với Kan-hà,
Hôm nay ta chẳng thấy ra đón mừng.

6669. Vālukāyapi okiṇṇā puttakā paṃsukuṇṭhitā, samantāmabhidhāvanti te na passāmi dārake.

6669. Hai đứa con nhỏ, bị phủ đầy đất cát, bị lem luốc bụi bặm, hối hả chạy đến gần bên. Ta không nhìn thấy hai đứa trẻ ấy.

563. Các con thường chạy tung tăng
Phủ đầy bụi bặm đến gần mẹ đây,
Lấm lem mặt mũi bùn lầy,
Nhưng ta chẳng thấy giờ đây đứa nào.

6670. Ye maṃ pure paccudenti araññā dūramāyatiṃ, tyajja putte na passāmi jāliṃ kaṇhājinañcubho.

6670. Trước đây, chúng thường đi ra đón ta đang trở về ở đằng xa, từ phía khu rừng. Hôm nay, ta không nhìn thấy cả hai đứa con ấy, Jāli và Kaṇhājinā.

564. Trẻ thơ thường vẫn đón chào
Mẹ mình, chúng chạy lao xao từ nhà,
Khi ta về tự rừng già,
Ta không thấy chúng đón ta giờ này.

6671. Chakaliṃva migiṃ chāpā paccuggantvāna assamaṃ, dūre maṃ paṭivilokenti te na passāmi dārake.

6671. Tựa như bầy thú con đi ra đón dê mẹ, nai mẹ, hai đứa trẻ từ khu ẩn cư đi ra đón ta, trông ngóng ta ở đằng xa, Ta không nhìn thấy hai đứa trẻ ấy.

6672. Idaṃ ca tesaṃ kīḷantaṃ patitaṃ paṇḍubeluvaṃ, tyajja putte na passāmi jāliṃ kaṇhājinañcubho. 

6672. Đồ chơi này của chúng, trái beluva màu vàng nhạt, đã bị rơi lăn lóc. Hôm nay, ta không nhìn thấy cả hai đứa con ấy, Jāli và Kaṇhājinā.

565. Chúng thường đùa giỡn nơi đây,
Vil-va vàng vẫn rụng đầy quanh ta,
Nhưng Jà-li với Kan-hà,
Ta không thấy chúng đón ta giờ này.

6673. Thanā ca mayhime pūrā uro ca sampadālati, tyajja putte na passāmi jāliṃ kaṇhājinañcubho. 

6673. Hai bầu vú này của ta căng đầy sữa, và lồng ngực của ta tan nát. Hôm nay, ta không nhìn thấy cả hai đứa con ấy, Jāli và Kaṇhājinā.

566. Vú ta căng sữa đã đầy,
Tim ta như muốn vỡ ngay bây giờ,
Nhưng Jà-li với Kan-hà,
Hôm nay không thấy đón ta ở nhà.

6674. Ucchaṅge me vicinanti thanā ekāvalambati, tyajja putte na passāmi jāliṃ kaṇhājinañcubho.

6674. Chúng bám lấy hông của ta, một đứa đeo một bầu vú. Hôm nay, ta không nhìn thấy cả hai đứa con ấy, Jāli và Kaṇhājinā.

567-568. Chúng thường bám chặt hông ta,
Mỗi con đeo một vú da tươi cười,
Chúng thường đi đón ta hoài,
Bụi dơ vào lúc nghỉ ngơi chiều tà,
Nhưng Jà-li với Kan-hà,
Hôm nay ta chẳng thấy ra đón đường.

6675. Yassu sāyanhasamayaṃ puttakā paṃsukuṇṭhitā, ucchaṅge me vivattanti te na passāmi dārake.

6675. Vào lúc chiều tối của ta đây, hai đứa con nhỏ, bị lem luốc bụi bặm, quây quần ở bên hông của ta. Ta không nhìn thấy hai đứa trẻ ấy.

6676. Ayaṃ so assamo pubbe samajjo paṭibhāti maṃ, tyajja putte apassantyā bhamate viya assamo.

6676. Khu ẩn cư này đây, lúc trước, đối với ta có vẻ như là hội chợ. Hôm nay, trong khi ta không nhìn thấy hai đứa trẻ ấy, khu ẩn cư tựa như quay tròn.

569. Trước đây là chốn thảo am
Là nơi gặp gỡ mẹ con sum vầy,
Nhưng giờ chẳng thấy con đây,
Chốn này như thể cứ xoay vòng tròn.

6677. Kimidaṃ appasaddova assamo paṭibhāti maṃ, kākolāpi na vassanti matā me nūna dārakā.

6677. Có phải khu ẩn cư này đối với ta có vẻ như là có quá ít tiếng động? Ngay cả các con quạ cũng không kêu réo. Chắc chắn các đứa trẻ của ta đã chết!

570. Các con chắc đã mạng vong,
Chốn này sao quá lặng câm như vầy?
Quạ kia cũng chẳng kêu bầy
Chim kia im tiếng trên cây cả rồi!

6678. Kimidaṃ appasaddova assamo paṭibhāti maṃ, sakuṇāpi na vassanti matā me nūna dārakā.

6678. Có phải khu ẩn cư này đối với ta có vẻ như là có quá ít tiếng động? Ngay cả các con chim cũng không kêu réo. Chắc chắn các đứa trẻ của ta đã chết!

6679. Kimidaṃ tuṇhībhūtosi api ratteva me mano, kākolāpi na vassanti matā me nūna dārakā.

6679. Việc gì đây mà chàng im lặng? Thậm chí giống như tâm thức của thiếp đã nhìn thấy trong giắc mơ tối qua. Ngay cả các con quạ cũng không kêu réo. Chắc chắn các đứa trẻ của ta đã chết!

571. Sao chàng cứ lặng yên ngồi
Thế mà ác mộng tái hồi trong tâm:
Quạ, chim đều bặt thanh âm,
Các con chắc đã vong thân mất rồi!

6680. Kimidaṃ tuṇhībhūtosi api ratteva me mano, sakuṇāpi na vassanti matā me nūna dārakā.

6680. Việc gì đây mà chàng im lặng? Thậm chí giống như tâm thức của thiếp đã nhìn thấy trong giắc mơ tối qua. Ngay cả các con chim cũng không kêu réo. Chắc chắn các đứa trẻ của ta đã chết!

6681. Kacci nu me ayyaputta migā khādiṃsu dārake, araññe irine vivane kena nītā me dārakā.

6681. Ôi tướng công của thiếp, phải chăng các con thú đã ăn thịt hai đứa trẻ? Ai đó trong khu rừng cằn cỗi, hoang vu đã dẫn đi hai đứa trẻ của thiếp?

572. Con đều bị bắt, chàng ôi,
Bởi loài dã thú săn mồi nào chăng?
Hay vào sâu chốn rừng hoang,
Các con đã bị lạc đường nào hay?

6682. Ādu te pahitā dūtā ādu suttā piyaṃvadā, ādu bahi no nikkhantā khiḍḍāsu pasutā nu te.

6682. Hay chúng đã được phái đi làm sứ giả? Hay hai đứa trẻ ăn nói dễ thương đã ngủ? Hay chúng mải mê ở các trò chơi rồi chạy ra bên ngoài?

573. Trẻ bi bô vẫn ngủ say,
Hay là chạy việc đâu đây trên đường?
Hay là quanh quẩn lang thang
Chơi đùa thỏa thích không màng gần xa?

6683. Nevāsaṃ kesā dissanti hatthapādā na jālino, sakuṇānaṃ va opāto kena nītā me dārakā.

6683. Mái tóc của chúng vẫn không nhìn thấy, tay chân của Jāli cũng không. Có phải các con chim đã bắt đi? Ai đó đã dẫn đi hai đứa trẻ của thiếp?

574. Thiếp không thấy bóng trẻ nhà,
Tay chân mặt mũi cùng là tóc tai,
Hay là chim chụp mất người?
Kẻ nào mang chúng đi rồi phải chăng?

6684. Idaṃ tato dukkhataraṃ sallaviddho yathā vaṇe, tyajja putte na passāmi jāliṃ kaṇhājinañcubho.

6684. Giống như vết thương bị đâm thủng bởi mũi tên, việc này còn khổ đau hơn thế. Hôm nay, thiếp không nhìn thấy cả hai đứa con ấy, Jāli và Kaṇhājinā.

575. Giống như tên bắn bị thương,
Và còn đau xót muôn vàn hơn xa,
Nhưng Jà-li với Kan-hà,
Thiếp không thấy chúng ở nhà hôm nay.

6685. Idampi dutiyaṃ sallaṃ kampeti hadayaṃ mama, yañca putte na passāmi tvañca maṃ nābhibhāsasi.  

6685. Việc này cũng là mũi tên thứ hai làm rung động trái tim của thiếp. Việc thiếp không nhìn thấy hai con và việc chàng không nói chuyện với thiếp.

576. Ðây là thương tích thứ hai
Mà chàng đâm thiếp xuyên ngay vào lòng:
Thiếp không nhìn thấy các con
Nhưng chàng lại chẳng nói năng một lời.

6686. Ajjeva me imaṃ rattiṃ rājaputta na saṃsasi, maññe ukkantasattaṃ maṃ pāto dakkhasi no mataṃ.  

6686. Thưa hoàng tử, nội ngày nay, trong đêm này, nếu chàng không thông báo cho thiếp, thiếp nghĩ rằng thiếp có mạng sống đã chấm dứt. Sáng sớm mai, chàng sẽ thấy thiếp đã chết.”

577. Vậy thì vương tử, chàng ôi!
Ðêm nay chàng chẳng đáp lời thiếp chăng?
Thiếp xem đời thiếp đã xong,
Rồi chàng sẽ thấy thiếp vong thân mà.

6687. Nanu maddī varārohā rājaputtī yasassinī, pāto gatāsi uñchāya kimidaṃ sāyamāgatā.  

(Lời đức Bồ-tát Vessantara)

6687. “Này công chúa Maddī cao sang, có danh vọng, phải chăng nàng đã ra đi lúc sáng sớm cho việc thu nhặt củ quả, tại sao nàng lại trở về vào lúc chiều tối thế này?”

578. Mad-dì, công chúa vương gia,
Vinh danh nàng quả thật là lớn thay,
Ði tìm thực phẩm sáng nay,
Cớ sao trở lại giờ đây muộn màng?

6688. Nanu tvaṃ saddamassosi ye saraṃ pātumāgatā, sīhassa vinadantassa byagghassa ca nikujjitaṃ.  

(Lời công chúa Maddī)

6688. “Phải chăng chàng đã nghe âm thanh của loài sư tử và cọp gầm rống khi chúng đi đến hồ nước để uống nước và tiếng hót (của bầy chim)?

579. Nghe chăng sư, hổ, hỡi chàng,
Chúng vừa gầm thét vọng vang nãy giờ,
Trong khi giải khát bên hồ,
Chúng vừa đứng đó trên bờ, biết chăng?

6689. Ahu pubbanimittaṃ me vicarantyā brahāvane, khaṇitto me hatthā patito uggīvañcāpi aṃsato.

6689. Đã có dấu hiệu báo trước cho thiếp trong khi thiếp đang đi lang thang ở khu rừng rộng lớn: Cây xẻng nhỏ của thiếp đã rời khỏi bàn tay rơi xuống, và thậm chí cái quai giỏ bị trượt khỏi bờ vai.

580. Thiếp đang rảo bước rừng hoang,
Bỗng nhiên dấu hiệu rõ ràng hiện ra:
Cuốc từ tay thiếp rơi xa,
Thúng kia từ cánh tay đà rớt luôn.

6690. Tadāhaṃ byathitā bhītā puthuṃ katvāna añjaliṃ, sabbā disā namassissaṃ api sotthi ito siyā.  

6690. Khi ấy, thiếp đã bị ức chế, bị khiếp sợ, thiếp đã lần lượt chắp tay lại lễ bái tất cả các phương, mong sao có được sự bình yên từ việc này.

581. Trong lòng hoảng sợ, đau thương,
Thiếp liền quỳ lạy tứ phương lần lần:
Mong sao mọi sự bình an,
Ðôi tay của thiếp thẳng dang nguyện cầu:

6691. Mā heva no rājaputto hato sīhena dīpinā, dārakā vā parāmaṭṭhā acchakokataracchihi.

6691. Vị thái tử của chúng tôi chớ bị giết chết bởi loài sư tử hay loài báo. Hoặc hai đứa trẻ chớ bị tấn công bởi các con gấu, chó sói, và chó rừng.

582. Không loài sư tử, beo nào,
Sói lang, linh cẩu, gấu đâu tìm mồi
Cướp đi, xé xác con trai,
Hay là con gái của tôi, bây giờ.

6692. Sīho vyaggho ca dīpi ca tayo vālā vane migā, te maṃ pariyāvaruṃ maggaṃ tena sāyamhi āgatā.

6692. Sư tử, cọp, và beo là ba loài thú dữ ở khu rừng. Chúng đã bao vây thiếp ở con đường; vì thế, thiếp đã trở về vào lúc chiều tối.

583. Con beo và cả hổ, sư,
Cả ba dã thú nằm chờ đằng xa,
Cản đường của thiếp về nhà,
Cho nên thiếp phải dần dà tới khuya.

6693. Ahaṃ patiñca putte ca āceramiva māṇavo, anuṭṭhitā divārattiṃ jaṭinī brahmacārinī.

6693. Thiếp là người nữ có tóc bện, có thực hành Phạm hạnh, đã chăm sóc chồng và hai con ngày đêm, tựa như chàng trai trẻ chăm sóc vị thầy dạy học.

584. Phu quân và các con thơ,
Thiếp thường tận tụy chăm lo đêm ngày
Như trò săn sóc ông thầy,
Khi trò cố gắng không sai đạo trời.

6694. Ajināni paridahitvā vanamūlaphalahāriyā, vicarāmi divārattiṃ tumhaṃ kāmā hi puttakā.

6694. Sau khi khoác lên các tấm da dê, mẹ đi lang thang ngày đêm, mang về rễ và trái cây rừng bởi vì lòng thương mến các con, hỡi hai đứa con nhỏ.

585. Tấm thân thiếp khoác da nai,
Quả rừng đem lại từ đồi núi xanh,
Suốt ngày dài với đêm thanh
Chỉ mong chàng được lợi hành tiện nghi.

6695. Imaṃ suvaṇṇahāliddiṃ ābhataṃ paṇḍubeḷuvaṃ, rukkhapakkāni cāhāsiṃ ime te puttā kīḷanā.

6695. Củ nghệ màu vàng này và trái beḷuva màu vàng nhạt đã được mang lại, và mẹ đã mang về các trái cây chín; này hai con nhỏ, các thứ này là đồ chơi dành cho các con.

586. Cho chàng và các ấu nhi
Vil-va vàng, quả đúng thì ngọt ngon,
Và nhiều trái chín rừng hoang
Ðể chơi cùng với các con vui nhà.

6696. Imaṃ mūḷālavaṭakaṃ sālukaṃ piñjarodakaṃ, bhuñja khuddehi saṃyuttaṃ saha puttehi khattiya.

6696. Thưa vị Sát- đế- lỵ, chàng hãy ăn củ sen, ngó sen, ngó súng, và hạt dẻ nước này được trộn với các loại mật ong cùng các con.

587. Củ sen và đám ngó tơ
Có màu óng ánh vàng mơ nhẹ nhàng,
Hãy chơi cùng các con chàng
Và này vương tử, ăn phần chàng đi.

6697. Padumaṃ jālino dehi kumudaṃ pana kumāriyā, māline passa naccante sivi puttāni avhaya.

6697. Chàng hãy cho Jāli đóa sen hồng, rồi cho con gái bông súng trắng. Chàng hãy nhìn các con có đeo tràng hoa đang nhảy múa. Thưa ngài Sivi, xin chàng hãy gọi các con.

588. Cho con gái súng trắng kia,
Sen xanh để tặng Jà-li của chàng,
Rồi xem chúng múa ca vang,
Vòng hoa tô điểm, xin chàng gọi ngay!

6698. Tato kaṇhājināyāpi nisāmehi rathesabha, mañjussarāya vagguyā assamaṃ upayantiyā.

6698. Sau đó, thưa đấng thủ lãnh xa binh, xin chàng hãy lắng nghe giọng nói du dương, dễ thương của Kaṇhājinā khi con đang đi đến gần nơi ẩn cư.

589. Ðại vương ơi, hỡi lắng tai,
Âm thanh thích thú tuyệt vời biết bao,
Kan-hà hát thật ngọt ngào,
Và con đang bước chân vào lều ta.

6699. Samānasukhadukkhamhā raṭṭhā pabbajitā ubho, api siviputte passesi jāliṃ kaṇhājinañcubho. 

6699. Đã bị trục xuất khỏi đất nước, cả hai chúng ta sướng khổ cùng nhau. Chàng cũng hãy cho thiếp nhìn thấy những người con của Sivi, cả hai Jāli và Kaṇhājinā.

590. Từ khi bị đuổi đày xa,
Buồn vui chàng thiếp chung hòa với nhau.
Ôi, chàng hãy trả lời mau,
Kan-hà, Jà-li, thấy đâu hỡi chàng?

6700. Samaṇe brāhmaṇe nūna brahmacariyaparāyane, ahaṃ loke abhisapiṃ sīlavante bahussute, tyajja putte na passāmi jāliṃ kaṇhājinañcubho. 

6700. Phải chăng thiếp đã nguyền rủa các vị Sa-môn, các vị Bà-la-môn chuyên chú hành Phạm hạnh, có giới hạnh, có kiến thức rộng ở thế gian, nên hôm nay, thiếp không nhìn thấy cả hai đứa con ấy, Jāli và Kaṇhājinā?

591-592. Hẳn bao nhiêu vị đạo nhân
Thiếp đà xúc phạm lỗi lầm nặng sao,
Các ngài đức hạnh thanh cao
Trí đầy kiến thức nhiệm mầu sâu xa,
Nên Jà-li với Kan-hà
Thiếp không còn thấy ở nhà hôm nay!

6701. Ime te jambukā rukkhā vedisā sindhuvārikā, vividhāni rukkhajātāni te kumārā na dissare. 

6701. Những cây táo hồng, những cây vedisa, những cây sindhuvārika này thuộc về chàng, giờ hai đứa trẻ không được nhìn thấy những giống cây đa dạng ấy.

593. Khóm cây đào đỏ thắm này
La đà vẫn mọc bủa vây quanh hồ,
Muôn loài cây quả rừng già,
Nhưng không còn thấy con ta bây giờ.

6702. Assatthā panasā ceme nigrodhā ca kapitthanā, vividhāni phalajātāni te kumārā na dissare.

6702. Những cây sung, những cây mít, những cây đa, những cây táo rừng này, giờ hai đứa trẻ không được nhìn thấy những loại trái cây đa dạng ấy.

594. Cây sung, cây mít, đa to,
Mọi loài cây khác chen đua mọc dần,
Ồ, bao cây quả trong rừng,
Nhưng bầy con trẻ lại không thấy giờ.

6703. Ime tiṭṭhanti ārāmā ayaṃ sītodikā nadī, yatthassu pubbe kīḷiṃsu te kumārā na dissare. 

6703. Những khu vườn này tồn tại, dòng sông có nước mát này, là những nơi hai con đã đùa giỡn trước đây, giờ hai đứa trẻ không được nhìn thấy chúng.

595. Ðứng kia như một vườn hoa,
Và kìa suối mát trôi qua lặng lờ,
Nơi xưa chúng vẫn chơi đùa,
Nhưng nay không có trẻ thơ nữa rồi.

6704. Vividhāni pupphajātāni asmiṃ uparipabbate, yānassu pubbe dhāriṃsu te kumārā na dissare.

6704. Những thứ trái cây nhiều loại ở bên trên ngọn núi này, những trái cây hai con đã mang đi trước đây, giờ hai đứa trẻ không được nhìn thấy chúng.

6705. Vividhāni phalajātāni asmiṃ uparipabbate, yānassu pubbe bhuñjiṃsu te kumārā na dissare. 

6705. Những thứ trái cây nhiều loại ở bên trên ngọn núi này, những trái cây hai con đã ăn trước đây, giờ hai đứa trẻ không được nhìn thấy chúng.

596. Trái cây xưa chúng ăn hoài,
Bông hoa chúng vẫn thường cài tóc tai,
Mọc đằng xa ở trên đồi,
Con thơ vắng bóng ở nơi đó kìa.

6706. Ime te hatthikā assā balivaddā ca te ime, yehissu pubbe kīḷiṃsu te kumārā na dissare.

6706. Những con voi, những con ngựa (đồ chơi) này của các con, và những con trâu (đồ chơi) này của hai con, hai con đã đùa giỡn với chúng trước đây, giờ hai đứa trẻ không được nhìn thấy chúng.

597. Các đồ chơi bé tí ti,
Chúng thường đùa giỡn là kia cả rồi:
Bầy bò, bầy ngựa, bầy voi,
Con thơ không thấy ở nơi chốn nào.

6707. Ime sāmā sasolūkā bahukā kadalimigā, yehissu pubbe kīḷiṃsu te kumārā na dissare.

6707. Những con nai vàng, thỏ, cú mèo này, và nhiều con nai kadali, hai con đã đùa giỡn với chúng trước đây, giờ hai đứa trẻ không được nhìn thấy chúng.

598. Ðây nhiều thỏ đế, cú mèo,
Nai đen cùng với hươu sao cả bầy,
Các con đùa giỡn thường ngày,
Nhưng không còn thấy chúng đây nữa rồi.

6708. Ime haṃsā ca koñcā ca mayūrā citrapekhunā, yehissu pubbe kīḷiṃsu te kumārā na dissare.

6708. Các con chim thiên nga, các con cò này, và các con công có chùm lông đuôi nhiều màu sắc, hai con đã đùa giỡn với chúng trước đây, giờ hai đứa trẻ không được nhìn thấy chúng.

599. Bầy công xòe cánh đẹp tươi,
Kìa bầy cò diệc, ngỗng trời thiên nga,
Các con thường vẫn chơi đùa,
Nhưng không thấy bóng trẻ thơ đây mà!

6709. Imā tā vanagumbāyo pupphitā sabbakālikā, yatthassu pubbe kīḷiṃsu te kumārā na dissare.

6709. Những khóm cây rừng này đây được trổ hoa vào mọi thời điểm, là những nơi hai con đã đùa giỡn trước đây, giờ hai đứa trẻ không được nhìn thấy chúng.

600. Này đây các khóm rừng già
Với muôn hoa lá nở ra theo mùa,
Nơi con thơ vẫn chơi đùa,
Nhưng không còn chúng bây giờ ở đây.

6710. Imā tā pokkharaṇiyo rammā cakkavākūpakūjitā, maddālakehi sañchannā padumuppalakehi ca,
yatthassu pubbe kīḷiṃsu te kumārā na dissare.

6710. Những hồ nước này đây đáng yêu, với những con hồng hạc kêu ríu rít, được che phủ bởi những loài thủy thảo và những hoa sen hồng sen xanh, là những nơi hai con đã đùa giỡn trước đây, giờ hai đứa trẻ không được nhìn thấy chúng.

601-602. Các hồ khả ái lắng tai
Khi đàn ngỗng đỏ gọi dài âm thanh.
Biết bao sen trắng sen xanh,
Và nhiều cây mọc như cành san hô,
Nơi con thơ vẫn chơi đùa,
Nhưng không còn chúng bây giờ ở đây.

6711. Na te kaṭṭhāni bhinnāni na te udakamābhataṃ, aggipi te na hāpito kinnu mandova jhāyasī.

6711. Các thanh củi không được chàng chẻ nhỏ, nước không được chàng mang lại, thậm chí ngọn lửa cũng không được chàng chăm sóc, chàng trầm tư điều gì tựa như kẻ ngu khờ?

603. Củi chàng không bổ ban ngày,
Lửa chàng không đốt tối nay trong nhà,
Nước không xách đến như xưa,
Sao chàng ngồi đó thẫn thờ thong dong?

6712. Piyo piyena saṅgamma samo me vyapahaññati, tyajja putte na passāmi jāliṃ kaṇhājinañcubho. 

6712. Người thương sau khi gặp gỡ với người thương, sự mệt nhọc của thiếp được tan biến. Hôm nay, thiếp không nhìn thấy cả hai đứa con ấy, Jāli và Kaṇhājinā.

604. Khi công việc mới vừa xong,
Thiếp liền vội vã ước mong về nhà,
Nhưng Jà-li với Kan-hà
Thiếp không thấy chúng nô đùa hôm nay.

6713. Na kho no deva passāmi yena te nihatā matā, kākolāpi na vassanti hatā me nūna dārakā. 

6713. Ôi bệ hạ, thiếp quả thật không nhìn thấy các con của chúng ta, bởi vì chúng đã bị hãm hại, đã chết rồi. Ngay cả các con quạ cũng không kêu réo. Chắc chắn các đứa trẻ của thiếp đã bị hãm hại!

605. Hỡi phu quân, thiếp chẳng hay
Vì ai tạo cái chết này cho con,
Chính bầy quạ chẳng kêu vang,
Chính bầy chim cũng lặng câm bây giờ.

6714. Na kho no deva passāmi yena te nihatā matā,
sakuṇāpi na vassanti matā me nūna dārakā. 

6714. Ôi bệ hạ, thiếp quả thật không nhìn thấy các con của chúng ta, bởi vì chúng đã bị hãm hại, đã chết rồi. Ngay cả các con chim cũng không kêu réo. Chắc chắn các đứa trẻ của ta đã chết!”

6715. Sā tattha paridevitvā pabbatāni vanāni ca,
punadevassamaṃ gantvā sāmikassanti rodati. 

6715. Sau khi than khóc tại chỗ đó, nàng ấy đã đi đến các ngọn núi và các khu rừng, rồi khu ẩn cư thêm một lần nữa và khóc lóc bên cạnh chồng rằng:

606. Khi nàng vội vã băng qua
Ði tìm khắp chốn rừng già, núi non,
Trở về bên cạnh phu quân,
Nàng liền đứng lại khóc than từng hồi:

6716. Na kho no deva passāmi yena te nihatā matā, kākolāpi na vassanti hatā me nūna dārakā.

6716. “Ôi bệ hạ, thiếp quả thật không nhìn thấy các con của chúng ta, bởi vì chúng đã bị hãm hại, đã chết rồi. Ngay cả các con quạ cũng không kêu réo. Chắc chắn các đứa trẻ của thiếp đã bị hãm hại!

6717. Na kho no deva passāmi yena te nihatā matā, sakuṇāpi na vassanti matā me nūna dārakā.

6717. Ôi bệ hạ, thiếp quả thật không nhìn thấy các con của chúng ta, bởi vì chúng đã bị hãm hại, đã chết rồi. Ngay cả các con chim cũng không kêu réo. Chắc chắn các đứa trẻ của ta đã chết!

607. - Hang sâu, rừng thẳm, lưng đồi,
Thiếp không thể thấy bóng người giết con,
Chính bầy quạ chẳng kêu vang,
Chính bầy chim cũng lặng câm cả rồi.

6718. Na kho no deva passāmi yena te nihatā matā, vicarantī rukkhamūlesu pabbatesu guhāsu ca.

6718. Ôi bệ hạ, trong khi đi lang thang ở các gốc cây, ở các ngọn núi, và ở các hang động, thiếp quả thật không nhìn thấy các con của chúng ta, bởi vì chúng đã bị hãm hại, đã chết rồi.”

6719. Iti maddī varārohā rājaputtī yassasinī, bāhā paggayha kanditvā tattheva patitā chamā.

6719. Nàng công chúa Maddī cao sang, có danh vọng, đã đưa hai cánh tay lên kêu khóc như thế, rồi đã ngã xuống ở trên mặt đất, ngay tại chỗ ấy.

608. Mad-dì, vương hậu cao ngôi,
Công nương quý tộc buông lời khóc than,
Với đôi tay ấy vừa dang,
Nàng liền ngã xuống đất bằng mê man.

6720. Tamajjhapattaṃ rājaputtiṃ udakena abhisiñcatha, assatthaṃ taṃ viditvāna atha naṃ etadabravi.

6720. Khi nàng công chúa bị ngã xuống, vị Vessantara đã rảy nước cho nàng ấy. Sau khi biết được nàng ấy đã được tỉnh táo, vị Vessantara đã nói với nàng ấy điều này:

609. Ngài liền rảy nước cho nàng
Trong khi nàng ngã mê man lịm dần;
Vừa khi nàng mới tỉnh hồn,
Ngài liền cất tiếng khuyên lơn vỗ về.

6721. Ādiyeneva te maddi dukkhaṃ na kātumicchisaṃ, daḷiddo yācako vuddho brāhmaṇo gharamāgato,
tassa dinnā mayā puttā maddi mā bhāyi assasa.

6721. “Này Maddī, ngay từ ban đầu, ta đã không muốn tạo ra sự khổ đau cho nàng. Có lão hành khất Bà-la-môn nghèo khó, già cả, đã đi đến nhà. Hai con đã được ta ban cho lão ấy. Này Maddī, nàng chớ lo sợ. Hãy bình tĩnh.

610-611. Ta không thể nói tức thì
Vì ta không muốn hiền phi đau buồn.
Một người già yếu, đạo nhân,
Ðến đây xin được cầu ân đó mà,
Ta đem bố thí con thơ,
Mad-dì đừng sợ, thở vô ra liền!

6722. Maṃ passa maddi mā putte bāḷhaṃ paridevasi, lacchāma putte jīvantā arogā ca bhavāmase.

6722. Này Maddī, nàng hãy nhìn ta. Nàng chớ than khóc cho các con quá nhiều. Chúng ta sẽ nhận lại các con. Chúng ta sẽ sống và khỏe mạnh.

612. Xin nàng đừng quá ưu phiền,
Xin nàng ngước mắt nhìn lên ta này.
Ta đem con trẻ về ngay,
Rồi ta hạnh phúc sum vầy biết bao.

6723. Putte pasuñca dhaññañca yañca aññaṃ ghare dhanaṃ, dajjā sappuriso dānaṃ disvā yācakamāgate, anumodāhi me maddi puttake dānamuttamaṃ.

6723. Sau khi nhìn thấy người hành khất đi đến, bậc thiện nhân có thế bố thí vật thí là các đứa con, gia súc, thóc lúa, và tài sản khác ở trong nhà. Này Maddī, nàng hãy tùy hỷ với ta về vật bố thí tối thượng là hai đứa con nhỏ.”613. Thiện nhân được hỏi liền giao
Các con, thóc lúa, bò trâu, bạc vàng;
Mad-dì, xin hãy hân hoan
Không gì hơn lễ cúng dường các con.

6724. Anumodāmi te deva puttake dānamuttamaṃ, datvā cittaṃ pasādehi bhīyo dānadado bhava. 

6724. “Thưa bệ hạ, thiếp tùy hỷ với chàng về vật bố thí tối thượng là hai đứa con nhỏ. Sau khi bố thí, chàng hãy khiến cho tâm được tịnh tín và hãy là người ban bố vật thí nhiều hơn nữa.

614. Thiếp nay quả thật hân hoan
Không gì hơn lễ cúng dường các con,
Nhờ đây tâm trí bình an,
Xin chàng cứ mãi phát ban cúng dường.

6725. Yo tvaṃ maccherabhūtesu manussesu janādhipa, brāhmaṇassa adā dānaṃ sivīnaṃ raṭṭhavaḍḍhano.

6725. Thưa quân vương, giữa những người có trạng thái bỏn xẻn, chàng đây đã ban vật thí đến vị Bà-la-môn, chàng là bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi.

615. Vì chàng là vị Ðại vương
Của Si-vi, cả giang sơn oai hùng,
Giữa đời ích kỷ nhân quần,
Riêng chàng bố thí phát phân rộng lòng.

6726. Ninnāditā te paṭhavī saddo te tidivaṃ gato, samantā vijjutā āguṃ girīnaṃva paṭissutā. 

6726. Vì chàng trái đất đã gầm rú, vì chàng tiếng động đã đi đến Thiên cung, các tia chớp đã phát ra ở khắp nơi, tựa như các ngọn núi đã có sự đồng ý.

616. Ðất bằng đã phải chuyển rung
Âm thanh tràn ngập mọi tầng trời cao.
Chớp loè sáng chói biết bao,
Sấm rền vang vọng đồi cao bấy giờ.

6727. Tassa te anumodanti ubho nāradapabbatā indo ca brahmā ca pajāpatī ca somo yamo vessavaṇo ca rājā sabbe devā anumodanti tāvatiṃsā saindakā. 

6727. Hai hội chúng chư Thiên Nārada và Pabbata tùy hỷ đối với chàng đây. Thiên Chủ Inda và đấng Brahmā, vị chúa của loài người, các vị Thiên Vương Soma, Yama, và Vessavaṇa, tất cả chư Thiên ở cõi Trời Đạo Lợi với Thiên Chủ Inda đều tùy hỷ.”

617. Nà-ra-da với Pab-ba,
Cả hai hiền sĩ cùng hòa niềm vui,
Mọi Thiên thần cõi Ba mươi,
Ind-ra Thiên chủ cùng ngài Phạm thiên,
618. Vua So-ma ở cõi tiên
Cùng ngài Diêm chúa ở miền Dạ-ma,
Thiên vương Ves-sa-va-na
Khi nghe tiếng vọng, đồng hòa niềm vui.

6728. Iti maddī varārohā rājaputtī yassasinī, vessantarassa anumodi puttake dānamuttamaṃ.

6728. Nàng công chúa Maddī cao sang, có danh vọng đã tùy hỷ vật bố thí tối thượng là hai đứa con nhỏ của vị Vessantara như thế.

619. Mad-dì, công chúa cao ngôi
Vương phi quí tộc dần vơi nỗi buồn,
Cùng ngài tràn ngập hân hoan:
Không gì hơn lễ cúng dường các con.

Câu chuyện 547

Maddipabbaṃ niṭṭhitaṃ.


Đoạn Về Nàng Maddī được hoàn tất. Đến đây chấm dứt Chuyện Maddì

6729. Tato ratyā vivasane suriyassuggamanampati, sakko brāhmaṇavaṇṇena pāto tesaṃ adissatha. 

6729. Sau đó, vào lúc tàn đêm, cho đến lúc mọc lên của mặt trời, Thiên Chủ Sakka, với vóc dáng Bà-la-môn, đã hiện ra với hai người ấy[1] vào lúc sáng sớm.

[1] Hai người ấy là đức Bồ- tát Vessantara và người vợ là công chúa Maddī (ND).

621. Vậy khi đêm đã dần tàn,
Và trời vừa mới tinh sương sáng dần,
Sak-ka giả dạng đạo nhân
Lên đường thật sớm đến thăm thảo đường:

6730. Kaccinnu bhoto kusalaṃ kacci bhoto anāmayaṃ, kacci uñchena yāpetha kacci mūlaphalābahu. 

(Lời Thiên Chủ Sakka)

6730. “Thưa ngài, phải chăng ngài được an khang? Thưa ngài, phải chăng ngài được vô sự? Phải chăng ngài nuôi sống bằng việc thu nhặt? Phải chăng có nhiều rễ củ và trái cây?

622. - Ta tin rằng, hỡi Thánh nhân,
Ngài thường thịnh vượng, an khương mọi bề
Với bao thóc lúa thu về,
Và bao củ, quả tràn trề ẩn am.

6731. Kacci ḍaṃsā ca makasā ca appameva siriṃsapā, vane vālamigākiṇṇe kacci hiṃsā na vijjati.

6731. Phải chăng có rất ít ruồi, muỗi, và các loài bò sát? Phải chăng không có sự hãm hại ở khu rừng đông đúc các loài thú dữ?”

623. Ngài nay có bị phiền lòng
Vì loài rắn rít, bọ ong quấy hoài,
Hoặc bầy dã thú tìm mồi,
Chẳng hay ngài tránh mọi loài được chăng?

6732. Kusalañceva no brahme atho brahme anāmayaṃ, atho uñchena yāpema atho mūlaphalābahu.

(Lời đức Bồ- tát Vessantara)

6732. “Này vị Bà-la-môn, chúng tôi được an khang. Và Này vị Bà-la-môn, chúng tôi được vô sự. Chúng tôi nuôi sống bằng việc thu nhặt. Rễ củ và trái cây có nhiều.

624. Cám ơn ông, hỡi đạo nhân,
Ta nay thịnh vượng an khương mọi bề
Với bao thóc lúa thu về,
Và bao củ, quả tràn trề ẩn am.

6733. Atho ḍaṃsā ca makasā ca appameva siriṃsapā, vane vālamigākiṇṇe hiṃsā mayhaṃ na vijjati.

6733. Có rất ít ruồi, muỗi, và các loài bò sát. Không có sự hãm hại đến với chúng tôi ở khu rừng đông đúc các loài thú dữ.

625. Ta không phải chịu phiền lòng
Vì loài rắn rít, bọ ong quấy hoài,
Hoặc bầy dã thú tìm mồi,
Ta đây tránh được mọi loài, bình an.

6734. Satta no māse vasataṃ araññe jīvasokinaṃ, idampi dutiyaṃ passāma brāhmaṇaṃ devavaṇṇinaṃ,
ādāya beḷuvaṃ daṇḍaṃ dhārentaṃ ajinakkhipaṃ.

6734. Suốt bảy tháng chúng tôi sống cuộc sống sầu muộn ở trong rừng, chúng tôi nhìn thấy người này lần thứ nhì, là vị Bà-la-môn với dáng vóc thiên thần, mang theo cây gậy bằng gỗ beḷuva, đang mặc áo choàng da dê.

626. Sống đây đã bảy tháng trường,
Và ông là vị đạo nhân thứ nhì
Cầm cây gậy ở tay kia,
Ðể đi vào chốn rừng già thảo am.

6735. Svāgatante mahābrāhme atho te adurāgataṃ, anto pavisa bhaddante pāde pakkhālayassu te.

6735. Này vị Bà-la-môn vĩ đại, chào mừng ông đã đến và việc đi đến tốt lành của ông. Thưa ông, xin ông hãy đi vào bên trong. Xin ông hãy rửa sạch hai bàn chân của ông.

627. Kính chào ông, hỡi đạo nhân,
Mừng duyên hạnh ngộ đưa đường đến đây.
Hãy vào, chúc phúc cầu may,
Bước vào và rửa chân tay, ta mời.

6736. Tindukāni piyālāni madhuke kāsumāriyo, phalāni khuddakappāni bhuñja brahme varaṃ varaṃ. 

6736. Này vị Bà-la-môn, có các loại trái cây tinduka,piyāla, madhuka, kāsumārī ngọt như mật ong, xin ông hãy thưởng lãm các trái ngon nhất.

628. Pi-yal, tin-dook lá tươi,
Kà-su-mà quả ngọt bùi thơm ngon,
Trái cây như thể mật ong
Chọn ngay hạng nhất, La-môn, ăn nào.

6737. Idampi pānīyaṃ sītaṃ ābhataṃ girigabbharā, tato piva mahābrahme sace tvaṃ abhikaṅkhasi. 

6737. Cũng có nước uống mát lạnh này được mang lại từ hang núi, Này vị Bà-la-môn vĩ đại, xin ông hãy uống nước từ nơi ấy nếu ông muốn.

629. Nước này lấy tự hang sâu
Ẩn mình dưới ngọn đồi cao trong rừng.
Xin mời, hỡi bậc Thánh nhân,
Uống vào cho thỏa tấm lòng ước ao.

6738. Atha tvaṃ kena vaṇṇena kena vā pana hetunā, athappatto brahāraññaṃ taṃ me akkhāhi pucchito. 

6738. Vậy thì vì lý do gì, hay là vì nguyên nhân gì, mà ông đã đi đến khu rừng rộng lớn? Được hỏi, xin ông hãy giải thích điều ấy cho tôi.”630. Bây giờ vì lý do nào
Hoặc duyên cớ dẫn ông vào đường đây,
Vì sao ông kiếm rừng cây,
Ta xin ông giải điều này cho hay.

6739. Yathā vārivaho pūro sabbakālaṃ na khīyati, evaṃ taṃ yācitāgañchiṃ bhariyaṃ me dehi yācito. 

6739. “Giống như dòng nước chảy luôn luôn được tràn đầy, không bị cạn kiệt, tương tự như vậy, ta đã đi đến để cầu xin ngài. Được yêu cầu, xin ngài hãy ban cho ta người vợ.”

631. Giống như hồng thủy ngập đầy
Và không hề có một ngày nào vơi,
Ðại vương thần đến van nài
Xin ban Vương hậu của ngài, thần mong.

6740. Dadāmi na vikampāmi yaṃ maṃ yācasi brāhmaṇa, santaṃ nappaṭigūhāmi dāne me ramatī mano.

6740. “Này vị Bà-la-môn, tôi sẽ ban cho, tôi không do dự việc mà ông yêu cầu tôi. Tôi không cất giấu vật đang có. Tâm của tôi vui thích trong việc bố thí.”

632. Nhọc lòng, ta chẳng giấu ông,
Tuy nhiên trong nỗi khổ lòng riêng tư,
Phát ban, ta chẳng chần chừ
Vì lòng hoan hỷ đến từ phát ban.

6741. Maddiṃ hatthe gahetvāna udakassa ca kamaṇḍaluṃ, brāhmaṇassa adā dānaṃ sivīnaṃ raṭṭhavaḍḍhano.

6741. Sau khi nắm lấy nàng Maddī ở bàn tay và cái bình đựng nước, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi đã ban vật thí đến vị Bà-la-môn.

633. Thế rồi bình nước vừa nâng,
Si-vi quốc độ Ðại vương thuở nào
Ðem Mad-dì ấy liền trao
Bà-la-môn nọ thẳng vào tay kia.

6742. Tadāsi yaṃ bhiṃsanakaṃ tadāsi lomahaṃsanaṃ, maddiṃ pariccajantassa medinī samakampatha.

6742. Lúc bấy giờ, việc ấy đã là sự kinh hoàng. Lúc bấy giờ, đã có sự dựng đứng lông. Trong lúc vị ấy ban tặng nàng Maddī cho người này, trái đất đã rúng động.

634. Kinh hoàng xảy đến tức thì,
Ðất dày chuyển động ngay khi ấy liền,
Ngài đem trao tặng vợ hiền
Mad-dì cho khách viếng miền thảo am.

6743. Nevassa maddī bhakuṭī na sandhīyati na rodati, pekkhatevassa tuṇhī sā eso jānāti yaṃ varaṃ.

6743. Nàng Maddī không có chút cau mày, không bất bình, không khóc lóc. Nàng chỉ nhìn, im lặng (nghĩ rằng): “Chàng biết việc ấy là cao quý.”

635. Mad-dì chẳng chút mày nhăn,
Nàng không khó chịu, khóc than bây giờ.
Lặng yên nhìn, dạ suy tư:
"Hẳn chàng biết rõ lý do đâu là".

6744. Jāliṃ kaṇhājinaṃ dhītaṃ maddideviṃ patibbataṃ, cajamāno na cintesiṃ bodhiyā yeva kāraṇā.

6744. Trong khi dứt bỏ con trai Jāli, con gái Kaṇhājinā, và hoàng hậu Maddī người vợ chung thủy, Ta đã không phải nghĩ ngợi với lý do chỉ là vì quả vị giác ngộ.

636. Cả Jà-li lẫn Kan-hà
Ta đem cho một lão Bà-la-môn,
Và Mad-dì, vợ keo sơn,
Chỉ vì Tuệ Giác cao hơn cả mà.

6745. Na me dessā ubho puttā maddī devī na dessiyā, sabbaññutaṃ piyaṃ mayhaṃ tasmā piye adāsahaṃ.

6745. Cả hai đứa con không có bị ta ghét bỏ, hoàng hậu Maddī không có bị ta ghét bỏ, đối với Ta quả vị Toàn Giác là yêu quý; vì thế Ta đã bố thí những người thân yêu.

637. Vợ hiền ta chẳng xấu xa,
Và hai đứa trẻ con nhà cũng không.
Nhưng vì Tuệ Giác viên thông
Với tâm ta, thật bội phần thiết thân.

6746. Komārī yassahaṃ bhariyā sāmiko mama issaro, yassicche tassa maṃ dajjā vikkiṇeyya haneyya vā

(Lời công chúa Maddī)

6746. “Khi còn con gái, thiếp là vợ của chàng. Người chồng là chủ nhân của thiếp. Chàng có thể ban tặng thiếp cho người nào chàng muốn, hoặc có thể bán đi, hoặc có thể giết chết.”

638. Vợ chàng từ thuở thanh xuân,
Chính chàng là chủ nhân ông suốt đời,
Tùy chàng muốn bán cho ai,
Biếu không, hoặc giết thân tôi tớ nhà.

6747. Tesaṃ saṅkappamaññāya devindo etadabravī, sabbe jitā te paccuhā ye dibbā ye ca mānusā. 

6747. Biết được ý định của hai người, vị chúa của chư Thiên đã nói điều này: “Ngài đã chiến thắng tất cả các chướng ngại thuộc cõi Trời và cõi người.

639. Ðáp lời, khi ấy Sak-ka
Thấy bao nguyện ước nàng vừa hướng tâm:
- Mọi điều chướng ngại dẹp xong
Ở trên trời lẫn ở trong nhân quần.

6748. Ninnāditā te paṭhavī saddo te tidivaṃ gato, samantā vijjutā āguṃ girīnaṃva paṭissutā. 

6748. Vì ngài trái đất đã gầm rú, vì ngài tiếng động đã đi đến Thiên cung. Các tia chớp đã phát ra ở khắp nơi, tựa như các ngọn núi đã có sự đồng ý.

640. Ðất bằng đã phải chuyển rung,
Âm thanh tràn ngập mọi tầng trời cao,
Chớp loè sáng chói biết bao,
Sấm rền vang vọng đồi cao bấy giờ.

6749. Tassa te anumodanti ubho nāradapabbatā indo ca brahmā ca pajāpatī ca, somo yamo vessavaṇo ca rājā sabbe devā anumodanti dukkaraṃ hi karoti so. 

6749. Hai hội chúng chư Thiên Nārada và Pabbata tùy hỷ đối với ngài đây. Thiên Chủ Inda và đấng Brahmā, vị chúa của loài người, các vị Thiên Vương Soma, Yama, và Vessavaṇa, tất cả chư Thiên đều tùy hỷ, bởi vì ngài đây làm được công việc khó làm.

641. Na-ra-da với Pab-ba
Cả hai hiền sĩ cùng hòa niềm vui,
Mọi Thiên thần cõi Ba mươi
Hoan nghênh thành tích tuyệt vời khó khăn.

6750. Duddadaṃ dadamānānaṃ dukkaraṃ kamma kubbataṃ, asanto nānukubbanti sataṃ dhammo durannayo. 

6750. Trong khi họ cho vật khó cho, trong khi họ làm công việc khó làm, những kẻ xấu không làm theo được; pháp của những người tốt là khó đạt đến.

642. Khó làm như các thiện nhân,
Phát ban như bậc chánh chân vẫn làm.
Ác nhân khó thể theo gương
Cuộc đời mà bậc thiện lương sống hoài.

6751. Tasmā satañca asatañca nānā hoti itogati, asanto nirayaṃ yanti santo saggaparāyaṇā.

6751. Vì thế, cảnh giới tái sanh sau kiếp này dành cho những người tốt và những kẻ không tốt là khác nhau, những kẻ không tốt đi địa ngục, những người tốt có sự đi đến cõi trời.

643. Vậy khi thiện, ác lìa đời,
Giã từ cuộc sống ở nơi phàm trần,
Ác nhân vào ngục hạ tầng,
Thiện nhân đến cõi Thiên thần tái sinh.

6752. Yametaṃ kumāre adadā bhariyaṃ adadā vane vasaṃ, brahmayānamanokkamma sagge te taṃ vipaccatu.

6752. Việc ngài đã bố thí hai đứa trẻ, đã bố thí người vợ trong khi sống ở trong rừng được gọi là cỗ xe tối thượng; sau khi không đọa vào khổ cảnh, việc ấy hãy thành tựu kết quả cho ngài ở cõi Trời.644. Cỗ Xe này thật Cao minh:
Cả thê nhi được hi sinh cúng dường,
Nên không còn đọa bước đường,
Việc này mang phước quả trong cõi trời.

6753. Dadāmi bhoto bhariyaṃ maddiṃ sabbaṅgasobhanaṃ, tvaññeva maddiyā channo maddī ca patinā saha.

6753. Ta ban lại cho ngài nàng Maddī, người vợ có sự xinh đẹp toàn thân. Chính ngài là tương xứng với nàng Maddī, và nàng Maddī là tương xứng với chồng.

645. Nay ta trả lại cho ngài
Mad-dì hiền phụ tuyệt vời đẹp xinh.
Xứng đôi vừa lứa duyên tình,
Sống đời hòa hợp an bình tối cao.

6754. Yathā payo ca saṅkho ca ubho samānavaṇṇino, evaṃ tuvaṃ ca maddī ca samānamanacetasā.

6754. Giống như sữa và vỏ sò, cả hai có màu sắc giống nhau, tương tự như vậy, ngài và nàng Maddī có tâm ý tương đồng.

646. Như dây ràng buộc nhiệm mầu,
Như là cá nước gặp nhau lạ gì,
Cũng vầy ngài với Mad-dì
Ðồng tâm hòa hợp phu thê sắt cầm.

6755. Avaruddhettha araññasmiṃ ubho sammatha assame, khattiyā gottasampannā sujātā mātupettito,
yathā puññāni kayirātha dadantā aparāparaṃ.

6755. Bị đày đọa, cả hai vị sống ở nơi này, trong khu rừng, tại khu ẩn cư. Hai vị là Sát-đế-lỵ, được thành tựu về dòng họ, thuộc dòng dõi cao sang về bên mẹ và bên cha. Hai vị có thể làm phước thiện như thế trong khi tiếp tục bố thí.

647-648. Cả hai đồng đẳng giống dòng,
Ðôi bên cha mẹ cũng đồng gia môn,
Nơi đây trong chốn thảo am
Các ngài chung sống rừng hoang một mình,
Ðể rồi tiếp tục làm lành
Ở ngay trong chốn rừng xanh là nhà.

6756. Sakkohamasmi devindo āgatosmi tavantike, varaṃ varassu rājisi vare aṭṭha dadāmi te.

6756. Ta là Sakka, chúa tể của chư Thiên, đã đi đến bên cạnh ngài. Thưa vị ẩn sĩ của hoàng gia, ta ban cho ngài tám điều ước muốn.”

649. Ta là Thiên chủ Sak-ka
Ðến đây thăm viếng ngôi nhà Hiền nhân,
Chọn ngay điều ước, Minh quân,
Ta ban tám ước nguyện phần Hiền vương.

6757. Varaṃ ce me ado sakka sabbabhūtānamissara, pitā maṃ anumodeyya ito pattaṃ sakaṃ gharaṃ, āsanena nimanteyya paṭhamaṃ taṃ varaṃ vare.

6757. “Tâu Thiên Chủ Sakka, tâu vị chúa tể của tất cả chúng sanh, nếu ngài đã ban cho tôi điều ước muốn, mong rằng phụ vương có thể tùy thuận cho tôi từ nơi này trở về lại nhà của mình, và có thể trao lại vương vị; tôi chọn điều ước muốn thứ nhất ấy.

650-651. Sak-ka, Chúa tể Thiên nhân
Khắp trần gian đã ban phần thưởng ta,
Mong vương phụ chóng giải hòa,
Mong ngài hãy sớm gọi ta về nhà,
Cho ta bảo tọa vương gia,
Ðầu tiên nguyện ước mong ta đạt thành.

6758. Purisassa vadhaṃ na roceyyaṃ api kibbisakārikaṃ, vajjhaṃ vadhamhā moceyyaṃ dutiyetaṃ varaṃ vare. 

6758. Tôi không vui thích việc xử tử con người, dầu là kẻ đã gây tội ác, tôi có thể giải thoát kẻ tử tù khỏi cái chết; tôi chọn điều ước muốn thứ nhì này.

652. Ta không kết án tử hình,
Dù ai có phạm tội tình ra sao,
Mong ta cứu tử người nào
Bị tù đày, ấy nguyện cầu thứ hai.

6759. Ye vuddhā ye ca daharā ye ca majjhimaporisā, mameva upajīveyyuṃ tatiyetaṃ varaṃ vare. 

6759. Các lão niên, các thanh niên, và các trung niên có thể sống nương tựa vào chính tôi; tôi chọn điều ước muốn thứ ba này.

653. Mong toàn dân chúng mọi người
Khi cần giúp đỡ đến nơi ta liền,
Trẻ già, lớn bé, trung niên,
Và đây là chính ước nguyền thứ ba.

6760. Paradāraṃ na gaccheyyaṃ sadārapasuto siyaṃ, thīnaṃ vasaṃ na gaccheyyaṃ catutthetaṃ varaṃ vare. 

6760. Tôi không quyến rũ vợ người khác, trung thành với vợ của mình, không bị ở dưới quyền lực của nữ nhân; tôi chọn điều ước muốn thứ tư này.

654. Ta không tìm vợ người ta,
Chỉ vừa lòng với vợ nhà thiết thân,
Không chìu theo ý nữ nhân,
Thứ tư ước nguyện ta mong mỏi hoài.

6761. Putto me sakka jāyetha so ca dīghāyuko siyā, dhammena jine paṭhaviṃ pañcametaṃ varaṃ vare.

6761. Thưa Thiên Chủ Sakka, mong rằng con trai của tôi được sanh ra, nó được sống lâu và có thể trị vì trái đất một cách công minh; tôi chọn điều ước muốn thứ năm này.

655. Sak-ka, Thiên chủ, xin ngài
Ban cho quý tử sống đời dài lâu,
Chánh chân chinh phục toàn cầu,
Thứ năm nguyện ước ân sâu xin ngài.

6762. Tato ratyā vivasane suriyassuggamanampati, dibbā bhakkhā pātubhaveyyuṃ chaṭṭhametaṃ varaṃ vare.

6762. Sau đó, vào lúc tàn đêm, cho đến lúc mọc lên của mặt trời, các thực phẩm của cõi Trời sẽ hiện ra; tôi chọn điều ước muốn thứ sáu này.656. Mỗi khi vừa hết đêm dài,
Vầng đông vừa hé, ban mai tiếp liền,
Mong sao thực phẩm thần tiên
Cũng vừa xuất hiện, ước nguyền sáu đây.

6763. Dadato me na khīyetha datvā nānutapeyyahaṃ, dadaṃ cittaṃ pasādeyyaṃ sattametaṃ varaṃ vare.

6763. (Vật thí) không bị cạn kiệt trong khi tôi đang bố thí, tôi không hối tiếc sau khi bố thí, tôi có tâm tịnh tính trong khi bố thí; tôi chọn điều ước muốn thứ bảy này.

657. Mong sao thí vật đủ đầy
Ta luôn ban phát rộng tay không ngừng
Với lòng sung sướng hân hoan
Ðây nguyền thứ bảy ta mong ước hoài.

6764. Ito vimuccamānāhaṃ saggagāmī visesagu, anibbattī tato assaṃ aṭṭhametaṃ varaṃ vare.

6764. Trong khi được giải thoát từ nơi này, tôi có sự đi đến cõi Trời, là sự ra đi đặc biệt, từ nơi ấy tôi không có sự tái sanh nữa; tôi chọn điều ước muốn thứ tám này.”

658. Mong ta thẳng tiến lên trời,
Tự do, giải thoát khỏi nơi nhân quần,
Không còn sinh cõi phàm trần,
Ðây nguyền thứ tám ta mong cầu ngài.

6765. Tassa taṃ vacanaṃ sutvā devindo etadabravi, aciraṃ vata te tāto pitā taṃ daṭṭhumessati.

6765. Sau khi lắng nghe lời nói ấy của Vessantara, vị chúa của chư Thiên đã nói điều này: “Quả thật, không bao lâu nữa, người cha của ngài sẽ đi đến để gặp lại ngài.”

659. Sak-ka, Thiên chủ cõi trời,
Ðã nghe ngài nói, đáp lời như sau:
- Phụ vương ngài chẳng bao lâu
Sẽ mong gặp mặt con, dâu tái hồi.

6766. Idaṃ vatvāna maghavā devarājā sujampati, vessantare varaṃ datvā saggakāyaṃ apakkami.

6766. Sau khi nói điều này, vị Trời Đế Thích, đấng Thiên Vương, chồng của nàng Sujā đã ban điều ước muốn cho Vessantara rồi đã trở về lại tập thể cõi Trời.

660. Sak-ka, Thiên chủ hùng oai,
Su-ja phu tướng, nói lời này xong,
Sau khi ban đủ đặc ân,
Trở về thẳng cõi Thiên thần trú an.

Sakkapabbaṃ niṭṭhitaṃ.

Đoạn Về Thiên Chủ Sakka được hoàn tất.

6767. Kassetaṃ mukhamābhāti hemaṃ vuttattamagginā, nikkhaṃva jātarūpassa ukkāmukhapahaṃsitaṃ.

(Lời đại vương Sañjaya)

6767. “Khuôn mặt này là của ai mà chói sáng tựa như vàng được nấu chảy bởi ngọn lửa, tựa như đồng tiền bằng vàng rực rỡ ở miệng bễ lò rèn?

661. Mặt ai đây chiếu ánh vàng
Khác nào lửa đốt khô rang nóng bừng,
Giống như mặt chiếc vòng vàng
Nung trong ngọn đuốc héo tàn cả thôi?

6768. Ubho sadisapaccaṅgā ubho sadisalakkhaṇā, jālissa sadiso eko ekā kaṇhājinā yathā.

6768. Cả hai có các bộ phận cơ thể tương tự, cả hai có đặc điểm tương tự, đứa bé trai giống như Jāli, đứa bé gái giống như Kaṇhājinā.

662. Cả hai đều giống dáng người
Ðây là đôi trẻ nhà ai thế này?
Kìa Jà-li giống cậu trai,
Kan-hà, cô gái chẳng sai chút gì.

6769. Sīhā bilāva nikkhantā ubho sampatirūpakā, jātarūpamayā yeva ime dissanti dārakā. 

6769. Tựa như hai con sư tử đang đi ra khỏi hang, cả hai có hình dáng giống nhau. Hai đứa trẻ này có vẻ như được làm toàn bằng vàng.

663. Giống như sư tử thiếu nhi
Mới từ hang núi bước đi xuống đường.
Giống nhau như thể đúc khuôn,
Khác nào các bức tượng vàng đứng kia.

6770. Kuto nu tvaṃ bhāradvāja ime ānesi dārake, ajja raṭṭhamanuppatto kuto āgacchasi brāhmaṇa.

6770. Này vị Bhāradvāja, từ nơi nào mà lão dẫn lại hai đứa trẻ này? Hôm nay, ngài đã đến được vương quốc, này vị Bà-la-môn, ngài từ nơi nào đi đến?”

664. Hiền nhân Bhà-rad-và-ja,
Từ đâu đem lũ trẻ thơ đến vầy,
Hãy mau nói rõ ta hay.

6771. Mayhante dārakā deva dinnā vittena sañjaya, ajja pannarasā rattī yato dinnāme dārākā. 

(Lời Bà-la-môn Jūjaka)

6771. “Tâu bệ hạ, hai đứa trẻ ấy thuộc về thần. Tâu đại vương Sañjaya, chúng đã được ban cho với sự hân hoan. Kể tử khi hai đứa trẻ đã được bố thí cho thần, đến nay là mười lăm đêm.”

665. Muôn tâu, nửa tháng trước đây có người
Ðã đem lũ trẻ cho tôi,
Hân hoan về việc làm người ban ân.

6772. Kena vā vācapeyyena sammāñāyena saddahe, ko te taṃ dānamadadā puttake dānamuttamaṃ.

6772. “Bằng lời nói ngon ngọt nào (mà lão đã đạt được hai đứa trẻ)? Lão hãy làm cho trẫm tin bằng cách thức đúng đắn. Ai đã bố thí cho lão vật thí ấy – hai đứa con nhỏ – là vật thí tối thượng?”

666. Nhờ tài dịu ngọt nói năng,
Hay lời chân thật khiến ông được lòng
Từ đâu có các nhi đồng,
Thí tài đệ nhất tôn ông nhận vầy?

6773. Yo yācataṃ patiṭṭhāsi bhūtānaṃ dharaṇīriva, so me vessantaro rājā puttedāsi vane vasaṃ.

6773. “Đức vua Vessantara là nơi nương tựa của những người cầu xin, tựa như trái đất là nơi nương tựa của các sinh linh, vị vua ấy đã bố thí cho thần hai đứa con, trong khi đang sống ở trong rừng.

667. Ves-san-ta Ðại vương này
Sống trong rừng thẳm lâu ngày ẩn thân,
Cho làm nô lệ, gia nhân,
Ngài như đất mẹ rộng lòng phát ban.

6774. Yo yācataṃ gatī āsi savantīnaṃva sāgaro, so me vessantaro rājā puttedāsi vane vasaṃ.

6774. Đức vua Vessantara là đích đến của những người cầu xin, tựa như biển cả là đích đến của các dòng sông, vị vua ấy đã bố thí cho thần hai đứa con, trong khi đang sống ở trong rừng.”

668. Ves-san-ta, chính Ðại vương
Cho tôi con ruột làm thân tôi đòi.
Mọi người cầu phúc đến ngài
Như muôn sông đổ biển khơi ngàn trùng.

6775. Dukkataṃ vata bho raññā saddhena gharamesinā, kathaṃ nu puttake dajjā araññe avaruddhako.

(Lời các quan đại thần)

6775. “Quả thật vị vua có đức tin trong lúc đang ở nhà đã làm điều sai trái. Vậy tại sao kẻ bị đày đọa ở trong rừng vẫn có thế bố thí hai đứa con nhỏ?

669. Khi còn ở tại vương cung
Làm điều sai trái minh quân chẳng hề.
Sao còn cho cả thiếu nhi,
Khi ngài đã bị đuổi đi vào rừng?

6776. Imaṃ bhonto nisāmetha yāvantettha samāgatā, kathaṃ vessantaro rājā puttedāsi vane vasaṃ.

6776. Hỡi quý ông, hết thảy quý ông đã tụ hội ở nơi này, xin quý ông hãy chú tâm lắng nghe điều này: Tại sao đức vua Vessantara đã bố thí hai đứa con, trong khi đang sống ở trong rừng?

670. Hãy nghe ta, cả quần thần,
Thảy đang tề tựu ở trong cung đình
Sao vua ban chính con mình
Ðể hầu hạ một gia đình khác kia?

6777. Dāsaṃ dāsiñca so dajjā assaṃ vāssatarīrathaṃ, hatthiñca kuñjaraṃ dajjā kathaṃ so dajjā dārake.

6777. Vị ấy có thể bố thí tôi trai và tớ gái, ngựa, hoặc con la cái và cỗ xe, voi cái và voi đực, tại sao vị ấy lại bố thí hai đứa trẻ?”

671. Cứ ban nô lệ, nữ tỳ,
Ngựa, la, và cả cỗ xe để ngồi,
Hoặc là cho cả bầy voi,
Nhưng sao cho chính cả hai con ngài?

6778. Yassa natthi ghare dāso asso vāssatarīratho, hatthi ca kuñjaro nāgo kiṃ so dajjā pitāmaha.

(Lời bé trai Jāli)

6778. “Thưa ông nội, người không có tôi trai, tớ gái, ngựa, hoặc con la cái và cỗ xe, voi cái, voi đực, và long tượng, người ấy có thể bố thí cái gì?”

672. Làm sao có thể cho ai
Khi không có chút gia tài đất đai,
Ngựa, la và cả bầy voi
Cỗ xe, tỳ nữ, tôi đòi cũng không?

6779. Dānamassa pasaṃsāma na ca nindāma puttakā, kathannu hadayaṃ āsi tumhe datvā vaṇibbake.

6779. “Này hai con nhỏ, chúng ta không khen và chúng ta không chê việc bố thí của người này, vậy trái tim của người này đã như thế nào sau khi đã bố thí hai con cho người nghèo khổ?”

673. Ông khen cha cháu ban ân,
Không lời chê trách lỗi lầm gì đâu,
Nhưng lòng vương phụ thế nào,
Khi cha trao các con vào tay kia?

6780. Dukkhassa hadayaṃ āsi atho uṇhampi passasi, rohiṇīheva tambakkhī pitā assūni vattayi. 

6780. “Trái tim của người này đã khổ sở, và ngài cũng nhìn thấy sức nóng của nó. Với hai mắt đỏ ngầu như ngôi sao Rohiṇī, cha đã để cho các giọt nước mắt tuôn trào.

674. Lòng ngài nặng trĩu sầu bi,
Lòng nung nấu chẳng khác chi lửa nồng.
Mắt ngầu đỏ tựa cá hồng,
Tuôn rơi lệ thảm đôi dòng xuống chân.

6781. Yaṃ taṃ kaṇhājināvoca ayaṃ maṃ tāta brāhmaṇo, laṭṭhiyā patikoṭeti ghare jātaṃva dāsiyaṃ. 

6781. Điều mà Kaṇhājinā đã nói với cha rằng: ‘Cha ơi, lão Bà-la-môn này đánh con bằng cây gậy như là đánh đứa tớ gái đã được sanh ra ở trong nhà.

675. Ông ơi, xem lão La-môn
Cứ ưa đánh đập lưng con mãi hoài
Với dây leo nọ, liễu gai,
Giống như nô lệ tôi đòi xuất thân.

6782. Na cāyaṃ brāhmaṇo tāta dhammikā honti brāhmaṇā, yakkho brāhmaṇavaṇṇena khādituṃ tāta neti no, nīyamāne pisācena kinnu tāta udikkhasi. 

6782. Và cha ơi, lão này không phải là Bà-la-môn; các vị Bà-la-môn là có đạo lý. Cha ơi, gã Dạ-xoa với vóc dáng Bà-la-môn dẫn chúng con đi để ăn thịt. Trong khi chúng con bị quỷ sứ dẫn đi, tại sao cha lại dửng dưng?’”676-

677. Lão này không phải đạo nhân,
Vì đạo nhân phải chánh chân mới là.
Lão này đội lốt quỷ ma
Dẫn đi ăn thịt cả nhà trẻ con.
Sao đành nhìn cháu đích tôn
Bị lôi đi thật ác ôn bạo tàn?

6783. Rājaputtī ca vo mātā rājaputto ca vo pitā, pubbe me aṅkamāruyha kinnu tiṭṭhatha ārakā. 

(Lời đại vương Sañjaya)

6783. “Mẹ của hai con là công chúa, và cha của hai con là thái tử. Trước đây, hai con đã trèo vào lòng của ông, giờ hai con tại sao lại đứng ở đằng xa?”

678. Các con: vương tử, công nương,
Mẹ cha là chính quốc vương nước này,
Xưa thường đeo sát sườn đây,
Sao bây giờ đứng như vầy xa xa?

6784. Rājaputtī ca no mātā rājaputto ca no pitā, dāsā mayaṃ brāhmaṇassa tasmā tiṭṭhāma ārakā. 

(Lời bé trai Jāli)

6784. “Mẹ của hai con là công chúa, và cha của hai con là thái tử. Chúng con là nô lệ của lão Bà-la-môn; vì thế, chúng con đứng ở đằng xa.”

679. Chúng con dòng dõi vương gia,
Quốc vương là chính mẹ cha song toàn,
Nhưng nay nô lệ đạo nhân,
Cho nên con đứng trông chừng xa xa.

6785. Mā sammevaṃ avacuttha dayhate hadayaṃ mama, citakā viya me kāyo āsane na sukhaṃ labhe. 

6785. “Cháu yêu, chớ nói như thế. Trái tim của nội bị đốt nóng. Thân thể nội tựa như giàn lửa thiêu, nội không đạt được sự thoải mái ở chiếc ghế ngồi.

680. Cháu yêu, đừng nói vậy mà,
Nóng như thiêu đốt, lòng ta khô cằn,
Thân ta như lửa cháy bừng,
Ðứng ngồi quá thật bất an bây giờ.

6786. Mā sammevaṃ avacuttha bhiyyo sokaṃ janetha maṃ, nikkiṇissāmi daṇḍena na vo dāsā bhavissatha. 

6786. Cháu yêu, chớ nói như thế. Chớ tạo thêm nỗi sầu muộn cho nội. Nội sẽ chuộc lại với giá cao, các cháu sẽ không còn là nô lệ.

681. Cháu yêu, đứng nói vậy mà,
Cháu làm ông thật xót xa buồn rầu,
Ông mua cháu với giá nào
Thoát thân nô lệ, hãy mau cháu à.

6787. Kimagghiyaṃ hi vo tāta brāhmaṇassa pitā adā, yathābhūtaṃ me akkhātha paṭipādentu brāhmaṇaṃ.

6787. Này cháu, cha đã định giá hai cháu thế nào rồi trao hai cháu cho lão Bà-la-môn? Cháu hãy nói đúng theo sự thật với nội. Hãy để các giá cả khiến lão Bà-la-môn chấp nhận.

682. Nói cho ông rõ thật thà,
Rồi ông sẽ trả cho Bà-la-môn
Giá nào cha đã định phần,
Khi cha đem cháu ban ân cúng dường?

6788. Sahassagghaṃ hi maṃ tāta brāhmaṇassa pitā adā. acchaṃ kaṇhājinaṃ kaññaṃ hatthinā ca satena ca.

6788. Thưa nội, bởi vì cha đã trao con cho lão Bà-la-môn với giá một ngàn, còn Kaṇhājinā thơ ngây là con gái với giá một trăm voi và (các thứ khác mỗi thứ một trăm).”

683. Một ngàn đồng giá của con,
Phần em con muốn thoát thân nô tỳ,
Trăm voi và mọi thứ kia,
Một trăm mỗi thứ cha đà định luôn.

6789. Uṭṭhehi katte taramāno brāhmaṇassa avākara, dāsīsataṃ dāsasataṃ gavaṃ hatthūsabhaṃ sataṃ,
jātarūpasahassañca puttānaṃ dehi nikkayaṃ.

6789. “Này quan thủ kho, khanh hãy đứng dậy và cấp tốc chi trả cho vị Bà-la-môn. Khanh hãy xuất ra một trăm tớ gái, một trăm tôi trai, gia súc, voi, bò mỗi thứ một trăm, và một ngàn tiền vàng cho việc chuộc lại hai con nhỏ.”

684-685. Cận thần, mau trả đạo nhân
Ðúng theo giá được định phần cháu ta.
Một trăm nam nữ gia nô,
Một trăm voi với đàn bò trăm con,
Một trăm con ngựa trong chuồng,
Một ngàn đồng chẵn tiền vàng đúng cân.

6790. Tato kattā taramāno brāhmaṇassa avākari, dāsīsataṃ dāsasataṃ gavaṃ hatthūsabhaṃ sataṃ, jātarūpasahassañca puttānaṃ dāsi nikkayaṃ.

6790. Sau đó, viên quan thủ kho đã cấp tốc chi trả cho vị Bà-la-môn. Vị ấy đã xuất ra một trăm tớ gái, một trăm tôi trai, gia súc, voi, bò mỗi thứ một trăm, và một ngàn tiền vàng cho việc chuộc lại hai con nhỏ.

686-687. Cận thần liền trả đạo nhân
Ngay khi giá được định phần rõ ra:
Một trăm nam nữ gia nô,
Một trăm voi với đàn bò trăm con,
Một trăm con ngựa trong chuồng,
Một ngàn đồng chẵn tiền vàng đúng cân.

6791. Nikkiṇitvā nahāpetvā bhojayitvāna dārake, samalaṅkaritvā bhaṇḍena ucchaṅge upavesayuṃ.

6791. Sau khi đã chuộc lại, vị đại vương đã bảo người cho hai đứa trẻ tắm rửa, ăn uống, trang điểm với vật dụng, rồi cho đặt vào ngồi ở trong lòng.

6793. Sīsaṃ nahāte sucivatthe sabbābharaṇabhūsite, rājā aṅke karitvāna ayyako paripucchatha. 

6793. Khi hai đứa trẻ đã được gội đầu, có y phục sạch sẽ, đã được tô điểm với mọi thứ trang sức, đức vua, tức ông nội, đã đặt chúng vào lòng và hỏi han.

688. Chuộc xong, trẻ được tắm ngay,
Uống ăn, trang điểm và thay áo quần.
Ðược ông bà bế vào lòng,
Quốc vương cất tiếng hỏi han ân cần:

6794. Kuṇḍale ghusite māle sabbālaṅkārabhūsite, rājā aṅke karitvāna idaṃ vacanamabravi. 

6794. Khi hai đứa trẻ đã được chưng diện với mọi vật trang điểm, có vòng hoa, và bông tai kêu leng keng, đức vua đã đặt Jāli vào lòng và đã nói lời nói này: 

6795. Kacci ubho arogā te jāli mātāpitā tava, kacci uñchena yāpenti kacci mūlaphalā bahū. 

6795. “Này Jāli, phải chăng cả hai người họ, mẹ và cha của cháu, đều khỏe mạnh? Phải chăng họ nuôi sống bằng việc thu nhặt? Phải chăng có nhiều rễ củ và trái cây?

689.- Ta tin rằng phụ mẫu thân
Thảy đều thịnh vượng, an khương mọi bề
Với bao thóc lúa thu về,
Và bao củ quả tràn trề thảo am.

6796. Kacci ḍaṃsā ca makasā ca appameva siriṃsapā, vane vālamigākiṇṇe hiṃsā tesaṃ na vijjati. 

6796. Phải chăng có rất ít ruồi, muỗi, và các loài bò sát, và không có sự hãm hại đến với họ ở khu rừng đông đúc các loài thú dữ?”

690. Song thân con có phiền lòng
Vì loài rắn rít, bọ ong quấy hoài,
Hay bầy dã thú tìm mồi,
Song thân có tránh mọi loài được chăng?

6797. Atho ubho arogā me deva mātāpitā mama, atho uñchena yāpenti atho mūlaphalā bahū.

6797. “Tâu bệ hạ, cả hai người họ, mẹ và cha của cháu, đều khỏe mạnh. Họ nuôi sống bằng việc thu nhặt. Rễ củ và trái cây có nhiều.

691. Cám ơn ông, tổ phụ vương,
Song thân thịnh vượng, an khương mọi bề,
Với bao thóc lúa thu về
Và bao củ quả tràn trề thảo am.

6798. Atho ḍaṃsā ca makasā ca appameva siriṃsapā, vane vālamigākiṇṇe hiṃsā tesaṃ na vijjati.

6798. Có rất ít ruồi, muỗi, và các loài bò sát, và không có sự hãm hại đến với họ ở khu rừng đông đúc các loài thú dữ.

692. Song thân không bị phiền lòng
Vì loài rắn rít, bọ ong quấy hoài,
Hoặc bầy dã thú tìm mồi,
Song thân tránh được mọi loài, bình an.

6799. Khaṇantālūkalambāni biḷāli takkalāni ca, kolaṃ bhallāṭakaṃ bellaṃ sā no āhacca posati.

6799. Trong khi đào các củ khoai mỡ, củ cải, củ hành, và củ takkala, mẹ đã mang về trái táo rừng, hạt dẻ, tráibella, rồi nuôi dưỡng chúng con.

693. Mẹ đào củ cải, hành hoang,
Mẹ tìm cỏ thuốc, rau thơm, bạc hà,
Táo và hạt dẻ, Vil-va,
Mẹ thường hái để cả nhà ăn luôn.

6800. Yañceva sā āharati vanamūlaphalahārikā, taṃ no sabbe samāgantvā rattiṃ bhuñjāma no divā.

6800. Mẹ là người mang về rễ và trái cây rừng, bất cứ vật gì mà mẹ mang về, tất cả chúng con đã quây quần lại và ăn vật ấy, ban đêm và ban ngày.

694. Và khi nào mẹ cưu mang
Dù là củ quả rừng hoang loại gì,
Cả nhà đều đến tựu tề,
Và cùng ăn uống no nê đêm ngày.

6801. Ammā ca no kisā paṇḍu āharantī dumapphalaṃ, vātātapena sukhumālī padumaṃ hatthagatāmiva.

6801. Và mẹ của chúng con, trong khi mang trái cây về, đã trở nên gầy ốm, vàng vọt, mảnh mai bởi gió và nắng, tựa như đóa sen bị bàn tay dày vò.

695. Mẹ con vàng võ, ốm gầy,
Bởi vì vất vả suốt ngày kiếm ăn,
Dãi dầu mưa nắng gió sương
Ở trong rừng rậm thú hoang trú nhiều.

6802. Ammāya patanū kesā vicarantyā brahāvane, vane vālamigākiṇṇe khaggadīpinisevite.

6802. Các sợi tóc của mẹ trở nên mỏng manh trong khi mẹ đi lang thang ở khu rừng rộng lớn, ở khu rừng đông đúc các thú dữ, được lai vãng bởi loài tê giác và loài báo.

696. Như hoa sen thật yêu kiều
Ở trong tay nọ tiêu điều xác xơ.
Tóc bà chỉ mọc lơ thơ
Vì lang thang giữa rừng già trống trơn.

6803. Kesesu jaṭaṃ bandhitvā kacche jallamadhārayi, cammavāsī chamā seti jātavedaṃ namassati.

6803. Mẹ đã buộc các sợi tóc thành bện và mang đất ở nách, mặc y phục da thú, nằm trên đất, tôn thờ thần lửa.

697. Dưới tay bám đất từng hòn,
Tóc bà buộc chặt từng chòm phía trên.
Bà chăm nom ngọn lửa thiêng,
Ðắp nhiều da thú nằm trên đất dày.

6804. Puttā piyā manussānaṃ lokasmiṃ udapajjisuṃ, na ha nūnamhākaṃ ayyassa putte sneho ajāyatha.

6804. Những đứa con trai đã được sanh ra ở thế gian đều được mọi người yêu quý. Ông nội của chúng con chắc chắn đã không có lòng yêu thương con trai!”

698. Thói thường ở thế gian này,
Mọi người yêu quí con trai trong nhà,
Nhưng trừ trường hợp này ra
Hình như tổ phụ bỏ ra việc này.

6805. Dukkatañca hi no putta bhūnahaccā kataṃ mayā, yohaṃ sivīnaṃ vacanā pabbājesiṃ adūsakaṃ.

6805. “Này cháu Jāli, quả thật là điều đã làm sai trái của nội. Nội đã tạo nghiệp hủy hoại sự tiến triển. Nội đây vì lời nói của dân chúng xứ Sivi mà đã trục xuất người không tồi bại.

699. Việc này ta thật trái sai,
Hại người vô tội tàn đời rừng hoang,
Khi nghe lời của thần dân,
Ta đành đày ải con thân trong nhà.

6806. Yaṃ me kiñci idha atthi dhanaṃ dhaññañca vijjati, etu vessantaro rājā siviraṭṭhe pasāsatu.

6806. Bất cứ vật gì của ta có ở nơi này, tài sản và thóc lúa hiện có (nội cho tất cả đến cha cháu). Hãy để Vessantara trở về làm vua, hãy để Vessantara lãnh đạo đất nước Sivi.”

700. Vậy thì tài sản của ta,
Những gì ta có bây giờ trong tay
Thuộc quyền sở hữu con trai,
Ves-san-ta hãy đến ngay trị vì
Trên toàn đất nước Si-vi.

6807. Na deva mayhaṃ vacanā ehiti sivisuttamo, sayameva devo gantvāna siñca bhogehi atrajaṃ. 

6807. “Tâu bệ hạ, với lời nói của cháu thì con người vô cùng cao cả của xứ Sivi sẽ không trở về. Chính đích thân bệ hạ hãy đi đến và ban tặng các của cải cho người con trai ruột.”

701. Không vì lời của ấu nhi vừa rồi,
Mà vương phụ sẽ tái hồi,
Tâu ngài tổ phụ cao ngôi nước mình,
Vậy xin ngài tự thân hành
Ban con trai đủ ân lành từ tay.

6808. Tato senāpatiṃ rājā sañjayo ajjhabhāsatha, hatthī assā rathā pattī senā sannāhayantu naṃ, negamā ca maṃ anventu brāhmaṇā ca purohitā. 

6808. Sau đó, đại vương Sañjaya đã ra lệnh cho vị tướng lãnh quân đội rằng: “Hãy cho các đoàn quân gồm có tượng binh, mã binh, xa binh, và bộ binh nai nịt để đón rước vị ấy. Còn các thị dân và các vị quan tế tự Bà-la-môn hãy đi theo trẫm.

702. Cỗ xe bầy ngựa đi ngay
Bầy voi và bộ binh nay sẵn sàng,
Thần dân hãy đến quanh vùng,
Tế sư tất cả đi cùng chỗ kia.

6809. Tato saṭṭhisahassāni yudhino cārudassanā, khippamāyantu sannaddhā nānāvaṇṇehilaṅkatā.

6809. Kế đến, sáu mươi ngàn chiến sĩ có dáng vẻ dễ mến, đã được nai nịt, đã được trang phục với nhiều màu sắc khác nhau, hãy cấp tốc đi đến.

703. Sáu mươi ngàn tướng lãnh ta
Giáo gươm tô điểm thật là xinh sao,
Giáp bào xanh,trắng hoặc nâu,
Mão cao đỏ tựa máu đào, đến kia.

6810. Nīlavatthadharāneke pītāneke nivāsitā, aññe lohitauṇhisā suddhāneke nivāsitā, khippamāyantu sannaddhā nānāvatthehilaṅkatā.

6810. Nhiều vị mang y phục màu xanh, nhiều vị mặc màu vàng, nhiều vị khác có khăn đội đầu màu đỏ, nhiều vị mặc màu trắng, đã được nai nịt, đã được trang phục với nhiều y phục khác nhau, hãy cấp tốc đi đến.

6811. Himavā yathā gandhadharo pabbato gandhamādano, nānārukkhehi sañchanno mahābhūtagaṇālayo.

6811, 6812. Giống như ngọn núi tuyết Gandhamādana – có hương thơm, được che phủ bởi nhiều loại cây khác nhau, là nơi trú ngụ của tập thể chư Thiên, – chói sáng và tỏa hương đi khắp các phương bởi các loại thảo dược của cõi Trời, các vị đã được nai nịt hãy cấp tốc đi đến, hãy chói sáng và tỏa hương đi khắp các phương.

704. Giống như đồi lắm quỉ ma,
Nơi ngàn cây mọc chen đua thẳng hàng,
Sáng ngời, thơm ngát dịu dàng
Với cây thần, gió nhẹ nhàng tới lui.

6812. Osadhehi ca dibbehi disā bhāti pavāti ca, khippamāyantu sannaddhā disā bhantu pavantu ca.

6813. Tato nāgasahassāni yojayantu catuddasa, suvaṇṇakacchā mātaṅgā hemakappanavāsasā.

6813, 6814. Kế đến, hãy thắng yên cương cho mười bốn ngàn con voi, là những con khổng tượng có dây đai bằng vàng, có trang phục là yên cương bằng vàng, được cỡi lên bởi các viên quản tượng có cây thương móc câu ở bàn tay. Các viên quản tượng đã được nai nịt, đã được nhìn thấy ngồi trên mình của các con voi, hãy cấp tốc đi đến.

705. Hãy đem mười bốn ngàn voi
Trang hoàng toàn thể cân đai bằng vàng,
Bọn nài voi giáo liềm mang
Cùng nhiều bầy ngựa, ta ban lệnh này.

6814. Ārūḷhā gāmaṇīyehi tomaraṅkusapāṇihi, khippamāyantu sannaddhā hatthikkhandhehi dassitā.

6815. Tato assasahassāni yojayantu catuddasa, ājānīyāva jātiyā sindhavā sīghavāhanā.

6815, 6816. Kế đến, hãy thắng yên cương cho mười bốn ngàn con ngựa, là những con ngựa Sindhu thuần chủng về dòng dõi, có sức chuyển vận mau lẹ, được cỡi lên bởi các kỵ mã có mang gươm và cung. Các kỵ mã đã được nai nịt, đã được trang phục, ngồi trên lưng của các con ngựa, hãy cấp tốc đi đến.

706. Ngựa Sindh toàn thể cả bầy,
Giống nòi cao quý vẫn hay tốc hành,
Mỗi con chở một kỵ binh
Hiên ngang cung kiếm bên mình sẵn mang.

6816. Ārūḷhā gāmaṇīyehi illiyācāpadhārihi, khippamāyantu sannaddhā assapiṭṭhehilaṅkatā.

6817. Tato rathasahassāni yojayantu catuddasa, ayosukatanemiyo suvaṇṇacitapakkhare.

6817. Kế đến, hãy thắng ngựa cho mười bốn ngàn con cỗ xe, có các vành bánh xe được làm cẩn thận bằng sắt, có các khung xe được khảm bằng vàng.

707. Cỗ xe một vạn bốn ngàn
Ðiểm tô thật đẹp yên cương đủ đầy,
Bánh làm sắt rất khéo thay,
Dát vàng toàn thể thắng ngay cả đoàn.

6818. Āropentu dhaje tattha cammāni kavacāni ca, vipphālentu ca cāpāni daḷhadhammā pahārino, khippamāyantu sannaddhā rathesu rathajīvino.

6818. Ở trên xe, hãy treo lên các cờ hiệu và các mộc che bằng da thú, và hãy cho các cung thủ có tài nghệ vững chắc giương các cây cung. Các xa phu ở trên các cỗ xe, đã được nai nịt, hãy cấp tốc đi đến.

708. Phướng, cờ chuẩn bị sẵn sàng,
Giáp bào, khiên mộc vai mang xuất hành,
Cung tên đầy đủ bên mình
Những người chiến sĩ giao tranh không sờn.

6819. Lājā olopiyā pupphā mālāgandhavilepanā, agghiyāni ca tiṭṭhantu yena maggena ehiti. 

6819. Hãy để sẵn các cánh hoa để tung lên, các bông hoa, các tràng hoa, nước thơm, dầu thơm, và các vật có giá trị dọc theo lộ trình vị ấy sẽ đi đến.

709. Hoa là-ja trải khắp đường
Những tràng hoa đẹp ngát hương dăng màn,
Hãy đem lễ vật cúng dường
Ðặt ngay trên lối quân vương du hành.

6820. Gāme gāme sataṃ kumbhā merayassa surāya ca, maggamhi patitiṭṭhantu yena maggena ehiti. 

6820. Hãy bày ra ở mỗi ngôi làng một trăm chum rượu ủ men và rượu nấu, ở đường đi dọc theo lộ trình vị ấy sẽ đi đến.710. Hãy đem ra rượu trăm bình,
Mỗi thôn mời mọi dân lành muốn say.
Trăm bình rượu ấy đặt ngay
Bên đường vương tử mai này hồi loan.

6821. Maṃsā pūvā saṅkuliyo kummāsā macchasaṃyutā, maggamhi patitiṭṭhantu yena maggena ehiti. 

6821. Hãy bày ra các món thịt, các loại bánh ngọt, bánh saṅkulī, bánh kem, được kết hợp với các món cá, ở đường đi dọc theo lộ trình vị ấy sẽ đi đến.

711. Hãy đem bánh thịt sẵn sàng,
Món canh phải khéo trang hoàng cá ngon,
Ðem ra đặt ở vệ đường,
Ở ngay trên lối quân vương đi về.

6822. Sappi telaṃ dadhiṃ khīraṃ kaṅgu vīhi bahū surā, maggamhi patitiṭṭhantu yena maggena ehiti. 

6822. Hãy bày ra bơ lỏng, dầu ăn, sữa đông, sữa tươi, và nhiều rượu làm từ hạt kê, làm từ hạt lúa, ở đường đi dọc theo lộ trình vị ấy sẽ đi đến.

712. Rượu, dầu, bơ, sữa, hạt kê,
Sữa chua, cơm chín ê hề thức ăn
Ðem ra đặt chúng bên đường
Ở ngay trên lối quân vương đi về.

6823. Āḷārikā ca sūdā ca naṭanaṭṭakagāyakā, pāṇissarā kumbhathūniyo maṇḍakā sokajhāyikā. 

6823. (Hãy tập hợp) các thợ nướng bánh, các đầu bếp, các vũ công, các kịch sĩ, các ca sĩ, các nghệ sĩ hát theo nhịp vỗ tay, các nghệ nhân biểu diễn chum và trống, các nữ ca sĩ giọng trầm, các nghệ sĩ giải khuây.

713. Hỏa đầu quân hãy tựu tề,
Người làm bánh mứt, làm hề, hát rong,
Người nhào lộn, các vũ công.
Những người đánh trống, đóng tuống giải khuây.

6824. Āhaññantu sabbavīṇā bheriyo deṇḍimāni ca, kharamukhāni dhammantu vadantu ekapokkharā. 

6824. Hãy cho tấu lên tất cả các cây đàn vīṇā, các trống lớn, và các trống con, hãy cho thổi lên các tù và vỏ ốc miệng lớn, và hãy làm vang lên các chiếc trống một mặt.

714. Ðàn tỳ trổi giọng lên ngay,
Tù và inh ỏi, đủ đầy thần dân,
Trống con, trống lớn khua rần
Khắp nơi đủ loại thùng thùng dậy vang.

6825. Mutiṅgā paṇavā saṅkhā godhā parivadentikā, dindimāni ca haññantu kuṭumbadindimāni ca. 

6825. Hãy cho vỗ lên các trống nhỏ, các chập chõa, các tù và vỏ ốc, các nhạc cụ godha, các đàn dây, các trống con, và các chiếc trống kuṭumba.”

6826. Sā senā mahatī āsi uyyuttā sivivāhinī, jālinā magganāyena vaṅkaṃ pāyāsi pabbataṃ. 

6826. Đạo quân vĩ đại ấy, binh đội của xứ Sivi đã xuất phát, đã khởi hành đi đến ngọn núi Vaṅka theo sự hướng dẫn đường đi của bé trai Jāli.

715. Ðạo quân hùng hậu lên đường,
Ðạo quân của cả nước non quê nhà,
Ði về phía núi Vam-ka,
Jà-li hướng dẫn đoàn ra trước liền.

6827. Kuñcaṃ nadati mātaṅgo kuñjaro saṭṭhihāyano, kacchāya baddhamānāya kuñcaṃ nadati vāraṇo. 

6827. Con khổng tượng, con voi sáu mươi năm tuổi, rống lên tiếng kêu của loài voi. Con voi rống lên tiếng kêu của loài voi trong khi yên cương đang được buộc vào.

716. Voi già đã sáu mươi niên
Rống lên một tiếng như kèn dậy vang,
Thú rừng gầm thét rộn ràng
Những khi chúng buộc dây cương chặt vào.

6828. Ājānīyā hasissiṃsu nemighoso ajāyatha, abbhaṃ rajo acchādesi uyyuttā sivivāhinī.

6828. Các con ngựa thuần chủng đã hí vang, tiếng động của bánh xe đã nổi lên, bụi mù đã che phủ bầu trời, binh đội của xứ Sivi đã xuất phát.

717. Bánh xe dồn dập xôn xao,
Rồi bầy ngựa hí giọng cao vang lừng,
Ðại quân thẳng tiến lên đường,
Mịt mù tung đám bụi hồng như mây.

6829. Sā senā mahatī āsi uyyuttā hārahāriṇī, jālinā magganāyena vaṅkaṃ pāyāsi pabbataṃ. 

6829. Đạo quân vĩ đại ấy, mang theo vật cần thiết, đã xuất phát, đã khởi hành đi đến ngọn núi Vaṅka theo sự hướng dẫn đường đi của bé trai Jāli.

718. Nhu cầu cung cấp đủ đầy,
Ðạo quân quyết chí đi ngay sẵn sàng.
Jà-li hướng dẫn cả đoàn
Tiến về đồi núi bạt ngàn Vam-ka.

6830. Te pāviṃsu brahāraññaṃ bahusākhaṃ bahūdakaṃ, puppharukkhehi sañchannaṃ phaḷarukkhehi cūbhayaṃ.

6830. Họ đã đi vào khu rừng rộng lớn, có nhiều cành cây, có nhiều đầm nước, được che phủ bởi cả hai loại: các cây cho hoa và các cây ăn quả.

719. Ði vào rừng rậm bao la
Tưng bừng chim chóc, cỏ hoa muôn loài,
Với bao hoa nở nụ cười,
Với bao trái chín làm người mừng vui.

6831. Tattha bindussarā vaggu nānāvaṇṇā bahū dijā, kūjantamupakūjanti utusampupphite dume. 

6831. Tại nơi ấy, ở thân cây đã được nở rộ hoa lúc vào mùa, nhiều con chim có màu sắc khác nhau có giọng hót tròn trịa, có âm thanh ngọt ngào, cất tiếng hót hòa theo con chim đang hót.

720. Khi rừng đang độ hoa tươi,
Chim ca rào rạt như trời đổ mưa,
Véo von ríu rít gần xa
Với bao đôi cánh sáng lòa bay ngang.

6832. Te gantvā dīghamaddhānaṃ ahorattānamaccaye, padesaṃ taṃ upāgañchuṃ yattha vessantaro ahu.

6832. Họ đã đi đoạn đường dài (sáu mươi do-tuần). Khi đã trải qua nhiều ngày đêm, họ đã đi đến gần khu vực ấy, nơi vị Vessantara cư ngụ.

721. Ngày đêm thẳng tiến lên đường,
Cuối cùng chấm dứt đường trường nơi đây,
Tiến vào trong xóm thôn này
Ves-san-ta Chúa lâu rày ẩn thân.

Mahārājapabbaṃ niṭṭhitaṃ.

Đoạn Về Vị Đại Vương được hoàn tất.

6833. Tesaṃ sutvāna nigghosaṃ bhīto vessantaro ahu, pabbataṃ abhirūhitvā bhīto senaṃ udikkhati.

6833. Sau khi nghe được tiếng động của những người ấy, Vessantara đã trở nên hoảng sợ. Vị ấy đã leo lên ngọn núi, và hoảng sợ quan sát đạo quân.

722. Ðoàn quân rầm rộ đến gần,
Ves-san-ta lắng nghe ầm ầm vang,
Ngài trèo lên ngọn đồi hoang
Nhìn đoàn quân ấy, kinh hoàng lắm thay.

6834. Iṅgha maddi nisāmehi nigghoso yādiso vane, ājānīyā hasissanti dhajaggāni ca dissare.

6834. “Này Maddī, nàng hãy lắng tai nghe. Có tiếng động như thế này ở khu rừng: các con ngựa thuần chủng hí vang và các cờ hiệu được nhìn thấy.

723. - Mad-dì, hãy lắng nghe này,
Âm thanh gầm thét tràn đầy rừng hoang,
Tiếng bầy ngựa hí nghe vang,
Nhìn cờ phấp phới bay ngang ngọn đồi.

6835. Ime nūna araññasmiṃ migasaṅghāni luddakā, vāgurāhi parikkhippa sobbhaṃ pātetva tāvade, vikkosamānā tippāhi hanti nesaṃ varaṃ varaṃ. 

6835. Phải chăng những gã thợ săn này đã dùng các tấm lưới rào quanh, rồi lùa các bầy thú ở khu rừng rơi xuống hố liền khi ấy, và trong lúc la hét, chúng giết chết những con thú ngon nhất trong số đó bằng những lao nhọn?

724. Phải chăng, bọn thợ săn mồi
Với dao, lưới bẫy ở nơi hố hầm,
Ði tìm dã thú trong rừng,
Ðang gào thét để truy lùng chúng đây?

6836. Yathā mayaṃ adūsakā araññe avaruddhakā, amittahatthatthagatā passa dubbalaghātakaṃ.

6836. Giống như chúng ta là những người không tồi bại, những kẻ bị đày đọa ở trong rừng đã bị rơi vào bàn tay của kẻ thù. Nàng hãy nhìn xem kẻ sát hại những người yếu đuối.”

725. Chúng ta, những kẻ lưu đày,
Mặc dù vô tội, ở ngay trong rừng,
Ðang chờ cái chết bạo hung,
Rơi vào tay của cừu nhân bây giờ!

6837. Amittā nappasaheyyuṃ aggīva udakaṇṇave, tadeva tvaṃ vicintehi api sotthi ito siyā.

6837. “Các kẻ thù không có thể áp bức được chàng, tựa như ngọn lửa ở trong biển nước. Chàng hãy suy xét đến chính điều ấy,[1] cũng có thể có sự bình yên từ việc này.

[1] Lời tiên tri của Thiên Chủ Sakka về việc phụ hoàng sẽ vào rừng để rước Vessantara về lại hoàng cung (JaA. vi, 583). Xem câu kệ 6765 ở trang 463.

726. Thảy đều tốt đẹp với ta,
Quân thù không hại vương gia đâu nào,
Không hề có ngọn lửa cao
Ðủ năng lực để tràn vào đại vương.

6838. Tato vessantaro rājā orohitvāna pabbatā, nisīdi paṇṇasālāyaṃ daḷhaṃ katvāna mānasaṃ.

6838. Sau đó, đức vua Vessantara đã leo xuống núi, rồi đã ngồi xuống ở gian nhà lá, sau khi đã củng cố lại tâm ý.

727. Ves-san-ta, bậc Ðại vương,
Nghe vầy, bước xuống từ vườn đồi hoang,
Và ngồi ngay trước thảo am,
Nhưng lòng vẫn thấy bàng hoàng bất an.

6839. Nivattayitvāna rathaṃ votthāpetvāna seniyo, ekaṃ araññe viharantaṃ pitā puttaṃ upāgami.

6839. Sau khi đã bảo cỗ xe quay lại và sau khi đã cho bố trí quân lính bảo vệ, người cha (đại vương Sañjaya) đã đi đến gặp người con (đức vua Vessantara) đang sống một mình ở trong khu rừng.

728. Ðiều hành quân đội sẵn sàng,
Vương xa hướng đến con đường vừa qua,
Và đi tìm chốn rừng già,
Nơi kia vương tử làm nhà độc cư.

6840. Hatthikkhandhato oruyha ekaṃso pañjalīkato, parikkhitto amaccehi puttaṃ siñcitumāgami. 

6840. Sau khi leo xuống từ mình voi, vị đại vương đã khoác hoàng bào một bên vai trái, chắp tay lại. Được tùy tùng bởi các quan đại thần, ngài đã đi đến để phục hồi vương vị cho người con trai.

729. Trên mình voi báu, vua cha,
Hoàng y ngài đã khoác hờ trên vai,
Giơ cao, nắm chặt đôi tay,
Ngài đi trao lại chiếc ngai con mình.

6841. Tatthaddasa kurāraṃ so rammarūpaṃ samāhitaṃ, nisinnaṃ paṇṇasālāyaṃ jhāyantaṃ akutobhayaṃ. 

6841. Tại nơi ấy, ngài đã nhìn thấy vị vương tử có dáng vẻ đáng yêu, bình tĩnh, ngồi ở gian nhà lá, đang trầm tư, không có sự sợ hãi từ bất cứ đâu.

730. Ngài nhìn vương tử đẹp xinh,
Dáng không sợ hãi, an bình trong tâm.
Ngồi ngay ở trước thảo am
Và đang tĩnh lặng thâm trầm tư duy.

6842. Tañca disvāna āyantaṃ pitaraṃ puttagiddhinaṃ, vessantaro ca maddī ca paccuggantvā avandisuṃ. 

6842. Và sau khi nhìn thấy người cha ấy đang đi đến với sự mong ngóng con trai, Vessantara và Maddī đã đi ra đón tiếp và thi lễ.

731. Ves-san-ta với Mad-dì
Thấy vua cha, phải vội đi đón mừng,
Vừa khi vương phụ đến gần
Trong lòng mong mỏi viếng thăm con ngài.

6843. Maddī ca sirasā pāde sasurassābhivādayi, maddī ahaṃ hi te deva pāde vandāmi te husā, tesu tattha palissajja pāṇinā parimajjatha.

6843. Nàng Maddī đã đê đầu đảnh lễ hai bàn chân của cha chồng (nói rằng): “Tâu bệ hạ, thần thiếp chính là Maddī, con dâu của bệ hạ, xin đảnh lễ hai bàn chân của ngài.” Tại nơi ấy, vua cha đã ôm chầm lấy hai người và vuốt ve bằng bàn tay.

732. Mad-dì đảnh lễ tức thời
Ðặt đầu nàng trước chân ngài, phụ vương,
Ngài ôm chặt cả hai con,
Ðôi tay ve vuốt đem nguồn hân hoan.

6844. Kacci vo kusalaṃ putta kacci putta anāmayaṃ, kacci uñchena yāpetha kacci mūlaphalā bahū.

(Lời trao đổi giữa hai cha con, đại vương Sañjaya và đức vua Vessantara)

6844. “Này con trai, phải chăng con được an khang? Này con trai, phải chăng con được vô sự? Phải chăng các con nuôi sống bằng việc thu nhặt? Phải chăng có nhiều rễ củ và trái cây?

733. Ta tin rằng, hỡi con thương,
Con thường thịnh vượng, an khương mọi bề
Với bao thóc lúa thu về,
Và bao củ, quả tràn trề ẩn am.

6845. Kacci ḍaṃsā ca makasā ca appameva siriṃsapā, vane vālamigākiṇṇe kacci hiṃsā na vijjati.

6845. Phải chăng có rất ít ruồi, muỗi, và các loài bò sát? Phải chăng không có sự hãm hại ở khu rừng đông đúc các loài thú dữ?”

734. Con nay có bị phiền lòng
Vì loài rắn rít, bọ ong quấy hoài?
Hoặc bầy dã thú tìm mồi,
Chẳng hay con tránh mọi loài được chăng?

6846. Atthi no jīvikā deva yā ca yādisi kīdisā, kasirā hi jīvikā homa uñchācariyāya jīvikaṃ.

6846. “Tâu bệ hạ, chúng con có cách kiếm sống, và cách ấy là thấp kém. Sinh kế quả thật khó khăn, chúng con nuôi mạng bằng việc thu nhặt củ quả.

735. Chúng con sống, tấu phụ thân,
Cuộc đời cực khổ khốn cùng vừa qua,
Chúng con nỗ lực tối đa
Ðể ăn những thứ tìm ra quanh đồi.

6847. Aniddhinaṃ mahārāja dametassaṃva sārathi, tyamhā aniddhikā dantā asamiddhi dameti no.

6847. Tâu đại vương, tựa như người đánh xe rèn luyện con ngựa chưa được thuần phục, chúng con đây chưa được thành tựu, nhưng đã được rèn luyện; sự bất hạnh rèn luyện chúng con.

736. Nghịch duyên rèn luyện con người
Như người giữ ngựa luyện loài ngựa hoang.
Nghịch duyên này, tấu phụ vương,
Ðã làm thuần thục chúng con nơi này.

6848. Api no kisāni maṃsāni pitu mātu adassanā, avaruddhānaṃ mahārāja araññe jīvasokinaṃ.

6848. Tuy nhiên, là những người bị đày đọa ở trong rừng, có cuộc sống sầu muộn, tâu đại vương, chúng con có thân thể bị ốm o, do việc không nhìn thấy cha và mẹ.

737. Nhưng vì xa vắng lâu ngày
Song thân khiến chúng con gầy tấm thân,
Bị lưu đày, tấu Ðại quân,
đi vào sống trong rừng hoang sơ.

6849. Ye pi te siviseṭṭhassa dāyādappattamānasā, jālī kaṇhājinā cubho brāhmaṇassa vasānugā, accāyikassa luddassa yo ne gāvova sumbhati.

6849. Thậm chí, cả hai Jāli và Kaṇhājinā – những người thừa kế còn chưa được thành tựu của cha là vị đứng đầu xứ Sivi – thì đã ở dưới quyền lực của lão Bà-la-môn vô cùng hung ác; gã đánh đập hai trẻ như là đánh đập trâu bò.

738. Nhưng Jà-li, với Kan-hà,
Vương tôn bất hạnh của cha nối dòng,
Bà-la-môn nọ bạo tàn
Ðã xua đuổi chúng như đàn bò non.

6850. Te rājaputtiyā putte yadi jānātha saṃsatha, pariyāpuṇātha no khippaṃ sappadaṭṭhaṃva māṇavaṃ.

6850. Nếu cha biết về hai đứa con ấy của công chúa Maddī, xin cha hãy thông báo. Xin cha hãy mau chóng làm chủ cho chúng con, tựa như cứu chữa người thanh niên bị rắn cắn.”

739. Nếu cha biết chút gì chăng
Về đôi trẻ nhỏ nối dòng, nói ngay,
Như y sư chữa khéo thay
Một người bị rắn cắn ngay tức thì.

6851. Ubho kumārā nikkītā jālī kaṇhājinā cubho, brāhmaṇassa dhanaṃ datvā putta mā bhāyi assasa.

6851. “Cả hai đứa trẻ đã được chuộc lại, cả hai Jāli và Kaṇhājinā, sau khi cha đã ban bố tài sản cho lão Bà-la-môn. Này con trai, chớ sợ hãi, hãy bình tĩnh.”

740. Cả Kan-hà với Jà-li
Giờ đây đã được chuộc về hoàng cung.
Ta đem tiền trả đạo nhân,
Vậy đừng sợ, hãy yên lòng, con thương!

6852. Kaccinnu tāta kusalaṃ kacci tāta anāmayaṃ, kaccinnu tāta me mātu cakkhuṃ na parihāyati. 

6852. “Thưa cha, phải chăng cha được an khang? Thưa cha, phải chăng cha được vô sự? Thưa cha, phải chăng mắt của mẹ con không bị hư hoại?”

741. - Con mong cha được an khương,
Và không còn chuyện lo buồn xảy ra,
Mẹ con không phải lệ sa
Ðến khi đôi mắt xót xa đỏ bừng.

6853. Kusalaṃ ceva me putta atho putta anāmayaṃ, athopi putta te mātu cakkhuṃ na parihāyati. 

6853. “Này con trai, cha được an khang. Và này con trai, cha được vô sự. Này con trai, còn mắt của mẹ con không bị hư hoại.”

742. - Cám ơn, cha được an khương,
Và không còn chuyện đau buồn xảy ra,
Mẹ con không phải lệ sa
Ðến khi đôi mắt xót xa đỏ bừng.

6854. Kacci arogaṃ yoggaṃ te kacci vahati vāhanaṃ, kacci phītā janapadā kacci vuṭṭhi na chijjati.

6854. “Phải chăng bầy thú kéo xe của cha không có bệnh? Và phải chăng cỗ xe hoạt động tốt?Phải chăng các xứ sở được thịnh vượng? Phải chăng mưa không bị gián đoạn?”

743. - Con mong vương quốc thịnh hưng
Và toàn đất nước giang sơn an toàn,
Ðàn gia súc thật hùng cường,
Và mây mưa vẫn tuôn tràn chẳng ngưng.

6855. Atho arogaṃ yoggaṃ me atho vahati vāhanaṃ, atho phītā janapadā atho vuṭṭhi na chijjati.

6855. “Bầy thú kéo xe của cha không có bệnh, và cỗ xe hoạt động tốt. Còn các xứ sở được thịnh vượng, và mưa không bị gián đoạn.”

744. - Ồ, vương quốc vẫn thịnh hưng,
Và toàn đất nước giang sơn an toàn,
Ðàn gia súc thật hùng cường,
Và mây mưa vẫn tuôn tràn chẳng ngưng.

6856. Iccevaṃ mantayantānaṃ mātā nesaṃ adissatha, rājaputtī giridvāre pattikā anupāhanā.

6856. Trong khi hai người đang trao đổi như vậy, mẫu hậu – cũng là một công chúa, đi bộ, không giày dép – đã được nhìn thấy trong số mọi người, ở lối đi vào ngọn núi.

745. Trong khi hai vị luận bàn,
Bấy giờ lại thấy mẫu thân đến gần,
Bước vào cửa lớn thảo am,
 là hoàng hậu, chân trần sá chi.

6857. Tañca disvāna āyantiṃ mātaraṃ puttagiddhiniṃ, vessantaro ca maddī ca paccuggantvā avandisuṃ

.6857. Và sau khi nhìn thấy người mẹ ấy đang đi đến với sự mong ngóng con trai, Vessantara và Maddī đã đi ra đón tiếp và thi lễ.

746. Ves-san-ta với Mad-dì
Thấy thân mẫu, vội ra đi đón mừng,

6858. Maddī ca sirasā pāde sassuyā abhivādayi, maddī ahamhi te ayye pāde vandāmi te husā.

6858. Nàng Maddī đã đê đầu đảnh lễ hai bàn chân của mẹ chồng (nói rằng): “Thưa mẫu hậu, thần thiếp chính là Maddī, con dâu của mẫu hậu, xin đảnh lễ hai bàn chân của mẫu hậu.”Mad-dì liền chạy lại gần,
Ðặt đầu nàng xuống trước chân mẹ hiền.

6859. Maddiñca puttakā disvā dūrato sotthimāgatā, kandantā abhidhāviṃsu vacchā bālāva mātaraṃ.

6859. Và hai đứa con nhỏ, đã đi đến bình yên, sau khi nhìn thấy nàng Maddī từ đằng xa, đã khóc lóc chạy đến mẹ, tựa như hai con bê thơ dại chạy đến bò mẹ.

747. Mad-dì bất chợt nhìn lên,
Thấy hai con trẻ bình yên sờ sờ,
Như bê con thấy mẹ bò,
Chúng liền la hét thật to chào mừng.

6860. Maddī ca puttake disvā dūrato sotthimāgate, vāruṇī va pavedhentī thanadhārābhisiñcatha.

6860. Và nàng Maddī, sau khi nhìn thấy từ đằng xa hai đứa con nhỏ đã đi đến bình yên, trong lúc đang run rẩy tựa như người bị phi nhân nhập, đã tiết ra hai dòng sữa từ hai bầu vú.

748. Mad-dì thấy chúng bình an,
Như người quỷ ám, vội vàng phi thân,
Run run, bầu sữa phồng căng
Vú nàng cho các con ăn thỏa lòng.

6861. Samāgatānaṃ ñātīnaṃ mahāghoso ajāyatha, pabbatā samanādiṃsu mahī pakampitā ahu.

6861. Vào lúc các thân quyến đã gặp lại nhau, có tiếng động lớn đã sanh lên, các ngọn núi đã cùng nhau gào thét, trái đất đã bị rúng động.

749. Ngay khi thân tộc tương phùng,
Âm thanh vĩ đại liền bùng nổ ra,
Các đồi núi vọng vang xa,
Ðất bằng rung chuyển thật là mạnh thay.

6862. Vuṭṭhidhāraṃ pavecchanto devo pāvassi tāvade, atha vessantaro rājā ñātīhi samagacchatha.

6862. Trong khi ban cho đám mây mưa, trời đã đổ mưa ngay lập tức. Khi ấy, đức vua Vessantara đã gặp gỡ với các thân quyến.

750. Trời liền đem một vầng mây
Từ trên giáng xuống mưa đầy tuôn ra,
Khi quân vương Ves-san-ta
Vừa cùng tái ngộ hoàng gia của ngài.

6863. Nattāro suṇisā putto rājā devī ca ekato, yadā samāgatā āsuṃ tadāsi lomahaṃsanaṃ.

6863. Hai cháu nội, con dâu, con trai, vị đại vương, và hoàng hậu đã ở chung một nơi. Vào lúc họ gặp gỡ nhau, khi ấy, đã có sự dựng đứng lông.

751-752. Phụ vương, mẫu hậu, con trai,
Con dâu, các cháu đồng thời nơi kia.
Khi vừa sum họp một nhà,
Tóc lông dựng đứng, thịt da rợn người,

6864. Pañjalikā tassa yācanti rodantā bherave vane, vessantarañca maddiñca sabbe raṭṭhā samāgatā, tvaṃ nosi issaro rājā rajjaṃ kāretha no ubho.

6864. Tất cả dân chúng đã tụ tập lại ở khu rừng khiếp đảm, chắp tay lên hướng về vị ấy, khóc lóc, thỉnh cầu Vessantara và Maddī rằng: “Ngài là chúa tể, là đức vua của chúng tôi. Xin cả hai vị hãy trị vì xứ sở của chúng tôi.”Thần dân đồng vỗ tay hoài
Nêu cao nguyện ước một lời với vua.

753. Dân yêu cầu Ves-san-ta
Và Mad-dì, thảy cùng la vang lừng:
- Hãy làm chúa tể chúng thần,
Quốc vương, hoàng hậu, nghe dân gọi vầy!

Chakkhattiyapabbaṃ.

Đoạn Về Sáu Vị Sát-đế-lỵ.

6865. Dhammena rajjaṃ kārentaṃ raṭṭhā pabbājayittha maṃ, tvañca jānapadā ceva negamā ca samāgatā. 

(Lời đức Bồ-tát Vessantara)

6865. “Trong khi con đang trị vì xứ sở một cách công minh, cha và luôn cả dân chúng nữa, cùng các thị dân đã tụ họp lại, các người đã trục xuất con ra khỏi đất nước.”

754 . Phụ vương, quần chúng lâu nay
Dân quê, thành thị lưu đày thần nhi,
Khi con đang ngự ngai kia,
Và đang theo cách trị vì chánh chân.

6866. Dukkatañca hi no putta bhūnahaccaṃ kataṃ mayā, yohaṃ sivīnaṃ vacanā pabbājesiṃ adūsakaṃ. 

6866. “Này con trai, quả thật là điều đã làm sai trái của cha. Cha đã tạo nghiệp hủy hoại sự tiến triển. Cha đây vì lời nói của dân chúng xứ Sivi mà đã trục xuất người không tồi bại.

755. Thật là ta đã sai lầm
Khi ta làm hại con không tội này,
Vì nghe lời của dân vầy
Ta đưa đến chốn lưu đày con ta.

6867. Yena kenaci vaṇṇena pitu dukkhaṃ udabbahe, mātu bhaginiyā cāpi api pāṇehi attano. 

6867. Bằng bất cứ cách thức nào đó, thậm chí là bằng sinh mạng của mình, con nên nhấc lên nỗi khổ đau cho cha, cho mẹ, và cho cả em gái nữa.”

756. Nỗi sầu của mẹ cùng cha,
Hoặc là em gái, muốn xoa dịu dần,
Nam nhi không chút ngập ngừng
Cho dù ta phải hiến dâng cuộc đời.

6868. Tato vessantaro rājā rajojallaṃ pavāhayi, rajojallaṃ pavāhetvā saccavaṇṇaṃ adhārayi. 

6868. Sau đó, đức vua Vessantara đã cho gột rửa bụi bặm và cáu ghét. Sau khi đã cho gột rửa bụi bặm và cáu ghét, vị ấy đã trở lại vóc dáng thật sự.

757. Ðại vương, tắm rửa đến thời,
Tẩy cho sạch hết trần ai bấy giờ!Thế rồi vua Ves-san-ta
Tẩy cho thật sạch đất dơ, bụi trần.

6869. Sīsaṃ nahāto sucivattho sabbābharaṇabhūsito, paccayaṃ nāgamāruyha khaggaṃ bandhi parantapaṃ.

6869. Vị ấy đã được gội đầu, có y phục sạch sẽ, đã được tô điểm với mọi thứ trang sức, sau đó đã cỡi lên con voi Paccaya và đã buộc chặt thanh gươm là vật làm cho kẻ thù phải bực bội.

758. Ðầu vừa được gội sạch xong,
Xiêm y lộng lẫy, trang hoàng oai phong,
Ðeo vào thanh kiếm vô song,
Ngự lên bảo tượng, bạn đồng hành xưa.

6870. Tato saṭṭhisahassāni yudhino cārudassanā, sahajātā parikariṃsu nandayantā rathesabhaṃ. 

6870. Kế đến, sáu mươi ngàn chiến sĩ có dáng vẻ dễ mến, được sanh ra cùng ngày, đã vây quanh, tạo niềm vui cho đấng thủ lãnh xa binh.

759. Sáu mươi ngàn bạn ấu thơ
Ngắm xem thật đẹp, bước ra quây quần,
Nay là sáu vạn quần thần,
Thảy đều kính lễ chúa công tức thì.

6871. Tato maddimpi nāhāpesuṃ sivikaññā samāgatā, vessantaro taṃ pāletu jālīkaṇhājinā cubho, athopi taṃ mahārājā sañjayo abhirakkhatu.

6871. Sau đó, các nàng hầu của đức vua Sivi đã tụ tập lại và cũng đã tắm gội cho nàng Maddī (và chúc tụng rằng): “Mong rằng Vessantara cùng với hai con Jāli và Kaṇhājinā hãy bảo vệ cho nàng. Rồi đại vương Sañjaya cũng hãy hộ trì cho nàng.”

760. Cung nga tắm gội Mad-dì,
đồng cầu chúc vương phi vang lừng:
- Ves-san-ta bậc Ðại vương
Sañ-ja Thái thượng bảo toàn nương nương!

6872. Idañca paccayaṃ laddhā pubbe kilesamattano, ānandiyaṃ ācariṃsu ramaṇīye giribbaje.

6872. Sau khi đạt được duyên sự này và nhớ lại nỗi khó nhọc của bản thân trong quá khứ, họ đã tổ chức lễ hội ăn mừng ở trong lòng ngọn núi Vaṅka đáng yêu.

761. Thế là mọi sự phục hoàn,
Và hồi tưởng nỗi đau buồn đã qua,
Trên miền đất của nhà vua,
Nhân dân mở hội, hát ca vui mừng.

6873. Idañca paccayaṃ laddhā pubbe kilesamattano, ānandi vittā sumanā putte saṅgamma lakkhaṇā.

6873. Sau khi đạt được duyên sự này và nhớ lại nỗi khó nhọc của bản thân trong quá khứ, sau khi gặp lại các con, nàng Maddī đã vui mừng, hân hoan, hài lòng, có được khí sắc.

6874. Idañca paccayaṃ laddhā pubbe kilesamattano, ānandi vittā patītā saha puttehi lakkhaṇā.

6874. Sau khi đạt được duyên sự này và nhớ lại nỗi khó nhọc của bản thân trong quá khứ, cùng với hai con, nàng Maddī đã vui mừng, hân hoan, sung sướng, có được khí sắc.

762. Thế là mọi sự phục hoàn,
Và hồi tưởng nỗi đau buồn đã qua,
Vương phi hạnh phúc chan hòa,
Cùng đi với các con thơ lạc bầy.

6875. Ekabhattā pure āsiṃ niccaṃ thaṇḍilasāyinī, iti metaṃ vataṃ āsi tumhaṃ kāmāhi puttakā.

(Lời nàng Maddī nói với hai con)

6875. “Trước đây, mẹ đã ăn ngày một bữa, thường xuyên nằm ngủ ở nền đất. Này hai con thơ, bởi vì mong mỏi các con mà mẹ đã sự hành trì như thế.

763. - Mẹ ăn một bữa mỗi ngày,
Mẹ nằm ngủ mặt đất này trống trơn,
Ðó là nguyện ước yêu thương
Ðến khi con được vuông tròn tìm ra.

6876. Taṃ me vataṃ samiddhajja tumhe saṅgamma puttakā, ātujampi taṃ pāletu pitujampi ca puttakā,
atho pi taṃ mahārājā sañjayo abhirakkhatu.

6876. Hôm nay, sự hành trì ấy của mẹ đã được thành tựu. Này hai con thơ, mẹ đã gặp lại hai con. Này con Jāli, mong rằng hạnh phúc đã sanh lên cho mẹ và đã sanh lên cho cha hãy bảo vệ con. Và mong rằng đại vương Sañjaya cũng hộ trì con.

764-765. Lời nguyền đã đạt bây giờ,
Và nay lần nữa mẹ tha thiết cầu
Ðiều lành gì tạo bấy lâu,
Ước mong bảo hộ ngày sau con nhờ,
Và mong tổ phụ Sañ-ja
Luôn che chở các con nhà từ đây.

6877. Yaṃ kiñcitthi kataṃ puññaṃ mayhaṃ ceva pitucca te, sabbena tena kusalena ajaro tvaṃ amaro bhava. 

6877. Và có bất cứ phước báu nào đã được tạo ra thuộc về mẹ và thuộc về cha của con, do tất cả các thiện pháp ấy, mong rằng con sẽ không già và không chết.”

766. Ðiều lành gì tạo bấy nay,
Bởi thân phụ hoặc chính tay mẹ mà,
Ước mong con trẻ không già,
Nhờ chân chính, các con thơ trường tồn.

6878. Kappāsikañca koseyyaṃ khomakodumbarāni ca, sassu suṇhāya pāhesi yehi maddī asobhatha. 

6878. Mẹ chồng đã bảo mang lại cho con dâu các thứ y phục bằng bông gòn, tơ lụa, sợi len, vải xứ Kodumbara; với những thứ ấy, nàng Maddī đã chói sáng.

767. Vải bông, tơ lụa, áo quần
Thật là tuyệt mỹ, màn chăn thiếu gì,
Mẫu hoàng trao tặng Mad-dì
Làm cho sắc đẹp vương phi sáng bừng.

6879. Tato khomañca kāyūraṃ aṅgadaṃ maṇimekhalaṃ, sassu suṇhāya pāhesi yehi maddī asobhatha. 

6879. Sau đó, mẹ chồng đã bảo mang lại cho con dâu y phục bằng sợi len, vòng đeo cánh tay, vòng đeo cổ tay, đai lưng bằng ngọc ma-ni; với những thứ ấy, nàng Maddī đã chói sáng.

6880. Tato khomañca kāyūraṃ gīveyyaṃ ratanāmayaṃ, sassu suṇhāya pāhesi yehi maddī asobhatha.

6880. Sau đó, mẹ chồng đã bảo mang lại cho con dâu y phục bằng sợi len, vòng đeo cánh tay, vòng đeo cổ làm bằng ngọc quý; với những thứ ấy, nàng Maddī đã chói sáng.

768. Vòng tay, vòng cổ, vòng chân,
Mạng che trán, chiếc đai lưng trang hoàng,
Mẫu thân gửi tặng cho nàng
Làm cho nàng đẹp huy hoàng sáng tươi.

6881. Uṇṇataṃ mukhaphullañca nānāratte ca māṇiye, sassu suṇhāya pāhesi yehi maddī asobhatha.

6881. Sau đó, mẹ chồng đã bảo mang lại cho con dâu vật trang sức ở trán, tràng hoa ở bên trán, và các vòng đeo làm bằng ngọc ma-ni nhiều màu sắc; với những thứ ấy, nàng Maddī đã chói sáng.

6882. Uggatthanaṃ giṅgamakaṃ mekhalaṃ paṭipādukaṃ, sassu suṇhāya pāhesi yehi maddī asobhatha.

6882. Sau đó, mẹ chồng đã bảo mang lại cho con dâu hai vật trang sức khác nữa, thêm vào đai lưng, và vật trang sức ở bàn chân; với những thứ ấy, nàng Maddī đã chói sáng.

6883. Suttañca suttavajjañca upanijjhāya seyyasi, asobhatha rājaputtī devakaññāva nandane.

6883. Sau khi xem xét vật trang sức có kết chỉ và không có kết chỉ, rồi trang điểm, nàng Maddī là hạng nhất. Nàng công chúa đã chói sáng, tựa như các Thiên nữ ở khu vườn Nandana.

769. Và khi công chúa tuyệt vời
Ngắm nhìn châu báu sáng ngời nàng mang,
Rỡ ràng, nàng chiếu ánh quang
Khác nào các vị nữ thần Lạc Viên [*].-------------[*] Nandana: Thiên Lạc Viên ở cõi trời Ba mươi ba.

6884. Sīsaṃ nahātā sucivatthā sabbābharaṇabhūsitā, asobhatha rājaputtī tāvatiṃsāva accharā.

6884. Khi đã được gội đầu, có y phục sạch sẽ, đã được tô điểm với mọi thứ trang sức, nàng công chúa đã chói sáng, tựa như các nữ thần ở cõi Trời Đạo Lợi.

770. Với đầu tẩm ướt tóc tiên,
Nữ trang, xiêm áo ngắm nhìn đẹp tươi,
Vương phi tỏa ánh sáng ngời
Như là Thiên nữ cõi trời Băm ba.

6885. Kadalīva vātacchupitā jātā cittalatāvane, dantāvaraṇasampannā rājaputtī asobhatha.

6885. Tựa như cây chuối sanh trưởng ở khu rừng Cittalatā được va chạm bởi làn gió, nàng công chúa Maddī có đôi môi đỏ đã chói sáng.

771. Trong vườn Thiên giới Cit-ta [**]
Cây ba tiêu ngọn gió lùa nhẹ rung,
Ðôi môi công chúa tuyệt trần,
Dáng nàng khả ái như thân cây trời.------------[**] Cittalatà: Lạc Viên của Sakka ở cõi trời Ba mươi ba.

6886. Sakuṇī mānusinīva jātā cittapattā patī, nigrodhapakkabimboṭṭhī rājaputtī asobhatha. 

6886. Tựa như loài nữ nhân điểu đã được sanh ra có cặp cánh nhiều màu sắc bay lượn, nàng công chúa với cặp môi tương tự như trái bimba chín màu đỏ đã chói sáng.

772. Như chim lông đẹp sáng ngời
Lượn bay khắp mọi nẻo trời trên không,
Môi nàng xinh tựa đóa hồng,
Dung nhan làm ngẩn ngơ lòng thế nhân.

6887. Tassā ca nāgamānesuṃ nātivaddhañca kuñjaraṃ, sattikkhamaṃ sarakkhamaṃ īsādantaṃ urūḷhavaṃ. 

6887. Họ đã đem lại cho nàng ấy con voi, là con khổng tượng không quá già, chịu đựng được giáo nhọn, chịu đựng được mũi tên, có ngà như cán cày, xứng đáng để cỡi.

773. Chúng dâng voi đẹp còn xuân,
Con voi dũng mãnh oai phong hùng cường,
Không hề biết sợ giáo gươm,
Ngà dài, chẳng sợ chiến trường ba quân.

6888. Sā maddī nāgamāruyhi nātivaddhañca kuñjaraṃ, sattikkhamaṃ sarakkhamaṃ īsādantaṃ urūḷhavaṃ.

6888. Nàng Maddī ấy đã leo lên con voi, là con khổng tượng không quá già, chịu đựng được giáo nhọn, chịu đựng được mũi tên, có ngà như cán cày, xứng đáng để cỡi.

774. Nàng lên voi nọ còn xuân
Con voi dũng mãnh, oai phong hùng cường,
Không hề biết sợ giáo gươm,
Ngà dài, chẳng sợ chiến trường giao tranh.

6889. Sabbamhi taṃ araññamhi yāvantettha migā ahu, vessantarassa tejena nāññamaññamaheṭhayuṃ. 

6889. Ở toàn bộ khu rừng ấy, hết thảy các loài thú sống ở nơi này, nhờ vào oai lực của Vessantara, đã không hãm hại lẫn nhau.

775. Nhờ Ves-san chúa quang vinh,
Xuyên qua suốt dải rừng xanh bạt ngàn,
Không loài dã thú, chim muông
Làm gì hại chúng bạn, luôn làm lành...

6890. Sabbamhi taṃ araññamhi yāvantettha dijā ahu, vessantarassa tejena nāññamaññamaheṭhayuṃ. 

6890. Ở toàn bộ khu rừng ấy, hết thảy các loài chim sống ở nơi này, nhờ vào oai lực của Vessantara, đã không hãm hại lẫn nhau.

6891. Sabbamhi taṃ araññamhi yāvantettha migā ahu, ekajjhaṃ sannipatiṃsu, vessantare payātamhi sivīnaṃ raṭṭhavaḍḍhane. 

6891. Ở toàn bộ khu rừng ấy, hết thảy các loài thú sống ở nơi này đã tập trung lại một chỗ, khi Vessantara, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, xuất phát. 

776-777. Và khi ngài phải đăng trình,
Muôn loài như một đồng tình tiễn đưa,
Chim muông, dã thú gần xa,
Mọi loài trong chốn rừng già cùng nhau

6892. Sabbamhi taṃ araññamhi yāvantettha dijā ahu, kajjhaṃ sannipatiṃsu, vessantare payātamhi sivīnaṃ raṭṭhavaḍḍhane. 

6892. Ở toàn bộ khu rừng ấy, hết thảy các loài chim sống ở nơi này đã tập trung lại một chỗ, khi Vessantara, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, xuất phát.

6893. Sabbamhi taṃ araññamhi yāvantettha migā ahu,nāssu mañjūni kūjiṃsu, vessantare payātamhi sivīnaṃ raṭṭhavaḍḍhane.

6893. Ở toàn bộ khu rừng ấy, hết thảy các loài thú sống ở nơi này đã không kêu lên các tiếng kêu, khi Vessantara, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, xuất phát.

Lặng im mọi tiếng xôn xao
Khi ngài rời chốn rừng sâu lên đường.

6894. Sabbamhi taṃ araññamhi yāvantettha dijā ahu, nāssu mañjūni kūjiṃsu, vessantare payātamhi sivīnaṃ raṭṭhavaḍḍhane.

6894. Ở toàn bộ khu rừng ấy, hết thảy các loài chim sống ở nơi này đã không hót lên các tiếng hót, khi Vessantara, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, xuất phát.

6895. Paṭiyatto rājāmaggo vicitto pupphasanthato, vasi vessantaro yattha yāvatā ca jetuttarā.

6895. Con đường vua đi đã được sửa soạn, đã được trang hoàng, đã được trải bông hoa, từ nơi Vessantara đã trú ngụ cho đến kinh thành Jetuttara.

778. Ðường vua đi mới được làm,
Với muôn hoa lá trang hoàng đẹp xinh,
Từ nơi ngài ở rừng xanh
Xuôi dần đến chốn kinh thành Jet-ta.

6896. Tato saṭṭhisahassāni yudhino cārudassanā, samantā parikariṃsu, vessantare payātamhi sivīnaṃ raṭṭhavaḍḍhane.

6896. Kế đến, sáu mươi ngàn chiến sĩ có dáng vẻ dễ mến đã vây quanh khắp các nơi khi Vessantara, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, xuất phát.

779. Sáu mươi ngàn bạn ấu thơ,
Nam nhi, phụ nữ, thương gia quây quần,
Ðạo nhân trở lại quê hương
Về kinh đô tiến thẳng đường Jet-ta.

6897. Orodhā ca kumārā ca vesiyānā ca brāhmaṇā, samantā parikariṃsu, vessantare payātamhi sivīnaṃ raṭṭhavaḍḍhane.

6897. Các công nương, các hoàng tử, các thương nhân, và các vị Bà-la-môn, đã vây quanh khắp các nơi khi Vessantara, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, xuất phát.

6898. Hatthārūhā anīkaṭṭhā rathikā pattikārakā, samantā parikariṃsu, vessantare payātamhi sivīnaṃ raṭṭhavaḍḍhane.

6898. Các viên quản tượng, các ngự lâm quân, các xa binh, và các bộ binh đã vây quanh khắp các nơi khi Vessantara, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, xuất phát.

780. Nhiều người quản tượng, quản xa,
Cùng đoàn vệ sĩ hoàng gia xuất hành,
Và nhiều lữ khách, bộ binh
Thảy đồng tiến tới kinh thành Jet-ta.

6899. Samāgatā jānapadā negamā ca samāgatā, samantā parikariṃsu, vessantare payātamhi sivīnaṃ raṭṭhavaḍḍhane.

6899. Các đám đông dân chúng và các đám đông thị dân đã vây quanh khắp các nơi khi Vessantara, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, xuất phát.

6900. Karoṭiyā cammadharā khaggahatthā suvammino, purato paṭipajjiṃsu, vessantare payātamhi sivīnaṃ raṭṭhavaḍḍhane. 

6900. Các dũng sĩ đội mão tròn, mặc da thú, tay cầm gươm, mặc áo giáo đẹp, đã tiến lên phía trước khi Vessantara, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, xuất phát.

781. Chiến binh mang mão áo da,
Quân mang bào giáp sáng lòa kiếm thương,
Ðể cùng bảo vệ quân vương
Về kinh đô tiến thẳng đường Jet-ta.

6901. Te pāvisuṃ puraṃ rammaṃ bahupākāratoraṇaṃ, upetaṃ annapānehi naccagītehi cūbhayaṃ. 

6901. Họ đã tiến vào kinh thành đáng yêu, có nhiều tường thành và cổng chào, được đầy đủ cơm ăn, nước uống, với các điệu vũ và lời ca, cả hai loại.

782. Ðoàn quân vào đến thành đô,
Ðẹp xinh hào lũy, cửa ô cao vầy,
Ðàn ca múa hát vui thay,
Thức ăn thức uống đủ đầy luôn luôn

6902. Vittā jānapādā āsuṃ negamā ca samāgatā, anuppatte kumāramhi sivīnaṃ raṭṭhavaḍḍhane. 

6902. Dân chúng đã được hân hoan, các thị dân đã tụ hội lại khi vị thái tử, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, đã về đến.

783. Thần dân toàn thể hân hoan
Từ nông dân đến thị dân mọi nhà,
Chào mừng trở lại quê cha
Vương nhi danh vọng gần xa vang lừng.

6903. Celukkhepo avattittha āgate dhanadāyake, nandippavesi nagare bandhanamokkho aghosatha.

6903. Họ đã vẫy khăn chúc mừng khi vị bố thí của cải đi đến. Vị ấy đã đem đến sự vui mừng cho thành phố. Vị ấy đã công bố sự tự do khỏi sự trói buộc, giam cầm (cho tất cả chúng sanh).

784. Mọi người đều vẫy chiếc khăn
Lên không để đón ân nhân đến gần.
Bấy giờ có tiếng trống rung,
Lệnh truyền đại xá ban ân muôn loài.

6904. Jātarūpamayaṃ vassaṃ devo pāvassi tāvade, vessantare paviṭṭhamhi sivīnaṃ raṭṭhavaḍḍhane. 

6904. Trời đã lập tức đổ xuống cơn mưa bằng vàng khi Vessantara, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, đã tiến vào.

785. Khi Ves-san chúa tái hồi
Ðại vương bảo hộ mọi người Si-vi,
Trời cho mưa báu tràn trề
Ở trên đất nước là quê hương này.

6905. Tato vessantaro rājā dānaṃ datvāna khattiyo, kāyassa bhedā sappañño saggaṃ so upapajjathā ”ti.

6905. Từ đó, đức vua Vessantara, vị Sát-đế-lỵ đã ban phát vật thí. Do sự hoại rã của thân, vị có trí tuệ ấy đã tái sanh vào cõi Trời.”

786. Ves-san Vương tử rộng tay
Phát ban tặng vật đủ đầy toàn dân,
Cuối cùng ngài đã mạng chung,
Tràn đầy trí tuệ, thiên cung ngài về.

Câu chuyện 547

Mahāvessantarajātakaṃ.

Bổn Sanh Vessantara Vĩ Đại. [547]

Mahānipātavaṇṇanā niṭṭhitā.

Nhóm Lớn được hoàn tất.

JĀTAKAPĀḶI SAMATTĀ.

--ooOoo--
 BỔN SANH ĐƯỢC ĐẦY ĐỦ.

--ooOoo--



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada