3913. Ete haṃsā pakkamanti vakkaṅgā bhayameritā, harittaca hemavaṇṇa kāmaṃ sumukha pakkama.
1. Kìa đám hồng nga cất cánh bay,
Cả bầy hốt hoảng hãi kinh đầy,
Đi ngay, Sư-mục-kha vàng ánh,
Khanh muốn gì chăng ở chốn này?
3914. Ohāya maṃ ñātigaṇā ekaṃ pāsavasaṃ gataṃ, anapekkhamānā gacchanti kiṃ eko avahiyyasi.
2. Họ hàng ta đã bỏ rơi ta,
Bọn chúng đều cao chạy vút xa,
Đào tẩu ngay, không hề nghĩ ngợi,
Sao khanh đơn độc ở đây mà?
3915. Pateva patataṃ seṭṭha natthi baddhe sahāyatā, mā anīghāya hāpesi kāmaṃ sumukha pakkama.
3. Thiên nga cao thượng, hãy bay về,
Tù tội làm sao có bạn bè?
Lúc được tự do, Sư-mục hỡi,
Bay đi, đừng bỏ dịp may kề!
3916. Nāhaṃ dukkhaparetoti dhataraṭṭha tavaṃ jahe, jīvitaṃ maraṇaṃ vā me tayā saddhiṃ bhavissati.
4. Không, thần sẽ chẳng bỏ Nga vương,
Khi đến gần tai họa thảm thương,
Song ở lại đây, thần đã quyết
Bên ngài, dù sống chết không màng.
3917. Nāhaṃ dukkhaparetoti dhataraṭṭha tavaṃ jahe, na maṃ anariyasaṃyutte kamme yojetumarahasi.
3917. Thưa chim chúa Dhataraṭṭha, (nghĩ rằng): ‘Ngài lâm cảnh khổ đau,’ thần không thể bỏ rơi ngài. Ngài không thể bảo thần dính líu đến việc làm không cao thượng.
5. Không, thần sẽ bỏ Nga vương,
Khi đến gần tai họa thảm thương,
Chẳng dự vào hành vi hạ liệt
Với bầy chim nọ, chẳng theo gương.
3918. Sakumāro sakhā tyasmi sacitte casmi te ṭhito, ñāto senāpati tyāhaṃ haṃsānaṃ pavaruttama.
6. Thần đồng tâm hiệp ý cùng ngài,
Đồng bạn vui chơi thuở thiếu thời,
Giữa đám quần thần, tâu Chúa thượng,
Nổi danh là thủ lãnh hùng oai.
3919. Kathaṃ ahaṃ vikatthissaṃ ñātimajjhe ito gato, taṃ hitvā patataṃ seṭṭha kinte vakkhāmito gato, idha pāṇaṃ cajissāmi nānariyaṃ kattumussahe.
7. Khi về với quyến thuộc thân bằng
Thần biết làm sao để nói năng,
Ví thử bỏ ngài cho số phận,
Vô tình bay bổng thật nhanh chân?
Không, thà chịu chết hơn là sống
Khi phải đóng vai hạ liệt thần.
3920. Eso hi dhammo sumukha yaṃ tvaṃ ariyapathe ṭhito, yo bhattāraṃ sakhāraṃ maṃ na pariccattumussahe.
8. Bản tính khanh, Sư-mục Tướng quân,
Vẫn thường an trú lý Như chân,
Không bao giờ bỏ rơi vua chúa,
Thân hữu, hãy tìm cách thoát thân.
3921. Taṃ hi me pekkhamānassa bhayaṃ na tveva jāyati, adhigacchasi tvaṃ mayhaṃ evambhūtassa jīvitaṃ.
3921. Bởi vì, trong khi ta nhìn thấy khanh, thì sự sợ hãi không sanh lên ở ta. Khanh tìm đến với ta, trong khi ta hãy còn mạng sống như vầy.”
9. Khi ta nhìn thấy mặt Hiền khanh,
Trong trí ta không khỏi hãi kinh,
Dù cảnh ngộ buồn, khanh cũng sẽ
Tìm đường giải cứu bạn thân mình.
3922. Icceva mantayantānaṃ ariyānaṃ ariyavuttinaṃ, daṇḍamādāya nesādo āpadī turito bhusaṃ.
10. Đôi chim cao thượng đã trao nhau
Tư tưởng như vầy thật quý cao,
Hãy ngắm kẻ săn chim táo bạo
Tay cầm chiếc gậy, bước chân mau.
3923. Tamāpatantaṃ disvāna sumukho aparibrūhayi, aṭṭhāsi purato rañño haṃso vissāsayaṃ vyathaṃ.
11. Thấy gã đến gần, Sư-mục-kha
Đứng lên ngay trước chúa Thiên nga,
Hiên ngang khích lệ quân vương ấy
Đầy nỗi lo trong bước sẩy sa.
9324. Mā bhāyi patataṃ seṭṭha nahi bhāyanti tādisā, ahaṃ yogaṃ payuñjissaṃ yuttaṃ dhammūpasaṃhitaṃ, tena pariyāpadānena khippaṃ pāsā pamokkhasi.
12. "Nga vương cao quý, chớ kinh hoàng,
Kinh hãi chẳng là cách Đại vương,
Với lẽ công bằng, thần nỗ lực
Khẩn cầu với lý luận khôn ngoan
Bằng hành động hết lòng can đảm
Lần nữa Chúa công được thoát nàn.
3925. Tassa taṃ vacanaṃ sutvā sumukhassa subhāsitaṃ, pahaṭṭhalomo nesādo añjalissa paṇāmayi.
13. Người săn chim nọ đã nghe lời
Chim ấy nói ra với biện tài,
Tóc dựng đứng lên, tay chấp lại,
Tôn sùng kính lễ trước chim trời.
3926. Na me sutaṃ vā diṭṭhaṃ vā bhāsanto mānusiṃ dijo, ariyaṃ bruvāno vakkaṅgo cajanto mānusiṃ giraṃ.
14. Chưa được nghe hay thấy trước giờ
Chim dùng tiếng nói của người ta,
Và bằng giọng lưỡi chim tuyên thuyết
Chân lý tối cao quả thật là.
3927. Kinnu tāyaṃ dijo hoti mutto baddhaṃ upāsasi, ohāya sakuṇā yanti kiṃ eko avahīyasi.
15. Với ngươi; chim có họ hàng gì,
Khi cả đàn cùng chạy trốn đi,
Dù được tự do, ngươi ở lại
Bên chim bị bắt một mình kia?
3928. Rājā me so dijāmitta senāpaccassa kārayiṃ, tamāpade pariccattuṃ nussahe vihagādhipaṃ.
16. Hỡi cừu nhân của đám thiên nga,
Ngài chúa công, ta đại tướng mà,
Ta chẳng bỏ ngài cho số phận,
Bình an đào thoát một mình ta.
3929. Mahāgaṇāya bhattā me mā eko vyasanaṃ agā, tathā taṃ samma nesāda bhattāyaṃ abhito rame.
17. Đừng để Thiên nga chúa đại hùng
Nơi đây phải chết thật đơn thân,
Bên ngài, hạnh phúc ta tìm thấy,
Ta được ngài như đáng chúa công.
3930. Ariyavattasi vakkaṅga yo piṇḍamapacāyasi, cajāmi te taṃ bhattāraṃ gacchathūbho yathāsukhaṃ.
18. Ngươi kính Điểu vương, cao quý thay,
Vì ngươi vẫn sống vời chim này,
Hãy bay về chốn ngươi chung sống,
Ta thả tự do hiền chúa ngay.
3931. Sace attappayogena ohito haṃsapakkhinaṃ, paṭigaṇhāma te samma etaṃ abhayadakkhiṇaṃ.
19. Nếu vì mục đích của riêng tây,
Ông đã bắt ta, đặt bẫy này,
Ta được tự do ông trả lại,
Lòng không lo lắng, nghĩ suy đầy.
3932. No ce attappayogena ohito haṃsapakkhinaṃ, anissaro muñcamamhe theyyaṃ kayirāsi luddaka.
3932. Nếu không vì mục đích của bản thân mà ông đặt bẫy bắt chim thiên nga, ông không có quyền trong khi thả chúng tôi đi. Này ông thợ săn, ông có thể phạm vào tội trộm cắp.
20. Song bằng không, quả thật to gan,
Người bẫy chim tha mạng điểu vương
Mà chẳng vì ân vua phép nước,
Hiển nhiên trộm cướp chẳng gì hơn.
3933. Yassa tvaṃ bhatako rañño kāmaṃ tasseva pāpaya, tattha saṃyamano rājā yathābhiññaṃ karissati.
21. Ông là tôi tớ của quân vương,
Ý nguyện ngài, ông phải vẹn toàn,
Tùy thích vua Sa-mya định đoạt
Với ta, đối xử hợp tâm can.
3934. Icceva vutto nesādo hemavaṇṇe harittace, ubho hatthehi saṅgayha pañjare ajjhavodahi.
3934. Được nói như thế, gã bẫy chim đã nâng hai con chim có lông vàng, có sắc vàng bằng hai tay, rồi cẩn thận đặt xuống trong cái lồng.
22. Người săn chim nắm cả hai tay
Trong lúc được nghe nói thế này,
Liền đặt vào lồng đôi ngỗng đỏ
Sắc da vàng ánh đẹp như vầy.
3935. Te pañjaragate pakkhī ubho bhassaravaṇṇine, sumukhaṃ dhataraṭṭhañca luddo ādāya pakkami.
23. Bộ lông ngời sáng, chúa Thiên nga
Càng đẹp mắt trông, với Mục-kha,
Yên ổn trong lồng người đặt bẫy
Cầm lên cùng với ngỗng đi ra.
3936. Harīyamāno dhataraṭṭho sumukhaṃ etadabravi, bāḷhaṃ bhāyāmi sumukha sāmāya lakkhaṇūruyā, asmākaṃ vadhamaññāya athattānaṃ vadhissati.
24. Nga vương vừa mới được mang ra,
Liền nói như vầy vời Mục-kha:
"Vương hậu diễm kiều đầy quý tướng
Bây giờ đang khổ não vì ta.
Nếu nàng nghe nói rằng ta chết,
Ta sợ đời nàng cũng phải sa.
3937. Pākahaṃsā ca sumukha suhemā hemasuttacā, koñcī samuddatīreva kapaṇā nūna rucchati.
25. Như cò hương khóc bạn tình lang,
Đơn độc bên bờ vắng đại dương,
Rực rỡ, Su-he (*) da óng ả
Sẽ còn thương tiếc mãi quân vương.
--------
(*) Suhemà: tên hoàng hậu Thiên nga
3938. Evaṃ mahanto lokassa appameyyo mahāgaṇī, ekitthimanusoceyya na idaṃ paññavatomiva.
26. Thiên nga vĩ đại, trí vô song,
Lãnh đạo anh minh của giống dòng,
Sao phải ưu phiền vì nữ giới,
Tỏ bày bao nhược điểm trong lòng.
3939. Vāto va gandhamādeti ubhayaṃ chekapāpakaṃ, bālo āmakapakkaṃ va lolo andho va āmisaṃ.
27. Như gió mang đi đủ thứ mùi
Dù là thơm ngát hoặc tanh hôi,
Tham lam như trẻ thành mù quáng
Ăn thức còn tươi hoặc chín rồi.
3940. Avinicchayaññū atthesu mandova paṭibhāsi maṃ, kiccākiccaṃ na jānāsi sampatto kālapariyāyaṃ.
28. Không xét suy chân chánh việc làm
Mê mờ, ngài chẳng thấy trên đàng
Việc gì cần tránh, gì làm được,
Trong lúc sa cơ, gặp hiểm nàn.
3941. Aḍḍhummatto udīresi yo seyyā maññasitthiyo, bahusādhāraṇā hetā soṇḍānaṃva surāgharaṃ.
29. Hóa dại, ngài ca tụng má hồng
Có đầy vẻ diễm lệ say lòng;
Tầm thường, tuy vậy, là đa số,
Chẳng khác trà đình của túy ông.
3942. Māyā cesā marīcī ca soko rogo cupaddavo, kharā ca bandhanā cetā maccupāso guhāsayo, tāsu yo vissase poso so naresu narādhamo.
30. Ưu phiền, bệnh tật với tai ương,
Như xích xiềng, gông, cực bạo tàn,
Ảo ảnh, dối gian và cạm bẫy
Tử thần cất kín tận tâm can.
Nữ nhân đều thế, ai tin chúng
Hạ liệt quả là nhất thế gian!
3943. Yaṃ vuddhehi upaññātaṃ ko taṃ ninditumarahati, mahābhūtitthiyo nāma lokasmiṃ udapajjisuṃ.
3943. “Phụ nữ được biết đến do các sự tăng trưởng, người nào xứng đáng để chê bai phụ nữ. Những người phụ nữ gọi là có đức tính vĩ đại đã sanh lên ở thế gian.
31. Bậc trí nhìn chân lý rõ rành,
Còn ai khiển trách, dám phê bình?
Nữ nhân sinh ở trong trần thế
Để hưởng đặc quyền với đại danh.
3944. Khiḍḍā paṇihitā tyāsu rati tyāsu patiṭṭhitā, bījāni tyāsu rūhanti yadidaṃ sattā pajāyare, tāsu ko nibbide poso pāṇamāsajja pāṇahi.
3944. Việc vui đùa được hình thành ở các nàng ấy, sự thích thú được thiết lập ở các nàng ấy, các mầm sống lớn lên trong (tử cung của) các nàng ấy, nghĩa là các chúng sanh được sanh ra. Người nam nào có thể nhàm chán các nàng ấy, sau khi đã kề cận hơi thở của các nàng ấy bằng những hơi thở của bản thân?
32. Nhi nữ sinh ra để cợt đùa,
Tình yêu lạc thú được ban cho,
Hạt mầm nảy nở trong nhi nữ,
Nguồn gốc đời ta được hộ phò,
Từ đó nam nhân bừng nhịp thở,
Khó lòng khinh thị đám quần thoa.
3945. Tvameva nañño sumukha thīnaṃ atthesu yuñjasi, tassa tyājja bhaye jāte bhītena jāyate mati.
3945. Này Sumukha, chính khanh, chứ không ai khác, gắn bó trong các nhu cầu đối với phụ nữ. Hôm nay, khi nỗi sợ hãi của khanh đây đã sanh khởi, do kinh sợ mà ý niệm được sanh ra.
33. Riêng khanh, Sư-mục, có tinh thông
Cung cách dung nghi đám má hồng,
Xúc động hãi kinh, khanh có thấy
Trí này sáng suốt muộn màng không?
3946. Sabbo hi saṃsayaṃ patto bhayaṃ bhīrū titikkhati, paṇḍitā ca mahattāno atthe yuñjanti duyyuje.
3946. Bởi vì, khi đạt đến sự hoài nghi (về mạng sống), tất cả (chúng sanh) đều cam chịu nỗi sợ hãi và khiếp đảm, còn các bậc sáng suốt, có vị thế cao cả, gắn bó với những mục đích khó gắn bó.
34. Khi một nam nhân gặp bất an,
Giữa tai biến, chịu đựng can cường,
Trong cơn khủng hoảng bao hiền trí
Cố sức cho ta được thoát nàn.
3947. Etadatthāya rājāno sūramicchanti mantinaṃ, paṭibāhati yaṃ sūro āpadaṃ attapariyāyaṃ.
35. Quân vương muốn gặp bậc anh hùng
Để có người khuyên nhủ hộ phòng
Chống nỗi kinh hoàng do nghịch cảnh,
Giải bày thích đáng, cứu nguy vong.
3948. Mā no ajja vikantiṃsu rañño sūdā mahānase, tathāhi vaṇṇo pattānaṃ phalaṃ veḷuṃva taṃ vadhi.
36. Ta mong đầu bếp của hoàng gia
Đừng nướng thân ta đã xác xơ,
Như trái cây tre thường giết mẹ
Bộ lông vàng cũng giết đời ta.
3949. Mutto na icchi oḍḍetuṃ sayaṃ bandhaṃ upāgami, sopajja saṃsayaṃ patto atthaṃ gaṇhāhi mā mukhaṃ.
3949. Kẻ được tự do đã không muốn bay đi, tự mình đã đi vào sự giam cầm. Hôm nay, khanh đây đã đạt đến sự hoài nghi. Khanh hãy nắm lấy mục đích, chớ miệng mồm.
37. Tự do, khanh chẳng muốn bay đi,
Tự nguyện giam cầm để cứu nguy,
Giờ phút hiểm nghèo, đừng nói nữa,
Hãy hoàn thành sứ mạng nam nhi.
3950. So taṃ yogaṃ payuñjassu yuttaṃ dhammūpasaṃhitaṃ, tavaṃ pariyāpadānena mama pāṇesanaṃ cara.
3950. Khanh đây hãy áp dụng phương pháp thích hợp, có liên quan đến đạo lý ấy. Khanh hãy đi tìm kiếm mạng sống cho trẫm theo phương thức của khanh.”
38. Gắng sức làm sao thật đúng thời,
Với công bằng biện hộ như lời,
Anh hùng hành động, xin hiền hữu
Đem lại cho ta cả cuộc đời.
3951. Mā bhāyi patataṃ seṭṭha nahi bhāyanti tādisā, ahaṃ yogaṃ payuñjissaṃ yuttaṃ dhammūpasaṃhitaṃ, mama pariyāpadānena khippaṃ pāsā pamokkhasi.
39. Nga vương cao quý, chờ kinh hoàng,
Kinh hãi chẳng là cách Đại vương,
Với lẽ công bằng, thần nỗ lực
Khẩn cầu vời lý luận khôn ngoan,
Bằng hành động hết lòng can đảm
Lần nữa chúa công được thoát nàn.
3952. Sa luddo haṃsakājena rājadvāraṃ upāgami, paṭivedetha maṃ rañño dhataraṭṭhāyamāgato.
40. Người săn chim đến cổng hoàng gia,
Tiến lại gần cùng gánh nặng kia,
"Trình tấu Đại vương, thần yết kiến,
Thưa rằng đây chính hiệu hồng nga".
3953. Te disvā puññasaṅkāse ubho lakkhaññasammate, khalu saññamano rājā amacce ajjhabhāsatha.
41. Nhìn thấy đôi chim dáng Thánh thần,
Tràn đầy quý tướng đẹp vô ngần,
Vua Sa-mya ấy liền lên tiếng
Cùng với lời trao đám cận thần:
3954. Detha luddassa vatthāni annaṃ pānañca bhojanaṃ, kāmaṃ karo hiraññassa yāvanto esa icchati.
3954. “Hãy ban cho gã thợ săn các vải vóc, cơm, nước, và vật thực. Hãy thực hiện ước muốn về vàng của gã; gã muốn chừng nào thì hãy ban cho gã chừng ấy.”
42. "Ban gã săn chim thức uống ăn,
Loại mềm, y phục đẹp oai hùng,
Vàng ròng cả khối màu hồng đỏ
Ban thật nhiều như dạ ước mong".
3955. Disvā luddaṃ pasannattaṃ kāsirājā tadābravi, yadāyaṃ samma khemaka puṇṇā haṃsehi tiṭṭhati.
43. Đại vương nhìn thấy kẻ đi săn,
Đẹp ý hân hoan, mới phán rằng:
"Hồ ấy, Khe-ma, đàn ngỗng đến
Hàng ngàn con để kiếm đồ ăn.
3956. Kathaṃ ruciṃ majjhagataṃ pāsahattho upāgami, okiṇṇaṃ ñātisaṅghehi nimajjhimaṃ kathaṃ gahi.
3956. –làm thế nào với chiếc bẫy cầm tay mà khanh đã đi đến gần con thiên nga đang vui chơi ở giữa bầy? Làm thế nào khanh đã bắt được con thiên nga hạng nhất được che khuất bởi tập thể thân quyến?”
44. Giữa cả đàn chim một giống dòng,
Làm sao khanh cố sức thi công
Chọn ra chim chúa này kiều diễm,
Và bắt Thiên nga vẫn sống chăng?"
3957. Ajja me sattamā ratti ādānāni upāsato, padametassa anvesaṃ appamatto ghaṭassito.
45. Bảy ngày ròng rã, dạ âu lo
Thần đã hoài công đánh dấu hồ,
Tìm vết Thiên nga này tuyệt đẹp,
Ẩn mình trong một cái lu to.
3958. Athassa padamaddakkhiṃ carato adanesanaṃ, tatthāhaṃ odahiṃ pāsaṃ evetaṃ dijamaggahiṃ.
46. Hôm nay thần thấy bãi chim ăn
Mà chính Thiên nga đã đến gần;
Lập tức chỗ kia thần đặt bẫy,
Thiên nga phút chốc bị sa chân.
3959. Ludda dve ime sakuṇā atha ekoti bhāsasi, cittannu te vipariyattaṃ ādu kinnu jigiṃsasi.
3959. “Này thợ săn, đây có hai con chim, mà khanh nói về một con. Vậy có phải tâm của khanh bị lầm lẫn, hay là khanh ao ước điều gì?”
47. Thợ săn trình chỉ một chim thôi,
Nhưng trẫm thấy đầy đủ cả đôi,
Nhầm lẫn gì chăng, khanh đến tặng
Trẫm đây thêm một chú chim trời?
3960. Yassa lohitakā tāḷā tapaneyyanibhā subhā, uraṃ saṃhacca tiṭṭhanti so me bandhaṃ upāgami.
48. Thiên nga có những sọc vàng hồng
Tất cả đều vòng xuống dưới thân,
Đã bị bắt vào trong chiếc bẫy,
Thần dâng đây đúng lệnh Minh quân.
3961. Athāyaṃ bhassaro pakkhī abaddho baddhamāturaṃ, ariyaṃ bruvāno aṭṭhāsi cajanto mānusiṃ giraṃ.
49. Chim tuyệt đẹp này được tự do
Vẫn ngồi bên cạnh bạn sa cơ,
Dùng lời lẽ thế nhân êm dịu
Cố sức làm cho bạn khỏi lo.
3962. Atha kinnu dāni sumukha hanuṃ saṃhacca tiṭṭhasi, ādu me parisaṃ patto bhayā bhīto na bhāsasi.
50. Sao ngươi im tiếng, hỡi Thiên nga,
Ta đoán phải chăng bởi sợ ta,
Đến trước quân vương, ngươi diện kiến,
Mà sao chẳng thốt một lời ra?
3963. Nāhaṃ kāsipati bhīto ogayha parisaṃ tava, nāhaṃ bhayā na bhāsissaṃ vākyaṃ atthasmiṃ tādise.
3963. “Tâu vị chúa của xứ Kāsi, tôi không bị khiếp đảm sau khi đi vào hội chúng của bệ hạ. Khi có cơ hội như thế này, không phải vì sợ hãi mà tôi không nói ra lời.”
51. Ta chẳng sợ gì, tấu Đại vương,
Khi trao lời giữa chốn triều đường,
Nếu cơ hội tốt nào đi đến,
Ta quyết sẽ không tránh luận bàn.
3964. Na te abhisaraṃ passe na rathe napi pattike, nāssa cammaṃva kīṭaṃ vā vammite ca dhanuggahe.
52. Chẳng bầy xạ thủ mặc quân bào,
Chẳng mão, chẳng da bảo hộ nào,
Không có tùy tùng người hoặc ngựa,
Cũng không xa, pháo để theo hầu.
3965. Na hiraññaṃ suvaṇṇaṃ vā nagaraṃ vā sumāpitaṃ, okiṇṇaparikhaṃ duggaṃ daḷhamaṭṭālakoṭṭhakaṃ, yattha paviṭṭho sumukha bhāyitabbaṃ na bhāyasi.
3965. –không vàng thô hay vàng ròng, hoặc thành phố đã khéo được kiến tạo với tường thành bao bọc, hiểm trở, với tháp canh và trạm gác vững chải, này chim Sumukha, nơi nào người đã đi vào, ngươi không sợ hãi vật đáng sợ hãi (ở nơi ấy).”
53. Chẳng thấy vàng đâu, chẳng thị thành,
Chẳng lâu đài tráng lệ quang vinh,
Tháp canh không có, phòng xâm phạm
Với lũy hào bao bọc bản doanh
Do tướng Mục-kha xây dựng vậy,
Không gì đáng sợ ở bên mình.
3966. Na me abhisarenattho nagarena dhanena vā, apathena pathaṃ yāma antalikkhe carā mayaṃ.
54. Chẳng ai bảo vệ, hoặc quân canh,
Chẳng muốn kim ngân hoặc thị thành,
Giữa chốn không gian, ta kiếm lối
Vân du khắp cả cõi trời xanh.
3967. Sutāva paṇḍitā tyamhā nipuṇā atthacintakā, bhāsematthavatiṃ vācaṃ saccevassa patiṭṭhito.
3967. Chúng tôi đã được nghe nói là sáng suốt, khôn khéo, có sự suy nghĩ tốt đẹp. Nếu bệ hạ đã an trú ở sự chân thật, chúng tôi sẽ nói lời nói có lợi ích.
55. Nếu ngài an trú lý Như chân,
Ta ước mong tuyến thuyết, Đại vương,
Bài học giúp cho ngài lợi lạc,
Bằng lời tinh tế lại khôn ngoan.
3968. Kiñca tuyhaṃ asaccassa anariyassa karissati, musāvādissa luddassa bhaṇitampi subhāsitaṃ.
3968. Và nếu bệ hạ không chân thật, không cao thượng, có lời nói dối trá, tàn bạo, thì lời khéo nói được nói ra sẽ làm được điều gì cho bệ hạ?
56. Song nếu Đại vương chỉ dối gian,
Một người tâm tính thật tồi tàn,
Lời người đặt bẫy này hùng biện
Chẳng ích gì cầu khẩn Đại vương.
3969. Taṃ brāhmaṇānaṃ vacanā imaṃ khemiṃ akārayi, abhayañca tayā ghuṭṭhaṃ imāyo dasadhā disā.
57. Nghe lời các vị Bà-la-môn,
Ngài dựng hồ lạc lẫy lừng,
Và đã truyền rao khắp thập hướng:
An toàn đây chỗ của chim muông.
3970. Ogayha te pokkharaṇiṃ vippasannodakaṃ suciṃ, pahūtañcādanaṃ tattha ahiṃsā cettha pakkhinaṃ.
58. Trong chốn hồ này thật tịnh thanh,
Các dòng nước phẳng lặng, trong xanh,
Chim muông thấy thức ăn phong phú
Sống cuộc đời an ổn trọn lành.
3971. Idaṃ sutvāna nigghosaṃ āgatamhā tavantike, te te baddhasmā pāsena etaṃ te bhāsitaṃ musā.
59. Nghe tiếng đồn này vọng thật xa,
Chúng ta thăm cảnh đẹp hoàng gia,
Than ôi! Mắc bẫy, ta tìm thấy
Lời hứa Quân vương hóa phỉnh phờ.
3972. Musāvādaṃ purakkhatvā icchālobhañca pāpakaṃ, ubhosandhiṃ atikkamma asātaṃ upapajjati.
60. Song lời dối trá khéo bao che
Hành động tham lam tội lỗi kia
Chẳng tái sinh thiên, người thế tục,
Thẳng đường địa ngục sẽ đưa về.
3973. Nāparajjhāma sumukha napi lobhā vamaggahiṃ, sutā ca paṇḍitātyattha nipuṇā atthacintakā.
61. Mục-kha, trẫm chẳng phạm sai lầm,
Trẫm chẳng bắt chim bởi dục tâm,
Đây chính nguyên nhân gây việc ấy:
Danh ngươi thông tuệ, trí cao thâm.
3974. Appevatthavatiṃ vācaṃ vyākareyyuṃ idhāgatā, tathā taṃ samma nesādo vutto sumukha maggahi.
62. "Nơi đây chắc hẳn chúng nêu ra
Chân thật, những lời ích lợi ta",
Nên kẻ bẫy chim, ta hạ lệnh,
Đem ngươi về đó, hỡi Thiên nga.
3975. Neva bhītā kāsipati upanītasmiṃ jīvite, bhāsematthavatiṃ vācaṃ sampattā kālapariyāyaṃ.
63. Ta chẳng thể tuyên thuyết thật chân,
Khi ta kinh hãi chết kề gần,
Cũng không hít thở hơi từ giã
Hấp hối phút giây của tử thần.
3976. Yo migena migaṃ hanti pakkhiṃ vā pana pakkhinā, sutena vā sutaṃ kiṇe kiṃ anariyataraṃ tato.
3976. Kẻ nào giết thú bằng thú mồi (đã được huấn luyện), hoặc giết chim bằng chim mồi, hoặc có thể cưỡng bức người thuyết giảng bằng tin đồn thất thiệt, có việc nào khác thô bỉ hơn việc ấy?
64. Ai muốn lấy chim để bẫy mồi,
Săn mồi bằng thú dữ tìm tòi,
Pháp sư đánh bẫy bằng bài giảng,
Kẻ ấy không sao khỏi đọa rồi.
3977. Yo ca ariyarudaṃ bhāse anariyadhammamavassito, ubho so dhaṃsate lokā idha ceva parattha ca.
65. Ai buông lời lẽ thật cao sang,
Dự định hành vi hạ liệt tràn,
Thì ở đời này, đời kế nữa,
Sa từ hạnh phúc đều đau buồn.
3978. Na majjetha yasaṃ patto na vyathe pattasaṃsayaṃ, vāyametheva kiccesu saṃvare vivarāni ca.
3978. Không nên say đắm khi đạt được danh vọng, không nên sầu khổ khi (lâm cảnh hiểm nghèo) có sự hoài nghi về mạng sống, nên nỗ lực trong các việc cần phải làm và nên che đậy các khuyết điểm.
66. Đừng say sưa quá phút vinh quang,
Cũng chớ khổ đau lúc hiểm nàn,
Hãy sửa lỗi lầm thành tốt đẹp,
Hết lòng phấn đấu trước tai ương.
3979. Ye vaddhā abbhatikkantā sampattā kālapariyāyaṃ, idha dhammaṃ caritvāna evete tidivaṃ gatā.
67. Bậc trí đến khi cuối cuộc đời,
Đã nhìn thấy đích tử thần rồi,
Sống trên trần đúng đường chân chánh,
Theo hướng đi lên đến cõi trời.
3980. Idaṃ sutvā kāsipati dhammamattani pālaya, dhataraṭṭhañca muñcāhi haṃsānaṃ pavaruttamaṃ.
68. Nghe những lời này, giữ chánh chân,
Mau mau giải phóng, hỡi Minh quân,
Dha-ta-ra ấy là chim chúa
Tuyệt thế Thiên nga giữa cả đàn.
3981. Āharantūdakaṃ pajjaṃ āsanañca mahārahaṃ, pañjarato pamokkhāmi dhataraṭṭhaṃ yasassinaṃ.
69. Mau hãy đi tìm nước rửa chân,
Đem vào đây cả chiếc kim đôn,
Hãy nhìn trẫm thả từ lồng ấy
Tối thượng Thiên nga ở cõi trần.
3982. Tañca senāpatiṃ dhīraṃ nipuṇaṃ atthacintakaṃ, yo sukho sukhito rañño dukkhite hoti dukkhito.
70. Cùng bậc anh hùng đại tướng quân,
Thật là tài giỏi lại tinh thông,
Dầu khi hoạn nạn hay vinh hiển
Đều dạy thiết thân với chúa công.
3983. Etādisā kho arahanti piṇḍamasnātu bhattuno, yathāyaṃ sumukho rañño pāṇasādhāraṇo sakhā.
71. Bậc chân chánh ấy xứng uy danh
Theo bước chúa công suốt lộ trình,
Vì đã sẵn sàng trang bị đủ
Với vua chia xẻ tử cùng sinh.
3984. Pīṭhañca sabbasovaṇṇaṃ aṭṭhapādaṃ manoramaṃ, maṭṭhaṃ kāsikapatthinnaṃ dhataraṭṭho upāvisi.
72. Chim chúa ngự trên một chiếc ngai,
Tám chân ngời chói, đặc vàng thoi
Bên ngoài có lụa Kà-si phủ,
Quang cảnh này trông thật tuyệt vời.
3985. Kocchañca sabbasovaṇṇaṃ veyyagghaparisibbitaṃ, sumukho ajjhupāvekkhi dhataraṭṭhassa anantaraṃ.
73. Sư-mục ngồi bên cạnh Điểu vương,
Tướng công trung tín lại can cường,
Ở trên bảo tọa trùm da hổ,
Tất cả đều nguyên cả khối vàng.
3986. Tesaṃ kañcanapattehi puthu ādāya kāsiyo, haṃsānaṃ abhihāresuṃ aggaṃ rañño pavāsitaṃ.
74. Nhiều chúa Kà-si đựng chén vàng
Chọn đầy thực phẩm đủ cao lương,
Mang vào mời cặp Thiên nga ấy
Tặng vật cúng dâng của Đại vương.
3987. Disvā abhihaṭaṃ aggaṃ kāsirājena pesitaṃ, kusalo khattadhammānaṃ tato pucchi anantarā.
75. Nghĩ thầm? "Lễ vật thật cao sang
Chúa tể Kà-si đã cúng dường,
Thông hiểu triều nghi nên ngỗng chúa
Như vầy cất tiếng hỏi quân vương.
3988. Kacci bhoto kusalaṃ kacci bhoto anāmayaṃ, kacci raṭṭhamidaṃ phītaṃ dhammenamanusissati.
76. "Đại vương, ngọc thể có khang an,
Vạn sự Đại vương thảy vẹn toàn,
Quý quốc hẳn là đang thịnh vượng,
Được ngài cai trị thật công bằng?"
3989. Kusalañceva me haṃsa atho haṃsa anāmayaṃ, atho raṭṭhamidaṃ phītaṃ dhammenamanusissati.
77. Nga vương, trẫm vẫn được khang an,
Vạn sự trẫm đây được vẹn toàn,
Bổn quốc hiện giờ rất thịnh vượng,
Hưởng nền cai trị thật công bằng.
3990. Kacci bhoto amaccesu doso koci na vijjati, kaccinnu te tavatthesu nāvakaṅkhanti jīvitaṃ.
78. Ngài có triều thần thật chánh chân,
Biết khuyên nhủ chúa, chẳng sai lầm,
Nếu cần, họ sẵn sàng liều chết
Vì chánh nghĩa và danh chúa công?
3991. Atho pi me amaccesu doso koci na vijjati, atho pi te mamatthesu nāvakaṅkhanti jīvitaṃ.
79. Trẫm có triều thần thật chánh chân,
Biết khuyên nhủ trẫm, chẳng sai lầm,
Nếu cần, họ sẵn sàng liều chết
Vì chánh nghĩa và danh quả nhân.
3992. Kacci te sādisī bhariyā assavā piyabhāṇinī, puttarūpayasūpetā tava chandavasānugā.
80. Phải chăng hoàng hậu cũng chung dòng,
Lời lẽ ôn nhu, biết phục tòng,
Diễm lệ, nhiều con, danh tiếng tốt,
Vâng chìu mọi Thánh ý Minh quân?
3993. Atho me sādisī bhariyā assavā piyabhāṇinī, puttarūpayasūpetā mama chandasānugā.
81. Trẫm nay có chánh hậu chung dòng,
Lời lẽ ôn nhu, biết phục tòng,
Diễm lệ, nhiều con, danh tiếng tốt,
Vâng chìu mọi ý trẫm cầu mong.
3994. Kacci raṭṭhaṃ anuppīḷaṃ akutoci upaddavaṃ, asāhasena dhammena samena manusissati.
82. Và nay quốc độ lạc an chăng,
Thoát được bao đàn áp bạo tàn,
Chẳng chịu độc tài, chuyên chế trị,
Hưởng nền cai trị thật công bằng?
3995. Atho raṭṭhaṃ anuppīḷaṃ akutoci upaddavaṃ, asāhasena dhammena samena manusissati.
83. Ngày nay vương quốc trẫm bình an
Thoát được bao đàn áp bạo tàn,
Chẳng chịu độc tài, chuyên chế trị,
Hưởng nền cai trị thật công bằng.
3996. Kacci santo apacitā asanto parivajjitā, no ce dhammaṃ niraṅkatvā adhammamanuvattasi.
84. Có xua ác đảng khỏi giang san
Đưa các thiện nhân đến vẻ vang,
Ngài có tránh xa điều chánh trực,
Hoặc theo đường lối bọn tà gian?
3997. Santo ca me apacitā asanto parivajjitā, dhammamevānuvattāmi adhammo me niraṅkato.
85. Trẫm xua ác đảng khỏi giang san,
Đưa các thiện nhân đến vẻ vang,
Trẫm quyết tránh xa bao ác hạnh,
Và theo đường lối bậc hiền lương.
3998. Kacci nānāgataṃ dīghaṃ samavekkhasi khattiya, kacci na matto madanīye paralokaṃ na santasi.
3998. “Tâu vị Sát-đế-lỵ, bệ hạ có quan tâm (mạng sống ở) tương lai là không dài lâu không? Bệ hạ có không say đắm các đối tượng làm cho say đắm không? Bệ hạ có không hãi sợ về kiếp sống sau không?”
86. Đại vương có thấy quãng đời mình
Đã vụt trôi qua thật quá nhanh,
Hãy mãi say sưa vì vọng tưởng
Nhìn thấy đời sau chẳng hãi kinh?
3999. Nāhaṃ anāgataṃ dīghaṃ samavekkhāmi pakkhima, ṭhito dasasu dhammesu paralokaṃ na santase.
87. Thiên nga, trẫm thấy quãng đời mình
Đã vụt trôi qua thật quá nhanh,
Nên vẫn hành trì Mười giới hạnh
Chẳng hề kinh hãi cõi lai sinh.
4000. Dānaṃ sīlaṃ pariccāgaṃ ajjavaṃ maddavaṃ tapaṃ, akkodhaṃ avihiṃsañca khantiñca avirodhanaṃ.
4000. Bố thí, trì giới, thí xả, ngay thẳng, nhu hòa, khắc khổ, không giận dữ, không hãm hại, nhẫn nại, và không đối chọi.
88. Bố thí, ăn năn, trí chánh chân,
Ôn nhu, hiền dịu, chuộng bình an,
Từ bi, nhẫn nhục, đầy thân ái,
Đạo đức không ô nhiễm bụi trần.
4001. Iccete kusale dhamme ṭhite passāmi attani, tato me jāyate pīti somanassañcanappakaṃ.
89. Những điều đức hạnh tận tâm can
Vững chắc vươn lên, thấy rõ ràng,
Từ đó nảy sinh nguồn hạnh phúc,
Hân hoan cho trẫm quý muôn vàn.
4002. Sumukho ca acintetvā vissaji pharusaṃ giraṃ, bhāvadosamanaññāya asmākāyaṃ vihaṅgamo.
4002. Còn con chim Sumukha này không suy nghĩ, không biết rõ khuyết điểm về bản thể của chúng tôi, nên đã tuôn ra lời nói khiếm nhã.
90. Song dù Sư-mục chẳng hề hay
Tội ác trẫm đâu có phạm này,
Vẫn cứ vô tình tuôn xối xả
Những lời thô lỗ, giọng nồng cay.
4003. So kuddho pharusaṃ vācaṃ nicchāresi ayoniso, yānasmāsu na vijjanti na idaṃ paññavatāmiva.
91. Ta chẳng biết chi các việc này,
Chim kia đổ trách nhiệm lầm đây,
Nói năng thô lỗ. Nên ta nghĩ:
Trí tuệ yếu non đã hiển bày.
4004. Atthi metaṃ atisāraṃ vegena manujādhipa, hataraṭṭhe ca baddhasmiṃ dukkhaṃ me vipulaṃ ahu.
92. Thần đã lỗi lầm với Đại vương,
Nói năng bừa bãi thật điên cuồng,
Song khi chim chúa này lâm nạn,
Lòng của hạ thần tựa nát tan.
4005. Tvaṃ no pitāva puttānaṃ bhūtānaṃ dharaṇīriva, asmākaṃ adhipannānaṃ khamassu rājakuñjara.
93. Như đất chứa đầy mọi chúng sinh,
Như người cha đối với con mình,
Đại vương, xin rộng lòng tha thứ
Lỗi chúng thần đây phạm đã đành.
4006. Etaṃ te anumodāma yaṃ bhāvaṃ na nigūhasi, khīlaṃ pabhindasī pakkhi ujukosi vihaṅgama.
4006. “Trẫm tùy hỷ với việc này của khanh, về việc khanh không che giấu bản thể. Khanh đã phá tan sự ngăn cách. Này chim, khanh thật thẳng thắn.”
94. Trẫm cám ơn Sư-mục tướng quân,
Khanh không hề dấu tính chơn thuần,
Khanh làm nhụt chí ta cương quyết
Trẫm thấy khanh cương trực, thật chân.
4007. Yaṃ kiñci ratanaṃ atthi kāsirājanivesane, rajataṃ jātarūpañca muttā veḷuriyā bahū.
95. Những gì châu báu với kim, ngân,
Bảo vật, ngọc trai, hoặc ngọc hồng
Ở tại Kà-si thành của trẫm,
Trữ trong kho báu chốn hoàng cung.
4008. Maṇayo saṅkhamuttañca vatthakaṃ haricandanaṃ, ajinaṃ dantabhaṇḍañca lohaṃ kālāyasaṃ bahuṃ, etaṃ dadāmi vo vittaṃ isseraṃ vissajāmi vo.
96. Đồng, sắt, vỏ sò, với ngọc trai,
Bảo châu vô số, đám ngà voi
Gỗ chiên-đàn quý màu vàng ánh,
Y phục cao sang, da hổ, nai,
Tất cả kho tàng, quyền trị nước,
Trẫm xin ban tặng hết cho ngài.
4009. Addhā apacitā tyamhā sakkatā ca rathesabha,dhammesu vattamānānaṃ tvaṃ no ācariyo bhava.
4009. “Quả thật chúng tôi đã được bệ hạ nể trọng và tôn vinh, tâu đấng thủ lãnh xa binh, trong lúc chúng tôi tiến hành các thiện pháp, bệ hạ hãy là vị thầy của chúng tôi.
97. Ngài muốn làm vinh dự chúng thần,
Xin hãy vui lòng, tấu Đại quân,
Làm Đạo sư cho thần học hỏi
Mười điều vương pháp để an dân.
4010. Ācariyasamanuññātā tayā anumatā mayaṃ, taṃ padakkhiṇato katvā ñātī passemarindama.
98. Rồi nếu chúng thần được Đại vương
Chuẩn phê đồng ý, lạc an tràn,
Chúng thần xin phép ngài từ biệt,
Và trở về thăm viếng họ hàng.
4011. Sabbarattiṃ cintayitvā mantayitvā yathā tathaṃ, kāsirājā anuññāsi haṃsānaṃ pavaruttamaṃ.
99. Kà-si chúa tể, suốt đêm thâu,
Chìm đắm trong tư tưởng thật sâu,
Sau đó vua bằng lòng chấp thuận
Theo lời vương điểu ấy yêu cầu.
4012. Tato ratyā vivasane suriyassuggamanaṃ pati,pekkhato kāsirājassa bhavanā te vigāhisuṃ.
4012. Sau đó, vào lúc cuối đêm, khi mặt trời mọc lên, trong lúc đức vua xứ Kāsi đang nhìn xem, hai con chim ấy đã lao đi từ cung điện của đức vua.
100. Cũng vừa lúc ấy mặt trời lên,
Ngày tỏa sáng dần mất bóng đêm,
Phút chốc đôi chim vừa khuất bóng
Trong vùng sâu thẳm của thanh thiên.
4013. Te aroge anuppatte disvāna parame dije, keketi makaruṃ haṃsā puthusaddo ajāyatha.
101. Nhìn chủ tướng chim được vạn an
Trở về từ cõi chết nhân gian.,
Đàn chim vỗ cánh kêu ầm ĩ
Chào đón chúa chim lại họp đàn.
4014. Te patītā pamuttena bhattunā bhattugāravā, samantā parikariṃsu aṇḍajā laddhapaccayā.
102. Vây quanh chúa tể chúng tôn sùng,
Tin tưởng, giờ đây đám ngỗng hồng
Kính cẩn nghiêng mình chào chúa tể,
Hân hoan vì chúa được an thân.
4015. Evaṃ mittavataṃ atthā sabbe honti padakkhiṇā, haṃsā yathā dhataraṭṭhā ñātisaṅghamupāgamun ”ti.
103. Ai có từ tâm ắt đạt thành .
Việc gì các vị ấy thi hành,
Như Thiên nga trở về bằng hữu
Lần nữa đôi chim được trọn lành.
Mahāhaṃsajātakaṃ.
***
Đại Bổn Sanh Thiên Nga. [534]
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada