4320. Mā paṇḍitiyaṃ vibhāvaya bālamato bhava sabbapāṇinaṃ, sabbo jano taṃ ocināyatu evaṃ tava attho bhavissati.

4320. “Con chớ tỏ ra sáng suốt, hãy tỏ ra ngu khờ trước tất cả chúng sanh, hãy để tất cả mọi người xem thường con; như vậy, sẽ có sự lợi ích cho con.”

1. Con ơi, đừng lộ trí thông minh,
Cứ giả ngu đần trước chúng sinh,
Hãy chịu khinh khi từ tất cả,
Cuối cùng con đạt đến quang minh.

4321. Karomi te taṃ vacanaṃ yaṃ maṃ bhaṇasi devate, atthakāmāsi me amma hitakāmāsi devate.

 4321. “Thưa nữ thần, con sẽ làm theo lời nói ấy của mẹ, theo điều mẹ nói với con. Thưa mẹ, mẹ có lòng mong muốn lợi ích cho con, mẹ có lòng mong mỏi sự tốt đẹp cho con, thưa nữ thần.”

2. Con sẽ làm theo ý nữ thần,
Những lời mẹ dạy quý vô ngần,
Mẹ hiền ước muốn con an lạc,
Mẹ chỉ mong con hưởng phước ân.

4322. Kinnu santaramānova kāsuṃ khaṇasi sārathi, puṭṭho me samma akkhāhi kiṃ kāsuyā karissasi.

4322. “Này người đánh xe, việc gì mà ông vội vã đào cái hố vậy? Được ta hỏi, này ông bạn, ông hãy giải thích cho ta, ông sẽ làm gì với cái hố?”

3. Sao chú lái xe lại vội vàng
Bới đào hố nọ ở bên đàng,
Trả lời câu hỏi ta thành thật:
Ngươi muốn làm gì hố ấy chăng?

4323. Rañño mūgo ca pakkho ca putto jāto acetaso, somhi raññā samajjhiṭṭho puttaṃ me nikhaṇaṃ vane.

4323. “Người con trai đã được sanh ra của đức vua là bị câm, què, và ngớ ngẩn. Tôi đây được đức vua ra lệnh: ‘Khanh có thể vùi lấp đứa con trai của trẫm ở khu rừng.’”

4. Chúa thượng của ta thấy thiếu nhi
Bi què, câm, điếc, thật ngu si,
Nên ta được lệnh đi đào hố
Chôn bỏ chàng cho rảnh mắt đi.

4324. Na badhiro na mūgosmi na pakkho napi paṅgulo, adhammaṃ sārathi kayirā maṃ ce tvaṃ nikhaṇaṃ vane.

4324. “Ta không bị điếc, không bị câm, không bị què, cũng không bị khuyết tật. Này người đánh xe, ngươi sẽ tạo ra điều phi pháp nếu ngươi vùi lấp ta ở khu rừng.

5. Hiền hữu, ta không bị điếc câm,
Và ta cũng chẳng bị què chân,
Nếu chôn ta ở trong rừng rậm,
Ngươi sẽ phạm vào tội sát nhân.

4325. Ūrū bāhū ca me passa bhāsitañca suṇohi me, adhammaṃ sārathi kayirā maṃ ce tvaṃ nikhaṇaṃ vane.

4325. Ngươi hãy nhìn xem hai bắp đùi và hai cánh tay của ta. Ngươi hãy lắng nghe lời nói của ta. Này người đánh xe, ngươi sẽ tạo ra điều phi pháp nếu ngươi vùi lấp ta ở khu rừng.”

6. Hãy ngắm tay chân đây của ta,
Và nghe giọng nói thốt lời ra:
Ngươi sẽ, hôm nay, mang trọng tội
Nếu chôn ta ở chốn rừng già.

4326. Devatā nusi gandhabbo ādu sakko purindado, ko vā tvaṃ kassa vā putto kathaṃ jānemu taṃ mayaṃ.

4326. “Phải chăng ngài là vị Thiên nhân, là vị Càn-thát-bà, hay là Thiên Chủ Sakka, vị đã bố thí trước đây? Ngài là ai, hay ngài là con của người nào? Làm thế nào chúng tôi có thể biết về ngài?”

7. Chàng là nhạc sĩ hoặc Thiên thần,
Hay chính Sak-ka Thiên chủ chăng?
Xin nói là con ai đấy nhỉ,
Tên gì ta sẽ gọi danh xưng?

4327. Namhi devo na gandhabbo napi sakko purindado, kāsirañño ahaṃ putto yaṃ kāsuyā nighaññasi.

4327.  “Ta không phải là Thiên nhân, không phải là Càn-thát-bà, cũng không phải là Thiên Chủ Sakka, vị đã bố thí trước đây. Ta là con trai của đức vua xứ Kāsi, là người mà ngươi sẽ vùi lấp trong cái hố.

8. Chẳng là nhạc sĩ hoặc Thiên thần,
Cũng chẳng Sak-ka, đấng Ngọc hoàng,
Ta chính Kà-si vương tử ấy
Ngươi đem chôn sống thật hung tàn.

4328. Tassa rañño ahaṃ putto yaṃ tvaṃ samupajīvasi, adhammaṃ sārathi kayirā maṃ ce tvaṃ nikhaṇaṃ vane.  

4328. Ta là con trai của đức vua của ngươi, vị vua mà ngươi sống nương tựa. Này người đánh xe, ngươi sẽ tạo ra điều phi pháp nếu ngươi vùi lấp ta ở khu rừng.

9. Ta chính con vua triều đại này
Ngươi đang phục vụ hiển. vinh thay,
Nếu đem ta đến đây chôn sống,
Ngươi sẽ phạm vào trọng tội ngay.

329. Yassa rukkhassa chāyāya nisīdeyya sayeyya vā, na tassa sākhaṃ bhañjeyya mittadūbho hi pāpako.  

4329. Người ngồi hoặc nằm ở bóng râm của cây nào thì không nên bẻ gãy cành lá của cây ấy, bởi vì kẻ phản bội bạn bè là kẻ ác xấu.

10. Nếu dưới gốc cây, ta nghỉ chân,
Tàn cây đổ bóng để che thân,
Ta không bẻ một cành dù nhỏ,
Chỉ kẻ ác làm hại bạn thân.

4330. Yathā rukkho tathā rājā yathā sākhā tathā ahaṃ. yathā chāyūpago poso evaṃ tvamasi sārathi, adhammaṃ sārathi kayirā maṃ ce tvaṃ nikhaṇaṃ vane.

4330. Đức vua ví như thân cây, ta ví như cành lá, còn ngươi được ví như người đi đến bóng râm. Này người đánh xe, ngươi sẽ tạo ra điều phi pháp nếu ngươi vùi lấp ta ở khu rừng.

11. Cây che chỗ ấy chính là vua,
Ta chính là cành lá tỏa ra,
Ngươi lái xe là người lữ khách
Nằm ngồi ở dưới bóng cây mà.
Tội to giáng xuống đầu ngươi đó,
Nếu ở rừng này chôn sống ta.

4331. Pahūtabhakkho bhavati vippavuttho sakāgharā, bahū naṃ upajīvanti yo mittānaṃ na dūbhati.  

4331. Người nào không phản bội các bạn bè, dầu sống xa lìa căn nhà của mình, vẫn có dồi dào thức ăn; nhiều người chu cấp cho vị ấy.

12. Một kẻ trung thành với bạn thân,
Dù đi phiêu bạt khắp xa gần,
Nhiều người hoan hỷ đem cung phụng
Thực phẩm tất nhiên được hiến dâng.

4332. Yaṃ yaṃ janapadaṃ yāti nigame rājadhāniyo, sabbattha pūjito hoti yo mittānaṃ na dūbhati.  

4332. Người nào không phản bội các bạn bè, khi đi đến xứ sở này xứ sở nọ, các thị trấn, các kinh thành, đều được tôn vinh ở khắp mọi nơi.

13. Dù đất nước nào phiêu bạt qua,
Kinh thành, thị trấn khắp gần xa,
Kẻ nào chung thủy cùng bằng hữu
Cũng được vinh quang danh vọng mà.

4333. Nāssa corā pasahanti nātimaññeti khattiyo, sabbe amitte tarati yo mittānaṃ na dūbhati.  

4333. Người nào không phản bội các bạn bè, các kẻ cướp không áp bức vị này, các vị Sát-đế-lỵ không khi dễ; vị ấy vượt qua tất cả những kẻ thù.

14. Không đạo tặc nào dám tổn thương,
Cũng không võ tướng dám khinh nhờn,
Người nào trung tín cùng bằng hữu
Sẽ thoát khỏi bao kẻ oán hờn.

4334. Akkuddho sagharaṃ eti sabhāya paṭinandito, ñātīnaṃ uttamo hoti yo mittānaṃ na dūbhati.

4334. Người nào không phản bội các bạn bè, vị ấy đi về nhà mình không bị nóng giận, được đón mừng ở hội chúng, là vị tốt nhất trong các thân quyến.

15. Người ấy hoàn hương, thảy đón chào,
Lòng không mòn mỏi với ưu sầu;
Kẻ nào chung thủy cùng bằng hữu
Giữa đám bà con, đệ nhất cao.

4335. Sakkatvā sakkato hoti garu hoti sagāravo, vaṇṇakittibhato hoti yo mittānaṃ na dūbhati.

4335. Người nào không phản bội các bạn bè, vị ấy tôn trọng kẻ khác và được kẻ khác tôn trọng, được kẻ khác kính trọng và có sự kính trọng kẻ khác; vị ấy có được sự ca ngợi và tiếng tăm.

16. Tôn vinh người, lại được tôn vinh,
Ðược kính trọng và đáp thịnh tình.
Một kẻ trung thành cùng bạn hữu
Nhận phần vinh hiển khắp quần sinh.

4336. Pūjako labhate pūjaṃ vandako paṭivandanaṃ, yaso kittiñca pappoti yo mittānaṃ na dūbhati.

4336. Người nào không phản bội các bạn bè là vị tôn vinh kẻ khác và nhận được sự tôn vinh, là vị cúi chào và nhận được sự cúi chào lại; vị ấy đạt được danh vọng và tiếng tăm.

17. Người nào biết quý trọng người đời,
Sẽ được mọi người quý trọng thôi;
Một kẻ trung thành cùng bạn hữu
Phần mình được tiếng tốt cao vời.

4337. Aggi yathā pajjalati devatāva virocati, siriyā ajahito hoti yo mittānaṃ na dūbhati.

4337. Người nào không phản bội các bạn bè, giống như ngọn lửa cháy sáng, tựa như vị Thiên nhân chói sáng, vị ấy không bị suy giảm sự vinh quang.

18. Kẻ ấy giống như lửa cháy bừng
Tỏa ra ánh sáng tựa Thiên thần,
Người nào trung tín cùng bằng hữu
Chiếu ánh huy hoàng rực rỡ luôn.

4338. Gāvo tassa pajāyanti khette vuttaṃ virūhati, vuttānaṃ phalamasnāti yo mittānaṃ na dūbhati.

4338. Người nào không phản bội các bạn bè, trâu bò của vị ấy sinh sôi, hạt đã gieo xuống mọc lên ở cánh đồng, vị ấy hưởng thụ kết quả của các thứ đã được gieo trồng.

19. Trâu bò tăng trưởng thật là nhanh,
Hạt giống thường xuyên mọc tốt lành;
Một kẻ trung thành cùng bạn hữu
Tất nhiên gặt hái mọi công thành.

4339. Darito pabbatāto vā rukkhāto patito naro, cuto patiṭṭhaṃ labhati yo mittānaṃ na dūbhati.  

4339. Người nào không phản bội các bạn bè, nếu bị rơi xuống từ vực thẳm, từ ngọn núi, hoặc từ cây cối, chết đi thì đạt được nơi an toàn.

20. Nếu bị rơi từ đỉnh núi cao,
Hoặc từ cây cối hoặc hang hào,
Người nào chung thủy cùng bằng hữu
Cũng thấy đất bằng vững chắc sao.

4340. Virūḷhamūlasantānaṃ nigrodhamiva māluto, amittā nappasahanti yo mittānaṃ na dūbhati.

4340. Người nào không phản bội các bạn bè, các kẻ thù không áp bức vị ấy, tựa như làn gió không lay chuyển được cây đa có rễ ở gốc và rễ ở cành được phát triển.”

21. Cây đa thách đố mọi cuồng phong
Cành lá mọc quanh gốc rễ chung,
Kẻ biết trung thành cùng bạn hữu,
Oán hờn cừu địch thảy tiêu vong.

4341. Ehi taṃ paṭinessāmi rājaputta sakaṃ gharaṃ, rajjaṃ kārehi bhaddante kiṃ araññe karissasi.  

4341. “Thưa hoàng tử, ngài hãy đến, tôi sẽ đưa ngài về lại căn nhà của ngài. Thưa tôn đức, ngài hãy trị vì vương quốc. Ở rừng, thì ngài sẽ làm gì?”

22. Ðến đây, này hỡi vị Vương gia,
Tôi sẽ xin đưa trở lại nhà,
Ngài ngự ngai vàng và trị nước,
Sao còn thơ thẩn chốn rừng già?

4342. Alaṃ me tena rajjena ñātakehi dhanena vā, yaṃ me adhammacariyāya rajjaṃ labbhetha sārathi.  

4342. “Quá đủ cho ta với vương quốc, với các thân quyến, hay tài sản! Này người đánh xe, vương quốc được nhận lãnh là do sự thực hành phi pháp của ta (trong tiền kiếp).”

23. Ta không màng của cải, ngai vàng,
Chẳng thiết bạn thân hoặc họ hàng,
Vì chính ngôi vua ta đã đạt
Là do những ác nghiệp ta làm.

4343. Puṇṇapattaṃ palabbhehi rājaputta ito gato, pitā mātā ca me dajjuṃ rājaputta tayī gate.

4343. “Thưa hoàng tử, ngài sẽ được nhận lãnh bát rượu đầy khi trở về từ nơi này. Thưa hoàng tử, phụ vương và mẫu hậu sẽ ban thưởng cho tôi khi ngài về đến.

24. Chén rượu đón mừng, Thái tử ôi,
Ðược người chuẩn bị để chờ ngài,
Phụ vương, mẫu hậu đầy hoan hỷ
Sẽ tặng nhiều quà cho chính tôi.

4344. Orodhā ca kumārā ca vesiyānā ca brāhmaṇā, tepi attamanā dajjuṃ rājaputta tayī gate.

4344. Các cung phi, các vương tử, các thương nhân, và các vị Bà-la-môn, bọn họ, được hoan hỷ, cũng sẽ ban thưởng (cho tôi) khi ngài về đến, thưa hoàng tử.

25. Cung phi, mỹ nữ các vương gia,
Vệ xá, Bà-la-môn, mọi nhà,
Trong nỗi hân hoan đầy trọn vẹn,
Sẽ cho tôi hưởng thật nhiều quà.

4345. Hatthārūhā aṇīkaṭṭhā rathikā pattikārakā, tepi dajjuṃ patītā me rājaputta tayī gate.

4345. Các viên quản tượng, các ngự lâm quân, các xa binh, và các bộ binh, bọn họ, được hài lòng, cũng sẽ ban thưởng cho tôi khi ngài về đến, thưa hoàng tử.

26. Các vị cỡi voi, cỡi mã xa,
Bộ binh, vệ sĩ của hoàng gia
Sẽ cho tôi hưởng nhiều quà tặng
Khi Thái tử quay trở lại nhà.

4346. Bahū jānapadā caññe negamā ca samāgatā, upāyanāni me dajjuṃ rājaputta tayī gate.

4346. Nhiều cư dân khác và các thị dân sẽ tụ hội lại; họ sẽ ban thưởng các tặng phẩm cho tôi khi ngài về đến, thưa hoàng tử.”

27. Thần dân thành thị đến thôn quê
Tụ tập mừng vui, mở hội hè,
Sẽ tặng cho tôi nhiều lễ vật,
Khi nhìn Thái tử đã quay về.

4347. Pitumātu cahaṃ catto raṭṭhassa nigamassa ca, atho sakya kumārānaṃ natthi mayhaṃ sakaṃ gharaṃ.

4347. “Ta đã bị phụ vương và mẫu hậu từ bỏ. Đối với đất nước, phố chợ, và các vương tử dòng Sakya, ta không có căn nhà của bản thân.

28. Ta bị bỏ rơi bởi mẹ cha,
Kinh thành, thị trấn ờ gần xa,
Vương tôn bỏ mặc ta đành phận,
Ta chẳng có nhà của chính ta.

4348. Anuññāto ahaṃ matyā sañcatto pitarā ahaṃ, eko araññe pabbajito na kāme abhipatthaye.

4348. Ta được mẫu hậu cho phép, ta bị phụ vương từ bỏ hẳn. Một mình ở trong rừng, ta đã xuất ly, ta không mong cầu về ngũ dục.

29. Mẫu hậu của ta cho phép đi,
Phụ vương cũng bỏ mặc hoàng nhi,
Trong rừng hoang vắng này đơn độc,
Ẩn sĩ ta nguyền hạnh xuất ly.

4349. Api ataramānānaṃ phalāsāva samijjhati, vipakkabrahmacariyosmi evaṃ jānāhi sārathi.

4349. Kết quả mong muốn được thành tựu cho những người không vội vã. Ta có Phạm hạnh đã được thuần thục, này người đánh xe, ngươi hãy biết như thế.

30. Cũng giống những ai chẳng vội vàng
Ðạt thành nguyện ước của tâm can,
Quản xa hãy biết, hôm nay nhé,
Thánh hạnh ta thành đạt vẹn toàn.

4350. Api ataramānānaṃ sammadatthā vipaccati, vipakkabrahmacariyosmi nikkhanto akutobhayo.  

4350. Thêm nữa, mục đích chân chánh được thành tựu cho những người không vội vã. Ta có Phạm hạnh đã được thuần thục, ta đã xuất ly, không có sự sợ hãi từ bất cứ đâu.”

31. Cũng giống những ai chẳng bước nhanh,
Tối cao cứu cánh được viên thành,
Ta đi, đầy đủ tâm thanh tịnh
Hoàn thiện, sợ gì giữa chúng sinh.

4351. Evaṃ vaggukatho santo vissaṭṭhavacano casi, kasmā pitucca mātucca santike na bhaṇī tadā.  

4351. “Ngài trầm tĩnh, có lời giải thích ngọt ngào, và còn có lời nói sang sảng. Tại sao khi ở gần phụ vương và mẫu hậu, ngài đã không nói vào lúc ấy?”

32. Những lời ngài nói thật êm tai,
Chân thật, sáng trong, lý lẽ ngài,
Tại sao thuở trước đành câm lặng
Khi thấy song thân ở cạnh hoài?

4352. Nāhaṃ asatthitā pakkho na badhiro asotatā, nāhaṃ ajivhatā mūgo mā maṃ mūgamadhārayi.  

4352. “Ta không bị què do tình trạng thiếu xương, không bị điếc d0 không thể nghe, không bị câm do không có lưỡi. Chớ nghĩ rằng ta bị câm.

33. Ta chẳng què vì thiếu khớp xương,
Cũng không điếc bởi thiếu tai thường,
Cũng không câm lặng vì không lưỡi,
Như dáng ta nay hiện rõ ràng.

4353. Purimaṃ sarāmahaṃ jātiṃ yattha rajjamakārayiṃ, kārayitvā tahiṃ rajjaṃ pāpatthaṃ nirayaṃ bhusaṃ.  

4353. Ta nhớ lại kiếp sống trước đây, tại nơi ấy ta đã trị vì đất nước. Sau khi trị vì đất nước tại nơi ấy, ta đã rơi vào địa ngục nhiều lần. 

34. Ta vẫn nhờ rành một kiếp xưa,
Trong tiền thân ấy được làm vua
Nhưng từ ngôi báu, ta rơi xuống
Ta thấy mình trong chốn ngục tù.

4354. Vīsatiñceva vassāni tahiṃ rajjamakārayiṃ, asītivassasahassāni nirayamhi apaccisaṃ.  

4354. Ta đã trị vì đất nước ở nơi ấy đúng hai mươi năm, rồi đã bị nung nấu ở địa ngục đến tám mươi ngàn năm.

35. Hai mươi năm sống cảnh xa hoa
Trên chiếc ngai vàng chỉ thoáng qua,
Nhưng tám mươi ngàn năm địa ngục,
Ta đền tội ác đã gây ra.

4355. Tassa rajjassahaṃ bhīto mā maṃ rajjābhisecayuṃ, tasmā pitucca mātucca santike na bhaṇiṃ tadā.  

4355. Ta khiếp sợ vương quyền ấy, (nghĩ rằng): ‘Chớ để họ làm lễ phong vương cho ta.’ Vì thế, khi ở gần phụ vương và mẫu hậu, ta đã không nói vào lúc ấy.

36. Dư vị hoàng gia thuở đã qua
Làm kinh hãi ngập cả tâm ta,
Cho nên ta phải đành câm lặng
Dù thấy gần bên cạnh mẹ cha.

4356. Ucchaṅge maṃ nisīdetvā pitā atthānusāsati, ekaṃ hanatha bandhatha ekaṃ khārāpatacchikaṃ, ekaṃ sūlasmiṃ appetha iccassamanusāsati.  

4356. Sau khi đặt ta ngồi ở trong lòng, phụ vương chỉ dạy ta về mục đích: ‘Con hãy giết chết, hãy giam cầm một người, hãy bôi chất kiềm vào vết thương của một người, hãy đặt một người ở trên cọc nhọn,’ phụ vương chỉ dạy mục đích là như vậy.

37. Phụ vương bồng bế trẻ vào lòng,
Nhưng giữa lúc đùa giỡn thiết thân,
Nghe lệnh vua ban đầy khắc nghiệt:
"Tức thì giết kẻ đại cường gian,
Hãy cưa xẻ nó ra từng mảnh,
Ðóng cọc tên kia chờ muộn màng".

4357. Tassāhaṃ pharusaṃ sutvā vācāyo samudīritā, amūgo mūgavaṇṇena apakkho pakkhasammato, sake muttakarīsasmiṃ acchāhaṃ samparipluto.

4357. Sau khi đã nghe những lời nói được thốt ra một cách thô bạo của phụ vương, không bị câm ta với vẻ như câm, không bị què ta được xem là què; ta đã sống, bị đắm chìm trong nước tiểu và phân của chính mình.

38. Nghe lời hăm dọa thật kinh hồn,
Ta cố làm què lại điếc câm,
Lăn lóc trong bùn nhơ khốn khổ,
Làm người ngu dại cũng đành phần.

4358. Kasirañca parittañca tañca dukkhena saṃyutaṃ, ko taṃ jīvitamāgamma veraṃ kayirātha kenaci.

4358. Cuộc sống ấy là nhọc nhằn, nhỏ nhoi, và bị gắn liền với khổ đau; vì cuộc sống ấy, người nào lại có thể tạo ra sự thù hận vì bất cứ lý do nào?

39. Biết rõ cuộc đời ngắn ngủi thay,
Sầu bi khổ não lại tràn đầy,
Ai vì đời sống mà khơi dậy
Sân hận cho người khác khổ lây?

4359. Paññāya ca alābhena dhammassa ca adassanā, ko taṃ jīvitamāgamma veraṃ kayirātha kenaci.

4359. Do không đạt được trí tuệ và không nhìn thấy Thánh pháp; vì cuộc sống ấy, người nào lại có thể tạo ra sự thù hận vì bất cứ lý do nào?

40. Ai vì đời sống hại tha nhân,
Ðể mặc cho mình trút hận sân,
Vì muốn dành quyền cầm chánh lý
Và mù quáng trước lẽ công bằng?

4360. Api ataramānānaṃ phalāsāva samijjhati, vipakkabrahmacariyosmi evaṃ jānāhi sārathi.

4360. Kết quả mong muốn được thành tựu cho những người không vội vã. Ta có Phạm hạnh đã được thuần thục, này người đánh xe, ngươi hãy biết như thế.

4361. Api ataramānānaṃ sammadattho vipaccati, vipakkabrahmacariyosmi nikkhanto akutobhayo.  

4361. Thêm nữa, mục đích chân chánh được thành tựu cho những người không vội vã. Ta có Phạm hạnh đã được thuần thục, ta đã đi ra khỏi (nhà), không có sự sợ hãi từ bất cứ đâu.”

4362. Ahampi pabbajissāmi rājaputta tavantike, avhayassu maṃ bhaddante pabbajjā mama ruccati.

4362. “Tôi cũng sẽ xuất gia trong sự chứng minh ngài, thưa hoàng tử. Thưa tôn đức, xin ngài hãy gọi tôi. Việc xuất gia được tôi ưa thích.”

41. Tôi cũng ước mong chọn cuộc đời
Của người khổ hạnh ở cùng ngài,
Xin ngài hãy gọi tôi, Vương tử,
Ẩn sĩ, như ngài muốn vậy thôi.

4363. Rathaṃ niyyādayitvāna anaṇo ehi sārathi, anaṇassa hi pabbajjā etaṃ isīhi vaṇṇitaṃ.

4363. “Ngươi hãy đem trả lại cỗ xe, ngươi hãy là người không nợ nần, này người đánh xe. Bởi vì, việc xuất gia là dành cho người không nợ nần; điều này được các bậc ẩn sĩ ca ngợi.”

42. Trước tiên đem trả lại vương xa,
Ngươi chẳng phải người được tự do,
Trả nợ trước tiên, đời vẫn bảo,
Rồi sau nguyền khổ hạnh ly gia.

4364. Yadeva tyāhaṃ vacanaṃ akaraṃ bhaddamatthu te, tadeva me tvaṃ vacanaṃ yācito kattumarahasi.

4364. “Hãy để tôi làm theo lời nói của ngài; việc như vậy là tốt đẹp cho ngài. Được tôi yêu cầu, xin ngài hãy thực hiện lời nói của tôi.

43. Vì lẽ tôi theo lệnh của ngài,
Thỉnh cầu Vương tử hãy nghe tôi,
Xin ngài hãy rộng lòng hoan hỷ
Làm những việc tôi sẽ mở lời:

4365. Idheva tāva acchassu yāva rājānamānaye, appeva te pitā disvā patīto sumano siyā.

4365. Xin ngài hãy ở lại ngay tại chỗ này đến khi nào tôi đưa đức vua lại. Có lẽ sau khi nhìn thấy ngài, phụ thân của ngài sẽ mừng rỡ, hài lòng.”

44. Xin hãy làm ơn nán lại chờ
Ðến khi tôi thỉnh được vương gia,
Phụ vương sẽ ngập tràn hoan hỷ
Nhìn thấy dung nhan Vương tử mà.

4366. Karomi te taṃ vacanaṃ yaṃ maṃ bhaṇasi sārathi, ahampi daṭṭhukāmosmi pitaraṃ me idhāgataṃ.

4366. “Này người đánh xe, hãy để ta làm theo lời nói của ngươi, theo điều ngươi nói với ta. Ta cũng muốn nhìn thấy phụ vương của ta đi đến nơi này.  

45. Mong được như ngươi nói, quản xa,
Ta đây hoan hỷ gặp vua cha,
Mau đi chào hỏi toàn gia tộc,
Ðặc biệt vấn an cha mẹ ta.

4367. Ehi samma nivattassu kusalaṃ vajjāsi ñātīnaṃ, mātaraṃ pitaraṃ mayhaṃ vutto vajjāsi vandanaṃ.

4367. Này ông bạn, ngươi hãy đi, hãy quay trở về. Ngươi hãy nói lời chúc lành đến các thân quyến. Ngươi hãy lập lại lời đảnh lễ của ta đến mẫu hậu và phụ vương.”

4368. Tassa pāde gahetvāna katvā ca naṃ padakkhiṇaṃ, sārathi rathamāruyha rājadvāraṃ upāgami.

4368. Sau khi sờ lấy hai bàn chân của vị hoàng từ và đi nhiễu quanh vị ấy, người đánh xe đã leo lên cỗ xe rồi đi đến cánh cổng của hoàng cung.

46. Rồi gã quản xa dậm bước chân
Tỏ lòng cung kính thật ân cần,
Bắt đầu công cuộc hành trình ấy
Như mệnh lệnh ban của chủ nhân.

4369. Suññaṃ mātā rathaṃ disvā ekaṃ sārathimāgataṃ, assupuṇṇehi nettehi rodantī naṃ udikkhati.

4369. Mẫu hậu, sau khi nhìn thấy cỗ xe trống không và một mình người đánh xe trở về, trong khi than khóc với đôi mắt đẫm lệ, đã quan sát gã ấy, (nói rằng):

47. Khi thấy một mình gã quản xa,
Chiếc xe trống vắng, chợt nhìn ra,
Tâm hồn tràn ngập niềm lo sợ,
Mắt mẹ hiền dâng lệ ướt nhòa:

4370. Ayaṃ so sārathi eti nihantvāna mamatrajaṃ, nihato nūna me putto pathavyā bhūmivaddhano.

4370. “Gã đánh xe ấy trở về sau khi đã giết chết con trai của ta. Đứa con trai của ta chắc chắn đã bị giết chết, và quả địa cầu có thêm lớp đất.

48. Người quản xa kia mới trở về,
Con ta bị giết ở đằng kia,
Rừng hoang hiu quạnh con nằm đó,
Ðất lại hòa cùng đất phủ che.

4371. Amittā nūna nandanti patītā nūna verino, āgataṃ sārathiṃ disvā nihantvāna mamatrajaṃ.  

4371. Những kẻ thù có sự kết oán, nhìn thấy gã đánh xe ấy trở về sau khi đã giết chết con trai của ta, chắc chắn sẽ vui mừng, chắc chắn được hớn hở.”

49-50. Cừu nhân cực ác sẽ hân hoan
Thấy kẻ sát nhân được vạn an,

4372. Suññaṃ mātā rathaṃ disvā ekaṃ sārathimāgataṃ, assupuṇṇehi nettehi rodantī paripucchati.

4372. Mẫu hậu, sau khi nhìn thấy cỗ xe trống không và một mình người đánh xe trở về, trong khi than khóc với đôi mắt đẫm lệ, đã hỏi han rằng:

4373. Kinnu mūgo kinnu pakkho kinnu so vilapī tadā, nihaññamāno bhūmiyā taṃ me akkhāhi sārathi.

4373. “Hoàng tử có bị câm chăng, có bị què chăng, nó đã than van điều gì vào lúc ấy, trong khi bị giết chết ở trên mặt đất? Này người đánh xe, ngươi hãy kể lại điều ấy cho ta.

Câm điếc, lại què chân, thử hỏi,
Làm sao con cất tiếng kêu van,
Nằm trên nền đất bơ vơ quá,
Con chiến đấu sao với sức tàn?

4374. Kathaṃ hatthehi pādehi mūgo pakkho vivajjayi, nihaññamāno bhūmiyā taṃ me akkhāhi pucchito.  

4374. Đứa con trai câm và què của ta đã tránh né với các bàn tay và bàn chân như thế nào, trong khi bị giết chết ở trên mặt đất? Này người đánh xe, ngươi hãy kể lại điều ấy cho ta.”

51. Tay chân con chẳng đủ công năng
Xô đẩy ngươi ra để thoát thân,
Trong lúc nằm trên nền đất lạnh,
Mặc dù câm điếc lại què chân?

4375. Akkhissaṃ te ahaṃ ayye dajjāsi abhayaṃ mama, yaṃ me sutaṃ vā diṭṭhaṃ vā rājaputtassa santike.

4375. “Tâu lệnh bà, nếu lệnh bà ban cho thần sự bình an, thần sẽ kể lại cho lệnh bà về điều thần đã được nghe, hoặc đã được thấy khi ở bên cạnh hoàng tử.”

52. Lệnh bà, xin thứ tội cho tôi,
Xin để cho tôi được mở lời,
Tôi sẽ kể bà nghe tất cả
Những gì tôi đã thấy nghe rồi.

4376. Abhayaṃ samma te dammi abhīto bhaṇa sārathi, yaṃ te sutaṃ vā diṭṭhaṃ vā rājaputtassa santike.

4376. “Này khanh, ta ban cho ngươi sự bình an. Này người đánh xe, chớ khiếp sợ, ngươi hãy nói về điều ngươi đã được nghe, hoặc đã được thấy khi ở bên cạnh hoàng tử.”

53. Ta nay hứa thứ tội cho ngươi,
Ta để cho ngươi được mở lời,
Hãy kể cho ta nghe tất cả
Những gì ngươi đã thấy nghe rồi.

4377. Na so mūgo na so pakkho vissaṭṭhavacanova so, rajjassa kira so bhīto akarī ālaye bahū.

4377. “Vị ấy không bị câm, vị ấy không bị què, vị ấy còn có lời nói sang sảng. Nghe nói ngài khiếp sợ vương quyền nên đã làm nhiều việc giả vờ.

54. Ngài không câm điếc, chẳng què chân,
Giọng nói ngài trôi chảy, sáng trong,
Ngài đóng vai trò kia giả dạng
Bởi vì ngài sợ chốn vương cung.

4378. Purimaṃ sarati so jātiṃ yattha rajjamakārayi, kārayitvā tahiṃ rajjaṃ pāpattha nirayaṃ bhusaṃ.

4378. Vị ấy nhớ lại kiếp sống trước đây, tại nơi ấy ngài đã trị vì đất nước, sau khi trị vì đất nước tại nơi ấy, ngài đã rơi vào địa ngục nhiều lần.

55. Ngài vẫn nhờ rành một kiếp xưa,
Trong tiền thân ấy được làm vua,
Nhưng từ ngôi báu, ngài rơi xuống
Ngài thấy mình trong chốn ngục tù.

4379. Vīsatiñceva vassāni tahiṃ rajjamakārayi, asītivassasahassāni nirayamhi apacci so.

4379. Vị ấy đã trị vì đất nước ở nơi ấy đúng hai mươi năm, rồi đã bị nung nấu ở địa ngục đến tám mươi ngàn năm.

56. Hai mươi năm sống cảnh xa hoa
Trên chiếc ngai vàng chỉ thoáng qua,
Nhưng tám mươi ngàn năm địa ngục
Ngài đền tội ác đã gây ra.

4380. Tassa rajjassa so bhīto mā maṃ rajjābhisecayuṃ, tasmā pitucca mātucca santike na bhaṇī tadā.

4380. Vị ấy bị khiếp sợ vương quyền ấy, (nghĩ rằng): ‘Chớ để họ làm lễ phong vương cho ta.’ Vì thế, khi ở gần phụ vương và mẫu hậu, vị ấy đã không nói vào lúc ấy.

57. Dư vị hoàng gia một thuở xưa
Làm ngài kinh hãi ngập tâm tư,
Cho nên ngài phải đành câm lặng
Dù thấy gần bên cạnh mẹ cha.

4381. Aṅgapaccaṅgasampanno ārohapariṇāhavā, vissaṭṭhavacano pañño magge saggassa tiṭṭhati.

4381. Được đầy đủ các bộ phận thân thể, có chiều cao và bề ngang, có lời nói sang sảng, có trí tuệ, hoàng tử đứng ở đạo lộ đi đến cõi Trời.

58. Thân thể ngài nay được kiện toàn,
Cao sang tuyệt mỹ, dáng hùng cường,
Giọng ngài trong sáng, tâm minh mẫn,
Ngài chọn đời thanh tịnh bước đường.

4382. Sace tvaṃ daṭṭhukāmāsi rājaputti tavatrajaṃ, ehi taṃ pāpayissāmi yattha sammati temiyo.

4382. Nếu lệnh bà mong muốn nhìn thấy con trai của lệnh bà, tâu hoàng hậu, xin lệnh bà hãy ra lệnh đi đến nơi hoàng tử Temiya cư ngụ.”

59. Nếu lệnh bà mong muốn gặp con,
Tức thì hãy đến đó cùng thần,
Ngắm nhìn Vương tử Te-my ấy
An tịnh, thong dong thật vẹn toàn.

4383. Yojayantu rathe asse kacchaṃ nāgāna bandhatha, udīrayantu saṅkhapaṇavā vadantu ekapokkharā.

4383. “Các khanh hãy thắng các con ngựa vào các cỗ xe, hãy buộc dây đai cho các con voi, hãy khua vang các trống con và các tù và vỏ ốc, hãy làm vang lên các chiếc trống một mặt.

60. Thắng đủ ngựa vào các cỗ xe,
Buộc cân đai cả đám voi kia,
Tù và, trống nhỏ khua vang khắp,
Ðánh dậy trống to cả tứ bề!

4384. Nadantu bherī sannaddhā vagguṃ vadatu dundubhī, negamā ca maṃ anventu gacchaṃ puttanivedako.

4384. Hãy làm gầm lên các chiếc trống lớn đã được buộc chặt, hãy làm chiếc trống lệnh vang lên âm thanh ngọt ngào. Và các thị dân hãy đi theo trẫm. Trẫm sẽ đi đón rước hoàng tử.

61. Trống cao ầm ỹ tận không gian,
Trống nhỏ âm vang thật dịu dàng,
Tất cả kinh thành theo gót trẫm,
Ta đi lần nữa đón hoàng nam.

4385. Orodhā ca kumārā ca vesiyānā ca brāhmaṇā, khippaṃ yānāni yojentu gacchaṃ puttanivedako.  

4385. Các cung phi, các vương tử, các thương nhân, và các vị Bà-la-môn, các khanh hãy mau chóng thắng ngựa vào các cỗ xe. Trẫm sẽ đi đón rước hoàng tử.

62. Các vương phi, tất cả hoàng gia,
Vệ-xá, Bà-la-môn trẻ, già,
Hết thảy thắng cương xe ngựa sẵn,
Ta đi đón Thái tử về nhà.

4386. Hatthārohā aṇīkaṭṭhā rathikā pattikārakā, khippaṃ yānāni yojentu gacchaṃ puttanivedako.

4386. Các viên quản tượng, các ngự lâm quân, các xa binh, và các bộ binh các khanh hãy mau chóng thắng ngựa vào các cỗ xe. Trẫm sẽ đi đón rước hoàng tử.

63. Các vị cởi voi, cỡi mã xa,
Bộ binh, vệ sĩ của hoàng gia,
Mọi người chuẩn bị lên đường gấp,
Ta đến đón Vương tử lại nhà.

4387. Samāgatā jānapadā negamā ca samāgatā, khippaṃ yānāni yojentu gacchaṃ uttanivedako.

 4387. Các người dân đã tụ hội lại và các thị dân đã tụ hội lại, các khanh hãy mau chóng thắng ngựa vào các cỗ xe. Trẫm sẽ đi đón rước hoàng tử.”

64. Thần dân thành thị đến thôn quê,
Khắp nẻo đường đông đảo tựu tề,
Tất cả sẵn sàng theo gót trẫm,
Ta đi đón Thái tử quay về.

4388. Asse ca sārathī yutte sindhave sīghavāhane, rājadvāraṃ upāgañchuṃ yuttā deva ime hayā.

4388. “Những người đánh xe đã dẫn các con ngựa thuộc dòng Sindhu, có khả năng kéo xe nhanh, đã được buộc (vào các cỗ xe), đi đến cánh cổng của hoàng cung (nói rằng): “Tâu bệ hạ, các con ngựa này đã được sẵn sàng.”

65. Ngựa Sindh dòng giống tuyệt cao sang
Nai nịt yên cương trước ngọ môn,
Các quản xa trình tin tức đến:
"Cả đoàn chờ yết kiến long nhan".

4389. Thūlā javena hāyanti kisā hāyanti thāmunā, kise thūle vivajjetvā saṃsaṭṭhā yojitā hayā.

4389. “Các con ngựa mập bị sút giảm về tốc độ, các con gầy bị sút giảm về sức mạnh.” “Hãy loại ra các con ngựa gầy và mập, các con ngựa tương xứng hãy được thắng vào.”

66. "Bầy ngựa bất kham hãy loại ra,
Ðừng đem ngựa yếu đến xe ta".
Lệnh vua như vậy vừa ban xuống,
Tuân phục tức thì đám quản xa.

4390. Tato rājā taramāno yuttamāruyha sandanaṃ, itthāgāraṃ ajjhabhāsi sabbāva anuyātha maṃ.

4390. Sau đó, đức vua đã vội vã bước lên cỗ xe đã được thắng ngựa, và đã nói với các phi tần ở hậu cung rằng: “Tất cả các nàng hãy đi theo trẫm.”

67. Lúc ấy vương xa đã sẵn sàng,
Không còn trì hoãn, đấng quân vương
Bước lên, gọi các bà phi hậu:
"Tất cả cùng ta tiến bước đường".

4391. Vāḷavījanim uṇhīsaṃ khaggaṃ chattaṃ ca paṇḍaraṃ, upādirathamāruyha suvaṇṇena alaṅkato.

4391. Đức vua đã bước lên cỗ xe có quạt đuôi bò, vương miện, gươm, lọng che màu trắng, và đôi hài được trang điểm bằng vàng.

68. Với quạt đuôi trâu, mão đội đầu,
Lọng vua màu trắng ở trên cao,
Ngài lên ngự giá vương xa ấy,
Trang điểm ngọc vàng tuyệt mỹ sao.

4392. Tato ca rājā pāyāsi purakkhatvāna sārathiṃ, khippameva upāgañchi yattha sammati temiyo.

4392. Và sau đó, với người đánh xe ở phía trước, đức vua đã khởi hành và đã đi đến nơi hoàng tử Temiya cư ngụ vô cùng nhanh chóng.

69. Rồi nhà vua lập tức đăng trình
Cùng gã quản xa ở cạnh mình,
Vội vã ngài đi ngay đến chốn
Te-mi-ya trú thật thanh bình.

4393. Tañca disvāna āyantaṃ jalantamiva tejasā, khattasaṅghaparibbūḷhaṃ temiyo etadabravi.

4393. Sau khi nhìn thấy đức vua đang đi đến, tựa như đang chói sáng với uy quyền, được hộ tống xung quanh bởi tập thể các vị Sát-đế-lỵ, hoàng tử Temiya đã nói điều này:

70. Vương tử Te-mi thấy phụ vương
Ðến đây, lộng lẫy, đại huy hoàng,
Quanh mình chiến sĩ đoàn hầu cận,
Vì vậy ngài lên tiếng nói rằng:

4394. Kaccinnu tāta kusalaṃ kacci tāta anāmayaṃ, kaccinnu rājakaññāyo arogā mayha mātaro.

4394. “Thưa cha, phải chăng cha được an khang? Thưa cha, phải chăng cha được khỏe mạnh? Phải chăng các công chúa và mẹ của con không bị bệnh?”

71. "- Phụ vương, con chắc được an bình,
Cha có đủ tin tức tốt lành,
Con chắc các vương phi, mẫu hậu
Thảy đều khang kiện ở triều đình?"

4395. Kusalañceva me putta atho putta anāmayaṃ, sabbāva rājakaññāyo arogā tuyha mātaro.

4395. “Này con trai, trẫm được an khang. Và này con trai, trẫm được khỏe mạnh. Toàn bộ tất cả các công chúa và mẹ của con không bị bệnh.”

72. "- Này con, cha vẫn được an bình,
Cha có đủ tin tức tốt lành,
Tất cả các vương phi, mẫu hậu,
Quả đều khang kiện ở triều đình".

4396. Kaccissa majjapo tāta kacci te suramappiyaṃ, kacci sacce ca dhamme ca dāne te ramatī mano.

4396. “Thưa cha, phải chăng cha không uống chất say? Phải chăng rượu không được cha yêu quý? Phải chăng cha có tâm ý ưa thích sự chân thật, vương pháp, và sự bố thí?”

73. "- Con chắc cha không uống rượu men,
Rượu nồng các loại thảy đều kiêng,
Trí tâm cha vẫn luôn thành khẩn
Bố thí và hành động chính chuyên?"

4397. Amajjapo ahaṃ putta atho me suramappiyaṃ, atho sacce ca dhamme ca dāne me ramatī mano.  

4397. “Này con trai, trẫm không uống chất say. Và rượu không được trẫm yêu quý. Trẫm có tâm ý ưa thích sự chân thật, vương pháp, và sự bố thí.”

74. "- Thật vậy, cha không đụng rượu men,
Rượu nồng các loại thảy đều kiêng,
Trí tâm cha vẫn luôn thành khẩn
Bố thí và hành động chính chuyên.

4398. Kacci arogaṃ yoggaṃ te kacci vahati vāhanaṃ, kacci te vyādhayo natthi sarīrassupatāpanā.

4398. “Phải chăng bầy thú kéo xe của cha không có bệnh? Và phải chăng chúng kéo xe? Phải chăng các bệnh của cha không gây sự khó chịu ở cơ thể?”

75. "-Bầy ngựa và voi của phụ vương,
Con mong đều mạnh khỏe hùng cường,
Không con nào phải mang thân bệnh,
Không có yếu hèn hoặc bất tường".

4399. Atho arogaṃ yoggaṃ me atho vahati vāhanaṃ, atho me vyādhayo natthi sarīrassupatāpanā.

4399. “Bầy thú kéo xe của cha không có bệnh, và chúng kéo xe. Còn các bệnh của cha không gây sự khó chịu ở cơ thể.”

76. "-Vâng, các bầy voi của phụ vương,
Và bầy ngựa mạnh khỏe, hùng cường,
Không con nào phải mang thân bệnh
Không có yếu hèn hoặc bất tường".

4400. Kacci antā ca te phītā majjhe ca bahalā tava, koṭṭhāgārañca kosañca kacci te paṭisanthataṃ.

4400. “Phải chăng các khu biên giới được phồn thịnh, và khu trung tâm của cha được đông đúc? Phải chăng kho hàng và kho bạc của cha được bảo quản?”

77. "- Biên thùy cùng địa phận trung ương,
Tất cả đều trù mật, lạc an,
Xin hỏi các nơi này có đủ
Các ngân khố với các kho tàng?

4401. Atho antā ca me phītā majjhe ca bahalā mama, koṭṭhāgārañca kosañca sabbaṃ me paṭisanthataṃ.

4401. “Các khu biên giới của cha được phồn thịnh, và khu trung tâm của cha được đông đúc. Kho hàng và kho bạc của cha, tất cả đều được bảo quản.”

4402. Svāgataṃ te mahārāja atho te adurāgataṃ, patiṭṭhāpentu pallaṅkaṃ yattha rājā nisakkati.

4402. “Tâu đại vương, chào mừng phụ vương đã ngự đến, và việc phụ vương đã đi đến không gặp khó khăn. Các ngươi hãy xếp đặt long sàng ở nơi nào đức vua sẽ ngự đến.

78. Phụ vương, nay trẻ đón chào mừng,
Hạnh ngộ giờ đây với phụ thân,
Hãy đặt vương sàng ra tại chỗ
Ðể ngài an tọa, hỡi ba quân!"

4403. Idheva te nisinnassa niyate paṇṇasanthate, etto udakamādāya pāde pakkhālayantu te.

4403. Xin bệ hạ an tọa ngay tại đây, ở thảm lá đã khéo được trải ra. Các ngươi hãy mang nước từ nơi này đến, và hãy rửa sạch hai bàn chân của bệ hạ.”

79. Xin hãy ngự trên thảm lá này,
Trải cho đẹp ý phụ vương đây,
Quân hầu lấy nước nơi này đến
Ðể rửa tay chân Chúa thượng ngay.

4404. Idampi paṇṇakaṃ mayhaṃ randhaṃ rāja aloṇakaṃ, paribhuñja mahārāja pāhuno mesi āgato.

 4404. Tâu bệ hạ, còn lá cây này của con đã được luộc không có muối. Tâu đại vương, xin bệ hạ hãy thọ dụng. Bệ hạ đã ngự đến, tức là khách của con.”

80. Con không có muối, lá cây này

Là thực phẩm con sống mỗi ngày,
Cha đã đến đây làm khách quý,
Xin vui lòng nhận thức ăn vầy.

4405. Na cāhaṃ paṇṇaṃ bhuñjāmi na hetaṃ mayha bhojanaṃ, sālīnaṃ odanaṃ bhuñje suciṃ maṃsūpasecanaṃ.  

4405. “Trẫm không thọ dụng lá cây, bởi vì vật ấy không phải là thức ăn của trẫm. Trẫm thọ thực cơm gạo sāli, có trộn lẫn thịt tinh khiết.

81. Lá cây không phải món cha ăn,
Ðem đến cho cha chén gạo trong,
Nấu với thịt hầm thơm dịu ngọt
Ðể làm thành một món canh ngon.

4406. Accherakaṃ maṃ paṭibhāti ekakampi rahogataṃ, edisaṃ bhuñjamānānaṃ kena vaṇṇo pasīdati.  

4406. Có sự kỳ lạ lóe lên ở trẫm, là việc con sống ở nơi thanh vắng chỉ có một mình và thọ thực thức ăn như thế này. Vì lý do gì làn da (của con) lại được trong sáng?”

82. Quả thật diệu kỳ đối với ta
Vương nhi cô độc phải lìa nhà,
Sống bằng thực phẩm nghèo hèn vậy,
Tuy thế con không đổi sắc da.

4407. Eko rāja nipajjāmi niyate paṇṇasanthate, tāya me ekaseyyāya rāja vaṇṇo pasīdati.

4407. “Tâu bệ hạ, con nằm một mình ở thảm lá đã khéo được trải ra. Làn da con được trong sáng là do việc nằm một mình ấy của con, tâu bệ hạ.

83. Trên thảm lá này được trải ra,
Con nằm cô độc ở rừng già,
Tọa sàng quả thật đầy an lạc,
Vì thế con không đổi sắc da.

4408. Na ce nettiṃsabaddhā me rājarakkhā upaṭṭhitā, tāya me sukhaseyyāya rāja vaṇṇo pasīdati.

4408. Con không có những vệ sĩ nắm chặt thanh gươm và sự bảo vệ của hoàng gia đã được bố trí. Làn da con được trong sáng là do việc nằm ngủ an lạc ấy của con, tâu bệ hạ.

84. Không đoàn vệ sĩ ác canh phòng
Bao bọc chung quanh với kiếm trần,
Sàng tọa thật là an lạc quá,
Nên màu da trẻ vẫn tươi hồng.

4409. Atītaṃ nānusocāmi nappajappamanāgataṃ, paccuppannena yāpemi tena vaṇṇo pasīdati.  

4409. Con không sầu tư về chuyện đã qua, không mong ước về việc chưa đến, con sống với hiện tại; vì thế, làn da (của con) được trong sáng.

85. Con chẳng tiếc thương gì quá khứ,
Cũng không than khóc chuyện tương lai,
Con chờ hiện tại đang đi tới,
Nên sắc da con giữ được hoài.

4410. Anāgatappajappāya atītassānusocanā, etena bālā sussanti naḷova harito luto.

 4410. Do mong ước về việc chưa đến, do sầu tư về chuyện đã qua, vì thế, các kẻ ngu bị khô héo, tựa như cây sậy xanh tươi bị đốn ngã.”

86. Khóc than quá khứ đã qua rồi,
Còn chuyện tương lai bất định thôi,
Việc ấy làm khô sinh lực trẻ,
Như khi người cắt cỏ xanh tươi.

4411. Hatthāṇīkaṃ rathāṇīkaṃ asse pattī ca vammino, nivesanāni rammāni ahaṃ putta dadāmi te.

4411. “Này con trai, trẫm ban cho con tượng binh, xa binh, kỵ binh, và bộ binh có vũ trang, cùng các cung điện đáng yêu.

87. Con hỡi, các bầy tượng, mã, xa,
Bộ binh, kỵ sĩ của hoàng gia,
Lâu đài cung điện đầy hoan lạc,
Cha sẽ cho con tất cả mà.

4412. Itthāgārampi te dammi sabbālaṅkārabhūsitaṃ, tā putta paṭipajjassu tvaṃ no rājā bhavissasi.

4412. Trẫm sẽ ban cho con các phi tần ở hậu cung đã được tô điểm với mọi thứ trang sức. Này con trai, con hãy tiếp nhận các nàng ấy. Con sẽ là vua của chúng tôi.

88. Và các hậu cung, cha cũng ban
Với bao vinh hiển, mọi cao sang,
Con là vua ở ngôi duy nhất
Ngự trị, không ai ở cạnh con.

4413. Kusalā naccagītassa sikkhitā caturitthiyo, kāme taṃ ramayissanti kiṃ araññe karissasi.

4413. Các nữ nhân tài giỏi, thiện xảo về ca vũ, đã được rèn luyện, sẽ làm cho con thích thú trong dục lạc. Ở rừng, thì con sẽ làm gì?

89. Mỹ nhân tài giỏi múa, đàn, ca,
Ðiêu luyện bao cung cách thướt tha
Ru cõi lòng con vào khoái lạc,
Sao còn thơ thẩn mãi rừng già?

4414. Paṭirājūhi te kaññā ānayissaṃ alaṅkatā, tāsu putte janetvāna atha pacchā pabbajissasi.

4414. Trẫm sẽ đưa đến cho con các nàng công chúa của những vị vua đối nghịch. Con sẽ cùng các nàng sanh ra các hoàng tử, rồi sau đó con sẽ xuất gia.

90. Con gái của bao vị địch quân,
Tự hào hầu hạ cạnh con luôn,
Ðến khi sinh được nhiều vương tử,
Con hãy làm tu sĩ ẩn thân.

4415. Yuvā ca daharo cāsi paṭhamuppattito susu, rajjaṃ kārehi bhaddante kiṃ araññe karissasi.

4415. Con là thanh niên, trẻ tuổi, ở giai đoạn đầu của cuộc đời, còn nhỏ lắm. Thưa tôn đức, con hãy trị vì đất nước. Ở rừng, thì con sẽ làm gì?”

91. Con đầu lòng, kế vị cha đây,
Trong tuổi đầu xuân rực rỡ vầy,
Hãy tận hưởng ngai vàng trọn vẹn,
Con làm gì ở thảo am này?

4416. Yuvā care brahmacariyaṃ brahmacārī yuvā siyā, daharassa hi pabbajjā etaṃ isīhi vaṇṇitaṃ.

4416. “Thanh niên nên thực hành Phạm hạnh. Thanh niên nên là người có Phạm hạnh. Bởi vì việc xuất gia là dành cho người trẻ tuổi; điều ấy được các bậc ẩn sĩ ca ngợi.

92. Không, trẻ muốn từ giã thế gian,
Tránh bao phù phiếm ở phàm trần,
Cuộc đời khổ hạnh con yêu nhất,
Khuyên nhủ như vầy mọi trí nhân.

4417. Yuvā care brahmacariyaṃ brahmacārī yuvā siyā, brahmacariyaṃ carissāmi nāhaṃ rajjenamatthiko.

4417. Thanh niên nên thực hành Phạm hạnh. Thanh niên nên là người có Phạm hạnh. Con sẽ thực hành Phạm hạnh, con không mong muốn vương quyền.

93. Không, con trẻ muốn xuất trần gian,
Ẩn sĩ đơn thân ở thảo am,
Con sẽ đi theo đời khổ hạnh,
Con không thiết phú quý, ngai vàng.

4418. Passāmi vohaṃ daharaṃ amma tāta vadaṃ naraṃ, kicchā laddhaṃ piyaṃ puttaṃ appatvāva jaraṃ mataṃ.  

4418. Con nhìn thấy đứa con trai đáng yêu, còn nhỏ tuổi, đang bập bẹ gọi ‘mẹ, cha,’ đã nhận chịu sự đau đớn, khi còn chưa đạt đến tuổi già và cái chết.

94. Con ngắm bé trai, miệng trẻ thơ
Vừa kêu bập bẹ "mẹ" cùng "cha",
Lớn lên thành một chàng trai tráng,
Rồi cũng già nua, phải chết mà.

4419. Passāmi vohaṃ dahariṃ kumāriṃ cāru dassanaṃ, naḷavaṃsakaḷīraṃva paluggaṃ jīvitakkhaye.

4419. Con nhìn thấy nàng thiếu nữ trẻ tuối, có vẻ dễ thương, bị tả tơi vào lúc cạn kiệt mạng sống, tựa như chồi non của loài lau sậy bị bứng gốc.

95. Cũng vầy, thiếu nữ độ hoa cười,
Vui vẻ, đẹp xinh trước mọi người,
Phút chốc úa tàn vì lưỡi hái
Tử thần cắt bỏ tựa măng tươi.

4420. Daharāpi hi mīyanti narā ca atha nāriyo, tattha ko vissase poso daharomhīti jīvite. 

4420. Bởi vì, những người nam và những người nữ, mặc dầu còn trẻ tuổi, cũng đã bị chết. Trong trường hợp ấy, người nào có thể tự tin về mạng sống, cho rằng: ‘Ta còn trẻ’?

96. Mọi người nam nữ dẫu còn xuân,
Phút chốc úa tàn, vậy thế nhân
Ai đặt lòng tin vào cuộc sống
Bị lừa phỉnh bởi tuổi xuân hồng?

4421. Yassa ratyā vivasane āyuṃ appataraṃ siyā, appodakeva macchānaṃ kinnu komārakaṃ tahiṃ.

4421. Đối với người ở vào thời điểm thụ thai thì tuổi thọ còn ít hơn nữa, tựa như tuổi thọ của những con cá ở vũng nước cạn; cái gì là tuổi trẻ trong trường hợp ấy?

97. Ðêm tàn, nhường chỗ ánh bình minh,
Phút chốc cũng thu ngắn lộ trình,
Như cá ở vùng khô cạn nước,
Nghĩa gì tuổi trẻ của nhân sinh?

4422. Niccamabbhāhato loko niccañca parivārito, amoghāsu vajantīsu kiṃ maṃ rajjena siñcasi.

4422. Thân này thường xuyên bị hành hạ và thường xuyên bị vây hãm. Khi những cái không vô ích đang chuyển dịch, tại sao phụ vương còn tỉ tê với con về vương quyền?”

98. Ðời này bị đánh ngã, đau thương,
Luôn bị canh phòng bởi địch quân,
"Chúng" mãi đi qua đầy ác ý,
Sao còn nói mão miện, ngai vàng?

4423. Kenamabbhāhato loko kena ca parivārito, kāyo amoghā gacchanti taṃ me akkhāhi pucchito.

 4423. “Thân này bị hành hạ bởi cái gì, bị vây hãm bởi cái gì? Những cái không vô ích đang di chuyển là những gì? Được hỏi, con hãy giải thích điều ấy cho trẫm.”

99. Ai đánh ngã đời sống thế gian?
Nào ai canh giữ thật hung tàn?
Nào ai ác ý đi qua mãi?
Hãy nói chuyện huyền bí rõ ràng.

4424. Maccunābbhāhato loko jarāya parivārito, ratyo amoghā gacchanti evaṃ jānāhi khattiya.

4424. “Thân này bị hành hạ bởi sự chết, bị vây hãm bởi sự già. Những đêm tối là những cái không vô ích đang di chuyển. Tâu vị Sát- đế- lỵ, ngài hãy nhận biết như thế.”

100. - Thần chết đánh tan thế giới này,
Tuổi già canh giữ cửa ta đây,
Chính đêm tối vẫn trôi qua mãi,
Ðạt thành mục đích chóng hay chầy.

4425. Yathāpi tante vitate yaṃ yadevūpavīyati, appakaṃ hoti vetabbaṃ evaṃ maccāna jīvitaṃ.

4425. Cũng giống như khi sợi chỉ dệt được kéo căng ra, chính sợi chỉ ấy được kết vào (tấm vải dệt), và sợi chỉ dùng để dệt bị ngắn dần, mạng sống của các chúng sanh là tương tự như vậy.

101. Như khi bà nọ bên khung cửi
Ngồi dệt vải trong suốt cả ngày,
Công việc của bà dần ít lại,
Ðời ta tàn lụi cũng như vầy.

4426. Yathā vārivaho pūro gacchannupanivattati, evamāyu manussānaṃ gacchannupanivattati.

4426. Giống như dòng sông tràn đầy đang trôi chảy, không quay ngược trở lại, tương tự như vậy, tuổi thọ của con người đang trôi đi, không quay ngược trở lại.

102. Như thể dòng sông cuồn cuộn trôi
Vẫn luôn trôi chảy chẳng hề lui,
Dòng đời thế tục là như vậy,
Cũng cứ luôn đi tới mãi thôi.

4427. Yathā vārivaho pūro vahe rukkhūpakūlaje, evaṃ jarāya maraṇena vuyhante vata pāṇino.

4427. Giống như dòng sông tràn đầy có thể cuốn đi những cây cối mọc ở bờ sông, tương tự như vậy, các chúng sanh quả thật bị cuốn đi bởi sự già và sự chết.”

103. Như thể dòng sông cuốn thật xa
Những cây bật gốc ở đôi bờ,
Con người cũng chịu lao đầu tới
Hủy hoại do thần chết, tuổi già.

4428. Hatthāṇīkaṃ rathāṇīkaṃ asse pattī ca vammino, nivesanāni rammāni ahaṃ putta dadāmi te.

4428. “Này con trai, trẫm ban cho con tượng binh, xa binh, kỵ binh, và bộ binh có vũ trang, cùng các cung điện đáng yêu.

104. Con hỡi, các bầy tượng, mã, xa,
Bộ binh, ky sĩ của hoàng gia,
Lâu đài cung điện đầy hoan lạc,
Cha sẽ cho con tất cả mà.

4429. Itthāgārampi te dammi sabbālaṅkārabhūsitaṃ, tā putta paṭipajjassu tvaṃ no rājā bhavissasi.  

4429. Trẫm sẽ ban cho con các phi tần ở hậu cung đã được tô điểm với mọi thứ trang sức. Này con trai, con hãy tiếp nhận các nàng ấy. Con sẽ là vua của chúng tôi.

105. Và các hậu cung, cha cũng ban
Với bao vinh hiển, mọi cao sang,
Con là vua ở ngôi duy nhất
Ngự trị, không ai ở cạnh con.

4430. Kusalā naccagītassa sikkhitā caturitthiyo, kāme taṃ ramayissanti kiṃ araññe karissasi.

4430. Các nữ nhân tài giỏi, thiện xảo về ca vũ, đã được rèn luyện, sẽ làm cho con thích thú trong dục lạc. Ở rừng, thì con sẽ làm gì?

106. Mỹ nhân tài giỏi múa, đàn, ca,
Ðiêu luyện bao cung cách thướt tha,
Ru cõi lòng con vào khoái lạc,
Sao còn thơ thẩn mãi rừng già?

4431. Paṭirājūhi te kaññā ānayissaṃ alaṅkatā, tāsu putte janetvāna atha pacchā pabbajissasi.

4431. Trẫm sẽ đưa đến cho con các nàng công chúa của những vị vua đối nghịch. Con sẽ cùng các nàng sanh ra các hoàng tử, rồi sau đó con sẽ xuất gia.

107. Con gái của bao vị địch quân
Tự hào hầu hạ cạnh con luôn,
Ðến khi sinh được nhiều vương tử,
Con hãy làm tu sĩ ẩn thân.

4432. Yuvā ca daharo cāsi paṭhamuppattito susū, rajjaṃ kārehi bhaddante kiṃ araññe karissasi.  

4432. Con là thanh niên, trẻ tuổi, ở giai đoạn đầu của cuộc đời, còn nhỏ lắm. Thưa tôn đức, con hãy trị vì đất nước. Ở rừng, thì con sẽ làm gì?

4433. Koṭṭhāgārañca kosañca vāhanāni balāni ca, nivesanāni rammāni ahaṃ putta dadāmi te.

4433.  Này con trai, trẫm ban cho con kho hàng và kho bạc, các cỗ xe và các binh đội, cùng các cung điện đáng yêu.

108. Công khố và kho báu của cha,
Bộ binh, ky mã của hoàng gia,
Ðền đài cung điện đầy hoan lạc,
Cha sẽ cho con tất cả mà.

4434. Gomaṇḍalaparibbūḷho dāsisaṅghapurakkhato, rajjaṃ kārehi bhaddante kiṃ araññe karissasi.

4434. Được vây quanh bởi các nàng công chúa có thân hình xinh đẹp, được tôn vinh bởi đám nữ tỳ, thưa tôn đức, con hãy trị vì đất nước. Ở rừng, thì con sẽ làm gì?”

109. Nô lệ từng bầy phụng sự luôn,
Vương phi, mỹ hậu để yêu thương,
Ngai vàng tận hưởng, đầy khang kiện,
Sao ở mãi đây chốn thảo đường?

4435. Kiṃ dhanena yaṃ jīyetha kiṃ bhariyāya marissati, kiṃ yobbanena ciṇṇena yaṃ jarā abhihessati.  

4435. “Ích gì với tài sản là vật sẽ bị tiêu tan? Ích gì với người vợ vì nàng sẽ chết? Ích gì với tuổi thanh xuân được hình thành vì tuổi già sẽ chế ngự nó?

110. Sao kiếm giàu sang chẳng vững bền,
Sao mong cầu vợ cũng quy tiên,
Sao suy nghĩ mãi về xuân sắc,
Thoáng chốc xuân xanh sẽ hết liền?
Còn lại tuổi già hăm dọa đó
Bao giờ cũng đứng cạnh triền miên.

4436. Tattha kā nandi kā khiḍḍā kā ratī kā dhanesanā, kiṃ me puttehi dārehi rāja muttosmi bandhanā.  

4436. Ở cuộc sống ấy, cái gì là sự vui vẻ, cái gì là việc vui đùa, cái gì là sự thích thú, cái gì là sự tầm cầu tài sản? Đối với con, ích gì với các con trai và những người vợ? Tâu bệ hạ, con đã thoát ra khỏi sự trói buộc.

111. Ðâu lạc thú đem đến cuộc đời,
Ðẹp giàu, ngự thiện, thú vui chơi,
Thê nhi có nghĩa gì con nữa?
Xiềng xích con nay giải thoát rồi.

4437. Sohaṃ evaṃ pajānāmi maccu me nappamajjati, antakenādhipannassa kā ratī kā dhanesanā.  

4437. Con đây nhận biết rõ như vậy. Tử Thần không mê hoặc được con. Đối với người đã bị Thần Chết chế ngự, thì cái gì là sự khoái lạc, cái gì là sự tầm cầu tài sản?

112. Ðiều con biết: mọi chốn đi đường
Số phận luôn canh giữ chẳng ngừng,
Lạc thú sang giàu đâu ích lợi
Cho người thấy móng vuốt ma thần?

4438. Phalānamiva pakkānaṃ niccaṃ patanato bhayaṃ, evaṃ jātānamaccānaṃ niccaṃ maraṇato bhayaṃ.  

4438. Giống như đối với những trái cây đã chín, hiểm họa do việc rơi rụng là thường xuyên, tương tự như vậy, đối với những con người đã được sanh ra, hiểm họa về cái chết là thường xuyên.

4439. Sāyameke na dissanti pāto diṭṭhā bahujjanā, pāto eke na dissanti sāyaṃ diṭṭhā bahujjanā.

4439. Nhiều người được nhìn thấy vào buổi sáng, thì một số không còn được nhìn thấy vào buổi tối. Nhiều người được nhìn thấy vào buổi tối, thì một số không còn được nhìn thấy vào sáng (hôm sau).

4440. Ajjeva kiccaṃ ātappaṃ ko jaññā maraṇaṃ suve, nahi no saṅgaraṃ tena mahāsenena maccunā.  

4440. Sự nhiệt tâm là việc cần phải làm ngay trong ngày hôm nay. Ai có thể biết cái chết (có thể xảy ra) vào ngày mai? Bởi vì không có sự giao ước giữa chúng ta với Tử Thần có đạo quân binh đông đảo.

113. Hôm nay làm việc bạn cần làm,
Ai chắc ngày mai có ánh quang?
Thần chết chính là viên đại tướng
Không cho ai bảo đảm an toàn.

4441. Corā dhanassa patthenti rāja muttosmi bandhanā, ehi rāja nivattassu nāhaṃ rajjenamatthiko ”ti.

4441. Các kẻ trộm mong cầu tài sản, tâu bệ hạ, con đã thoát ra khỏi sự trói buộc. Tâu bệ hạ, xin cha hãy chấp nhận, xin cha hãy quay về, con không mong muốn vương quyền.”

114. Trộm luôn rình rập lấy kho tàng,
Con đã thoát bao mối buộc ràng,
Cha hãy trở về vương vị cũ,
Con màng gì nữa với giang san?

Mūgapakkhajātakaṃ paṭhamaṃ.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada