3825. Sumukha anupacinantā pakkamanti vihaṅgamā, gaccha tuvampi mā kaṅkhi natthi baddhe sahāyatā.
3825. “Này Sumukha, các con chim bay đi không ngó ngàng. Ngươi cũng hãy đi đi, chớ ngần ngại. Không còn tình bằng hữu (với ngươi ở nơi ta) khi ta đã bị dính bẫy.”
1. Bầy chim không để ý gì ta,
Vội vã chúng bay biến thật xa,
Chim bị giam tìm đâu bạn hữu?
Bay ngay, đừng ở nán đây mà.
3826. Gacchevāhaṃ na vā gacche na tena amaro siyaṃ, sukhitaṃ taṃ upāsitvā dukkhitaṃ taṃ kathaṃ jahe.
2. Dù có đi hay ở vời ngài,
Ngày kia thần cũng phải lìa đời,
Thần theo ngài thuở còn vinh hiển,
Lúc khổ đau không thể bước rời.
3827. Maraṇaṃ vā tayā saddhiṃ jīvitaṃ vā tayā vinā, tadeva maraṇaṃ seyyo yañce jīve tayā vinā.
3827. Cái chết cùng với ngài hay là cuộc sống không có ngài, nếu sống mà không có ngài thì cái chết quả thật tốt hơn.
3. Hoặc thần phải chết với quân vương,
Hoặc sống đời hiu quạnh đoạn trường,
Thà chết ngay đây thì thật tốt
Còn hơn sống để khóc bi thương.
3828. Nesa dhammo mahārāja yaṃ taṃ evaṃ gataṃ jahe, yā gati tuyhaṃ sā mayhaṃ ruccate vihagādhipa.
4. Bỏ ngài không đúng nghĩa quân thần,
Khi ở trong tình cảnh đáng buồn,
Thần sẽ rất hài lòng mãn nguyện
Cùng ngài chung số phận phong trần.
3829. Kā nu pāsena baddhassa gati aññā mahānasā, sā kathaṃ cetayānassa muttassa tava ruccati.
5. Số phận nào cho chim bị giam,
Ngoại trừ dây nướng thịt hung tàn,
Tự do, trí vẫn còn suy nghĩ,
Sao có thể đành chịu bỏ thân?
3830. Kaṃ vā tvaṃ passase atthaṃ mama tuyhañca pakkhima, ñātīnaṃ vāvasiṭṭhānaṃ ubhinnaṃ jīvitakkhaye.
3830. Này loài có cánh, hay là ngươi nhìn thấy lợi ích gì cho ta, và cho ngươi, hoặc cho các thân quyến còn lại, khi có sự chấm dứt mạng sống của cả hai ta?
6. Có lợi gì khanh hoặc với ta
Từ đây, khanh xét thấy, Thiên nga,
Lợi gì quyến thuộc ta còn sống
Nếu cả hai ta phải chết mà?
3831. Yaṃ nu kañcanadepiccha andhena tamasā gataṃ, tādise sañcajaṃ pāṇaṃ kamattham abhijotaye.
3831. Này loài có cặp cánh vàng, việc từ bỏ mạng sống như thế ấy của ngươi được làm trong đêm đen, trong bóng tối thì giải thích được điều gì?
”7. Kim Nga, nghĩa cử của hiền khanh
Sẽ bị màn đêm phủ thật nhanh,
Hành động hy sinh này biểu lộ
Đức gì nếu đặt dưới bình minh?
3832. Kathannu patataṃ seṭṭha dhamme atthaṃ na bujjhase, dhammo apacito santo atthaṃ dasseti pāṇinaṃ.
3832. “Tâu bậc cao cả của loài chim, tại sao ngài vẫn không thấu hiểu mục đích ở đạo lý? Đạo lý, trong khi được tôn trọng, chỉ cho chúng sanh thấy được mục đích.
8. Ngài không thấy, hỡi Thiên nga vương,
Hạnh phúc theo sau việc Chánh chân?
Chánh nghĩa được tôn sùng xứng đáng
Dạy cho người thực chất hiền lương.
3833. Sohaṃ dhammaṃ avekkhanto dhammā catthaṃ samuṭṭhitaṃ, bhattiñca tayi sampassaṃ nāvakaṅkhāmi jīvitaṃ.
3833. Thần đây, trong lúc xem xét về đạo lý và mục đích phát xuất từ đạo lý, trong lúc nhìn thấy sự hy sinh ở ngài, thần không trông mong sự sống còn.
9. Thấy Chân chánh, tất cả việc lành
Có thể từ Chân chánh phát sinh,
Vì đã quý yêu ngài thắm thiết,
Thần hân hoan phóng xả thân mình.
3834. Addhā eso sataṃ dhammo yo mitto mittamāpade, naccaje jīvitassāpi hetu dhammaṃ anussaraṃ.
10. Nếu biết điều Chân chánh, chúng ta
Không hề bỏ bạn lúc sa cơ,
Cho dù phải cứu mình đi nữa,
Bậc trí khuyên đây Chánh nghĩa mà.
3835. Svāyaṃ dhammo ca te ciṇṇo bhatti ca viditā mayi, kāmaṃ karassu mayhetaṃ gacchevānumato mayā.
3835. “Pháp ấy đã được ngươi thực hành và sự hy sinh ở ta đã được ngươi biết. Ngươi hãy thực hiện điều mong muốn ấy của ta. Đã được ta cho phép, ngươi hãy đi ngay.
11. Chánh nghĩa của khanh đã thực hành,
Trong khi ta nhận thấy chân tình,
Đi ngay, nếu thật khanh mong muốn
Làm việc mà ta rất tán thành.
3836. Api tvevaṃ gate kāle yaṃ baddhaṃ ñātīnaṃ mayā, tayā taṃ buddhisampanna assa paramasaṃvutaṃ.
3836. Hơn nữa, khi ta đã bị dính bẫy như vậy, ta đã có sự gắn bó với các thân quyến, này vị có trí giác ngộ, ngươi nên gìn giữ hết mức về việc ấy.”
12. Có lẽ các dây thuở đã qua
Buộc ràng quyến thuộc dưới quyền ta
Kịp thời chuyển đến khanh sau đó
Với trí, tài điều khiển vượt xa.
3837. Iccevaṃ mantayantānaṃ ariyānaṃ ariyavuttinaṃ, paccadissatha nesādo āturānamivantako.
3837. Trong khi hai con chim đang trao đổi về lối cư xử cao thượng của của các bậc cao thượng như vậy, gã bẫy chim đã xuất hiện, tựa như Thần Chết đã hiện ra đối với những kẻ bị bệnh tật.
13. Trong khi đôi bạn quý cao này
Trao đổi tâm tư tuyệt diệu vầy,
Hãy ngắm, gã săn chim táo bạo
Hiện ra trước mắt chúa tôi đây
Khác gì Thần chết đang đi đến
Trước kẻ liệt giường khốn khổ thay.
3838. Te sattuṃ abhisaṃcikkha dīgharattaṃ hitā dijā, tuṇhīmāsittha ubhayo na ca sañcesumāsanā.
3838. Sau khi nhìn thấy kẻ thù đang đi đến, hai con chim ấy, hai người bạn thâm giao, đã ngồi im lặng, và cả hai đã không nhúc nhích khỏi chỗ ngồi.
14. Đôi bạn thấy kia một kẻ thù
Nên lòng lo sợ, nặng ưu tư,
Lặng yên đậu đó không di chuyển
Khi gã đến gần tự nẻo xa.
3839. Dhataraṭṭhe ca disvāna samuḍḍente tato tato, abhikkamatha vegena dvijasattu dvijādhipe.
3839. Sau khi nhìn thấy hai con chim thiên nga đang bay lên từ chỗ này chỗ nọ, kẻ thù của loài chim đã hấp tấp đi đến gần hai con chim chúa.
15. Thấy bầy ngỗng nọ đã bay tung
Đây đó, biến dần giữa cõi không,
Nơi chốn đôi chim cao thượng đậu,
Cừu nhân vội vã tiến lên gần.
3840. So ca vegenabhikkamma āsajja parame dije, paccakampittha nesādo baddhā iti vicintayaṃ.
3840. Và sau khi đã hấp tấp đi đến kế cận hai con chim ưu tú, gã bẫy chim đã phân vân suy nghĩ rằng: “Chúng đã bị dính bẫy hay chưa?”
16. Trong lúc gã đang vội bước chân,
Đến nơi định mệnh đã dành phần,
Thợ săn rung động vì tư tưởng,
Kêu lớn: "Bầy chim bị bắt không?"
3841. Ekañca baddhamāsīnaṃ abaddhañca punāparaṃ, āsajja baddhamāsīnaṃ pekkhamānamadīnavaṃ.
17. Gã thấy một chim trong bẫy giăng,
Và con chim nọ gã nhìn sang
Chăm lo chim bạn đang tù hãm,
Còn nó không xiềng xích buộc ràng.
3842. Tato so vimato yeva paṇḍare ajjhabhāsatha, pavaddha kāye āsīne dijasaṅghagaṇādhipe.
3842. Do đó, bị phân vân thật sự, gã ấy đã nói với hai con chim thiên nga có thân hình to lớn, đang ngồi, chúa bầy của đàn chim, rằng:
18. Hoang mang trí óc lẫn hoài nghi,
Gã ngắm đôi chim cao thượng kia,
Khôn lớn cả đôi, cùng đẹp mã,
Gã liền cất tiếng, giọng từ bi:
3843. Yannu pāsena mahatā baddho na kurute disaṃ, atha kasmā abaddho tvaṃ balī pakkhī na gacchasi.
19. Đành rằng chim bị bắt trong dây
Không thể bao giờ cất cánh bay,
Ngươi vẫn tự do và lớn mạnh,
Sao ngươi quyết ở với chim này?
3844. Kinnu tāyaṃ dijo hoti mutto baddhaṃ upāsasi, ohāya sakuṇā yanti kiṃ eko avahīyasi.
20. Với ngươi, chim có họ hàng gì,
Khi cả đàn kia đã trốn di,
Dầu được tự do, ngươi ở lại,
Bên chim bị bắt một mình kia?
3845. Rājā meso dijāmitta sakhā pāṇasamo ca me, neva naṃ vijahissāmi yāva kālassa pariyāyaṃ.
21. Hỡi cừu nhân của đám Thiên nga,
Ngài chính quân vương, vốn bạn mà,
Thân thiết như đời ta chẳng khác,
Ồ không, ta chẳng muốn bao giờ
Bỏ ngài trong lúc ngài lâm nạn.
Cho đến khi Thần chết gọi ta.
3846. Kathaṃ panāyaṃ vihago nāddasā pāsamoḍḍitaṃ, padaṃ hetaṃ mahantānaṃ boddhumarahanti āpadaṃ.
3846. “Làm thế nào con chim này lại không nhìn thấy cái bẫy đã được giăng ra? Bởi vì những kẻ trưởng thành đều có bản tánh này; chúng có khả năng nhận biết sự rủi ro.”
22. Chim này không phát hiện hay sao
Chiếc bẫy người giăng kín thế nào?
Phận sự của anh hùng tướng lãnh
Là đề phòng hiểm họa gian lao.
3847. Yadā parābhavo hoti poso jīvitasaṅkhaye, atha jālañca pāsañca āsājjapi na bujjhati.
23. Khi người sắp gặp bước suy tàn,
Giờ Tử thần đang tiến lại gần,
Dù bạn đến kề bên chiếc bẫy,
Cũng không thấy bẫy sập dây giăng!
3848. Api tveva mahāpañña pāsā bahuvidhā tatā, gūḷhamāsajja bajjhanti athevaṃ jīvitakkhaye.
24. Bẫy dù đủ loại, hỡi chim Thần,
Đôi lúc đặt ra chỉ uổng công,
Đến phút cuối cùng do định mệnh
Con người bị bẫy kín, thương vong.
3849. Api nāyaṃ tayā saddhiṃ sambhāsassa sukhudrayo, api no anumaññasi api no jīvitaṃ dade.
25. Có phải đây là kết quả lành
Do lời thân thiện với tôn huynh
Xin người tha mạng đôi ta với,
Ta được tự do giải thoát nhanh.
3850. Na ceva me tvaṃ baddhosi napi icchāmi te vadhaṃ, kāmaṃ khippamito gantvā jīva tvaṃ anigho ciraṃ.
26. Này chim, ngươi chẳng bị giam mình,
Hãy chạy đi, mau chạy thật nhanh,
Ta chẳng muốn thân ngươi đổ máu,
Bình an, hãy sống chuỗi ngày xanh.
3851. Na vāhametaṃ icchāmi aññatretassa jīvitā, sace ekena tuṭṭhosi muñcetaṃ mañca bhakkhaya.
27. Ta không tha thiết sống riêng ta,
Nếu bạn ta đây phải chết mà,
Xin hãy vui lòng tha vị ấy,
Thịt ta thay thế chúa Thiên nga.
3852. Ārohapariṇāhena tulyasmā vayasā ubho, na te lābhena jīnatthi etena niminā tuvaṃ.
28. Chúng ta về tuổi tác tương đồng,
Cùng cỡ rộng dài các cẳng chân,
Không mất gì, dù người đổi lấy
Mạng ta thay thế mạng quân vương.
3853. Tadiṅgha samavekkhassu hotu giddhi tavāsmasu, maṃ pubbe bandha pāsena pacchā muñca dijādhipaṃ.
29. Hãy xét xem ta với cách này,
Thỏa lòng thèm muốn với ta đây,
Trước tiên hãy buộc ta vào bẫy,
Rồi để chúa chim giải thoát ngay.
3854. Tāvadeva ca te lābho katassa yācanāya ca, mitti ca dhataraṭṭhehi yāvajīvāya te siyā.
30. Do đó người thành tựu ước mong,
Và ta đạt nguyện vọng trong lòng,
Thiên nga, Tôn giả đều hòa hợp
Trong lúc đời trôi mãi chẳng dừng.
3855. Passantu no mahāsaṅghā tayā muttaṃ ito gataṃ, mittāmaccā ca bhattā ca puttadārā ca bandhavā.
31. Xin làm chứng, các bậc hiền nhân
Nô lệ, họ hàng, các bạn thân,
Do chính một mình ngươi cứu giúp
Chúa chim đượcgiải thoát giam cầm.
3856. Na ca te tādisā mittā bahunnaṃ idha vijjati, yathā tvaṃ dhataraṭṭhassa pāṇasādhāraṇo sakhā.
32. Ít ai có được một thân bằng
Như chính ngươi đang thật sẵn sàng
Chia xẻ cùng nhau chung số phận
Khi chim chúa gặp bẫy vong thân.
3857. So te sahāyaṃ muñcāmi hotu rājā tavānugo, kāmaṃ khippamito gantvā ñātimajjhe virocatha.
33. Vậy chúa chim này, ta thả ra
Bạn ngươi, theo gót cũng bay xa,
Mau lên, giữa đám chim thân thuộc
Ngươi sẽ như sao chiếu sáng lòa.
3858. So patīto pamuttena bhattunā bhattugāravo, ajjhabhāsatha vakkaṅgo vācaṃ kaṇṇasukhaṃ bhaṇaṃ.
34. Hoan hỷ nhìn chim chúa thoát thân
Ngỗng làm vinh dự đấng minh quân,
Và êm tai kẻ làm ân phước,
Bằng những lời hay đẹp nhất trần:
3859. Evaṃ luddaka nandassu saha sabbehi ñātibhi, yathāhamajja nandāmi muttaṃ disvā dijādhipaṃ.
35. "Lạp hộ, cùng thân quyến cả nhà,
Mong chư vị hạnh phúc chan hòa
Như ta hạnh phúc khi nhìn thấy
Chim chúa Thiên nga được thả ra".
3860. Ehi taṃ anusikkhāmi yathā tuvampi lacchase, lābhaṃ yathāyaṃ dhataraṭṭho pāpaṃ kiñci na dakkhati.
3860. Ông hãy đến, tôi chỉ bảo ông để ông cũng sẽ đạt được lợi lộc, để chim chúa Dhataraṭṭha này không nhìn thấy bất cứ điều gì xấu xa của ông.
36. Nhanh lên, ta sẽ dạy cho người
Phương cách tìm ra thật lắm lời,
Khi thấy đại danh chim ngỗng chúa,
Chẳng mang tỳ vết nhỏ nhất đời.
3861. Khippamantepuraṃ netvā rañño dassehi no ubho, abaddhe pakatībhūte kāje ubhayato ṭhite.
37. Mau đem ta đến chốn triều đường,
Thân thể bình an được vẹn toàn,
Đứng ở mỗi đầu, không trói buộc,
Phía trên đòn gánh của người mang.
3862. Dhataraṭṭhā mahārāja haṃsādhipatino ime, ayaṃ hi rājā haṃsānaṃ ayaṃ senāpatītaro.
38. Rồi người hãy nói: "Tấu Minh quân,
Thần đến mang theo cặp ngỗng hồng,
Một chủ tướng đầu đàn ngỗng ấy,
Còn chim kia chính Thiên nga vương".
3863. Asaṃsayaṃ imaṃ disvā haṃsarājaṃ narādhipo, patīto sumano vitto bahuṃ dassati te dhanaṃ.
39. Chúa tể loài người ấy ngắm xem
Thiên nga vương giả, sẽ bừng lên
Bao niềm hoan hỷ và sung sướng,
Sẽ tặng người vô số bạc tiền.
3864. Tassa taṃ vacanaṃ sutvā kammanā upapādayi, khippamantepuraṃ gantvā rañño haṃse adassayi, abaddhe pakatībhūte kāje ubhayato ṭhite.
40. Vội làm khi gã mới nghe xong
Việc các chim mong tận cõi lòng,
Đem cặp hồng nga vào bệ kiến,
Bình an, thân thể mạnh hoàn toàn,
Đậu kia, chẳng có gì ràng buộc,
Trên mỗi đầu đòn gánh gã mang.
3865. Dhataraṭṭhā mahārāja haṃsādhipatino ime, ayaṃ hi rājā haṃsānaṃ ayaṃ senāpatītaro.
41. Rồi người ấy nói: "Tấu Minh quân
Thần đến mang theo cặp ngỗng hồng,
Một chủ tướng đầu đàn ngỗng ấy,
Còn chim kia chính Thiên nga vương.
3866. Kathaṃ panīme vihagā tava hatthattham āgatā, kathaṃ luddo mahantānaṃ issaremidhamajjhagā.
3866. “Nhưng làm thế nào những con chim này đã sa vào trong tay của khanh? Làm thế nào thợ săn đã đạt đến nơi này, ở lãnh địa của các con vật to lớn?”
42. "Kìa, những chim này mạnh biết bao,
Trở thành mồi bẫy của ngươi sao,
Sao ngươi bò tới gần bên chúng
Chẳng khiến chúng kinh hãi tẩu đào?"
3867. Vihitā santime pāsā pallalesu janādhipa, yaṃ yadāyatanaṃ maññe dijānaṃ pāṇarodhanaṃ.
43. "Trong ao hồ, khải tấu Minh quân,
Xin hãy ngắm xem bẫy lưới giăng,
Trong mọi chốn loài chim trú ẩn,
Bẫy thường được đặt tạo thương vong.
3868. Tādisaṃ pāsamāsajja haṃsarājā abajjhatha, taṃ abaddho upāsīno mamāyaṃ ajjhabhāsatha.
3868. Con chim thiên nga chúa đã đi đến gần bẫy sập như thế ấy và đã bị dính bẫy. Còn con chim không bị dính bẫy này, ngồi gần con chim ấy, đã đối đáp với thần.
44. Chính trong một bẫy kín như vầy
Thần đã bắt chim chúa ngỗng này,
Chim bạn tự do ngồi kế cận
Và mong cầu chúa thoát tù đày.
3869. Sudukkaraṃ anariyehi dahate bhāvamuttamaṃ, bhatturatthe parakkanto dhamme yutto vihaṅgamo.
45. Chim này làm phận sự hơn xa
Thành tựu phàm nhân đạt đến mà,
Cương quyết tập trung toàn nỗ lực
Làm cho chim chúa được buông tha.
3870. Attanāyaṃ cajitvāna jīvitaṃ jīvitāraho, anutthunanto āsīno bhattu yācittha jīvitaṃ.
3870. Con chim này, sau khi từ bỏ bản thân, là xứng đáng với mạng sống. Trong lúc ngồi kể lể, nó đã cầu xin mạng sống cho chim chúa.
46. Chim đằng kia muốn chịu hy sinh,
Xứng đáng hưởng thêm cuộc sống mình,
Ví thử chúa chim này được sống,
Chúa chim đã được bạn tôn vinh.
3871. Tassa taṃ vacanaṃ sutvā pasādamahamajjhagaṃ, tato naṃ pāmuciṃ pāsā anuññāsiṃ sukhena ca.
47. Nghe những lời chim ấy giải bày,
Tiểu thần liền đạt phước ân ngay,
Hân hoan giải phóng chim tù tội,
Ra lệnh đôi chim cất cánh bay.
3872. So patīto pamuttena bhattunā bhattugāravo, ajjhabhāsatha vakkaṅgo vācaṃ kaṇṇasukhaṃ bhaṇaṃ.
48. Hoan hỷ nhìn chim chúa thoát thân,
Ngỗng làm vinh dự đấng minh quân,
Và êm tai kẻ làm ân phước
Bằng những lời hay đẹp nhất trần:
3873. Evaṃ luddaka nandassu saha sabbehi ñātibhi,yathāhamajja nandāmi muttaṃ disvā dijādhipaṃ.
49. "Lạp hộ, cùng thân quyến họ hàng,
Mong chư vị hạnh phúc muôn vàn
Như ta hạnh phúc khi nhìn thấy
Chúa chim Thiên nga được thoát nạn,
3874. Ehi taṃ anusikkhāmi yathā tvamapi lacchase, lābhaṃ yathāyaṃ dhataraṭṭho pāpaṃ kiñci na dakkhati.
3874. Ông hãy đến, tôi chỉ bảo ông để ông cũng sẽ đạt được lợi lộc, để chim chúa Dhataraṭṭha này không nhìn thấy bất cứ điều gì xấu xa của ông.
50. Nhanh lên, ta sẽ dạy cho người
Phương cách tìm ra thật lắm lời,
Khi thấy đại danh chim ngỗng chúa
Chẳng mang tỳ vết nhỏ nhất đời.
3875. Khippamantepuraṃ gantvā rañño dassehi no ubho, abaddhe pakatībhūte kāje ubhayato ṭhite.
51. Mau đem ta đến chốn triều đường,
Thân thể bình an được vẹn toàn,
Đứng ở mỗi đầu, không trói buộc,
Phía trên đòn gánh của người mang.
3876. Dhataraṭṭhā mahārāja haṃsādhipatino ime, ayaṃ hi rājā haṃsānaṃ ayaṃ senāpatītaro.
52. Rồi người hãy nói: "Tấu Minh quân,
Thần đến mang theo cặp ngỗng hồng,
Một chủ tướng đầu đàn ngỗng ấy,
Còn chim kia chính Thiên nga vương".
3877. Asaṃsayaṃ imaṃ disvā haṃsarājaṃ narādhipo, patīto sumano vitto bahuṃ dassati te dhanaṃ.
53. Chúa tể loài người ấy ngắm xem
Thiên nga vương giả, sẽ bừng lên
Bao niềm hoan hỷ và sung sướng,
Sẽ tặng người vô số bạc tiền .
3878. Evametassa vacanā ānītāme ubho mayā, ettheva hi ime assu ubho anumatā mayā.
3878. Như vậy, theo lời nói của chim ấy, cả hai con chim này đã được thần đưa đi, và chúng đã có mặt ở ngay tại nơi này, (mặc dù) cả hai đã được thần cho phép ra đi.
54. Do vậy, theo lời chim bảo ban
Thần đưa đôi ngỗng đến triều đường,
Mặc dù chúng tự do tìm kiếm
Nơi trú bình an ở núi ngàn.
3879. Soyaṃ evaṃ gato pakkhī dijo paramadhammiko, mādisassa hi luddassa janayeyyātha maddavaṃ.
55. Chim kia có số phận như vầy,
Dù thật chánh chân đến thế này
Có thể chuyển lay lòng trắc ẩn
Thợ săn hung bạo tựa thần đây.
3880. Upāyanaṃ hi te deva nāññaṃ passāmi edisaṃ, sabbasākuṇīkagāme taṃ passa manujādhipa.
56. Thiên nga này, khải tấu Minh quân,
Tặng vật tiểu thần đến hiến dâng,
Giữa những chốn người săn đặt bẫy,
Hiếm khi tìm được vật ngang bằng.
3881. Disvā nisinnaṃ rājānaṃ pīṭhe sovaṇṇaye subhe, ajjhabhāsatha vakkaṅgo vācaṃ kaṇṇasukhaṃ bhaṇaṃ.
57. Giờ đây nhìn thấy đấng quân vương
An tọa kim đôn sáng rỡ ràng,
Chim ngỗng dùng âm thanh dịu ngọt
Làm êm tai chúa tể trần gian.
3882. Kacci nu bhoto kusalaṃ kacci bhoto anāmayaṃ, kacci raṭṭhamidaṃ phītaṃ dhammena manusissati.
58. "Đại vương, ngọc thể có khang an,
Vạn sự Đại vương thảy vẹn toàn,
Quý quốc hẳn là đang thịnh vượng,
Được ngài cai trị thật công bằng?"
3883. Kusalañceva me haṃsa atho haṃsa anāmayaṃ, atho raṭṭhamidaṃ phītaṃ dhammena manusissati.
59. Nga vương, trẫm vẫn được khang an,
Vạn sự trẫm đây được vẹn toàn,
Bổn quốc hiện giờ rất thịnh vượng,
Hưởng nền cai trị thật công bằng.
3884. Kacci bhoto amaccesu doso koci na vijjati, kaccinnu te tavatthesu nāvakaṅkhanti jīvitaṃ.
3884. “Có phải bất cứ lỗi lầm nào đều không tìm thấy ở các quan đại thần của bệ hạ? Có phải họ không tiếc rẻ mạng sống cho những mục đích của bệ hạ?”
60. Ngài có triều thần thật chánh chân,
Biết khuyên nhủ chúa, chẳng sai lầm,
Nếu cần, họ sẵn sàng liều chết
Vì chánh nghĩa và danh chúa công?
3885. Athopi me amaccesu doso koci na vijjati, athopi te mamatthesu nāvakaṅkhanti jīvitaṃ.
3885. “Bất cứ lỗi lầm nào cũng đều không tìm thấy ở các quan đại thần của trẫm. Họ không tiếc rẻ mạng sống cho những mục đích của trẫm.”
61. Trẫm có triều thần thật chánh chân,
Biết khuyên nhủ trẫm, chẳng sai lầm,
Nếu cần, họ sẵn sàng liều chết
Vì chánh nghĩa và danh quả nhân.
3886. Kacci te sādisī bhariyā assavā piyabhāṇinī, puttarūpayasūpetā tava chandavasānugā.
62. Phải chăng hoàng hậu cũng chung dòng,
Lời lẽ ôn nhu, biết phục tòng,
Diễm lệ, nhiều con, danh tiếng tốt,
Vâng chiều mọi Thánh ý Minh quân?
3887. Atho me sādisī bhariyā assavā piyabhāṇinī, puttarūpayasūpetā mama chandavasānugā.
63. Trẫm nay có chánh hậu chung dòng,
Lời lẽ ôn nhu biết phục tòng,
Diễm lệ, nhiều con, danh tiếng tốt,
Vâng chiều mọi ý trẫm cầu mong.
3888. Bhavaṃ tu kacci nu mahāsattuhatthatthataṅgato, dukkhamāpajji vipulaṃ tasmiṃ paṭhamamāpade.
64. Khi vận rủi kia đưa đẩy ngài,
Đến cừu nhân tối hiểm trên đời,
Khi ngài gặp phải tay người ấy,
Ngài đã chịu bao thống khổ rồi?
3889. Kacciyaṃ nāpatitvāna daṇḍena samapoṭhayi, evametesaṃ jammānaṃ pākatikaṃ bhavati tāvade.
3889. Vậy có phải gã này đã lao đến và đánh đập ngài bằng cây gậy? Bản tánh tự nhiên của những kẻ đáng khinh này vào lúc ấy là như vậy.”
65. Gã kia có chạy, gậy trong tay
Đánh đập các ngài, nói trẫm hay?
Với những con người gian ác ấy
Trẫm thường nghe nói cách như vầy.
3890. Khemamāsi mahārāja evamāpadi saṃsati, na cāyaṃ kiñcirasmāsu sattūva samapajjatha.
66. Ta không hề gặp bước gian nan
Trong lúc lòng ta vẫn nhớ ơn
Kẻ ấy chẳng bao giờ đối xử
Với ta như những bọn cừu nhơn.
3891. Paccakampittha nesādo pubbeva ajjhabhāsatha, tadāyaṃ sumukhoyeva paṇḍito paccabhāsatha.
67. Người bẫy chim run rẫy, ngạc nhiên,
Cầu mong hỏi chuyện của đôi chim,
Và Sư-mục, tướng quân khôn nhất,
Đã trả lời ngay kẻ ấy liền.
3892. Tassa taṃ vacanaṃ sutvā pasādamayamajjhagā, tato maṃ pāmucī pāsā anuññāsi sukhena ca.
68. Nghe những lời chim tuớng giải bày
Người kia liền đạt phước ân ngay,
Hân hoan giải thoát ta từ bẫy,
Ra lệnh đôi ta cất cánh bay.
3893. Idampi sumukheneva etadatthāya cintitaṃ, bhoto sakāse āgamanaṃ etassa dhanamicchatā.
3893. Trong khi ước muốn tài sản cho gã thợ săn, vì lợi ích của gã ấy, chính Sumukha đã suy xét việc đi đến yết kiến bệ hạ.”
69. Tâu Đại vương, Sư-mục ước mong
Đến đây và yết kiến long nhan,
Nghĩ rằng người bẫy chim thân hữu
Sẽ kiếm ra vô số bạc vàng.
3894. Svāgatañcevidaṃ bhavataṃ patīto casmi dassanā, eso api bahuṃ vittaṃ labhataṃ yāvaticchati.
70. Cung nghênh các vị, đúng hoàn toàn,
Trẫm thật hân hoan gặp bạn vàng,
Hiền hữu bẫy chim rồi sẽ nhận
Thỏa lòng mọi tặng vật trần gian.
3895. Santappayitvā nesādaṃ bhogehi manujādhipo, ajjhabhāsatha vakkaṅgaṃ vācaṃ kaṇṇasukhaṃ bhaṇaṃ.
3895. Sau khi làm thỏa mãn gã bẫy chim bằng các của cải, vị chúa của loài người, trong khi thốt lên lời nói êm tai, đã nói với chim thiên nga chúa rằng:
71. Quân vương rộng lượng đã truyền ban
Người bẫy chim vô số bạc vàng,
Sau đó hồng nga cất tiếng nói
Âm thanh mê mẩn cả tâm can.
3896. Yaṃ khalu dhammamadhīnaṃ vaso vattati kiñcanaṃ, sabbatthissariyaṃ bhavataṃ pasāsatha yadicchatha.
3896. “Thật vậy, quyền lực giải quyết bất cứ việc gì thuộc về đạo đức, tất cả quyền hành đều thuộc về các ngài. Các ngài hãy chỉ thị điều các ngài muốn.
72. Những gì trẫm có, đúng công bằng
Những vật trẫm đòi hỏi chánh chân,
Sẽ chuyển qua quyền ngài thọ hưởng,
Nếu ngài nêu nguyện ước trong tâm.
3897. Dānatthaṃ upabhottuṃ vā yañcaññaṃ upakappati, etaṃ dadāmi vo vittaṃ isseraṃ vissajāmi vo.
73. Dẫu ngài đem bố thí ban ân,
Hoặc sử dụng, hay muốn hưởng phần,
Trẫm nhượng quyền hành cùng tất cả,
Và giao ngài cả chiếc ngai vàng.
3898. Yathā ca myāyaṃ sumukho ajjhabhāseyya paṇḍito, kāmasā buddhisampanno taṃ myāssa paramappiyaṃ.
74. Trí hiền Sư-mục thật tinh thông,
Ví thử nói ra tự nguyện lòng
Chỉ một hai lời thôi cũng đủ
Trẫm đây hạnh phúc bội muôn phần.
3899. Ahaṃ khalu mahārāja nāgarājārivantaraṃ, paṭivattuṃ na sakkomi na me so vinayo siyā.
75. Xin tâu Chúa thượng, trước Minh quân,
Đúng phép, tôi không dám nói năng
Dù chỉ một đôi lời nhỏ mọn,
Khác nào vương tử của Long thần.
3900. Amhākañceva yo seṭṭho tvañca uttamasattavo, bhūmipālo manussindo pūjā bahūhi hetuhi.
76. Vì chúa hồng nga hiện diện đây,
Và ngài Đại đế tối cao vầy,
Có quyền đòi hỏi đầy chân chánh
Niềm kính trọng tôi phải tỏ bày.
3901. Tesaṃ ubhinnaṃ bhaṇataṃ vattamāne vinicchaye, nāntaraṃ paṭivattabbaṃ pessena manujādhipa.
77. Thần tôi hèn mọn, tấu Quân vương,
Nên chẳng dám can thiệp luận bàn,
Khi nhị Đại vương đang nghị sự
Bao điều quan trọng giữa triều đường.
3902. Dhammena kira nesādo paṇḍito aṇḍajo iti, naheva akatattassa nayo etādiso siyā.
78. Người bẫy chim ca tụng nhiệt tình
Chim này trí tuệ, tuyệt thông minh,
Tinh khôn như vậy đâu tìm thấy
Ở kẻ trí chưa được học hành.
3903. Evaṃ aggapakatimā evaṃ uttamasattavo, yāvatatthi mayā diṭṭhā nāññaṃ passāmi edisaṃ.
79. Trong đám chim cao quý trẫm xem
Chim này vô địch giữa đàn em,
Tối cao đức tính chim đầy đủ
Đệ nhất hữu tình vượt hẳn lên.
3904. Tuṭṭhosmi vo pakatiyā vākyena madhurena ca, eso cāpi mama chando ciraṃ passeyya vo ubho.
80. Hình dáng thanh cao, giọng ngọt ngào
Khiến lòng mê mẩn biết dường nào,
Ước mong của trẫm là hai vị
Ở mãi bên mình thỏa ước.
3905. Yaṃ kiccaṃ parame mitte katarasmāsu taṃ tayā, pattā nissaṃsayaṃ tyamhā bhattirasmāsu yā tava.
3905. “Việc nào cần phải làm cho bạn bè chí thân, việc ấy đã được bệ hạ thực hiện đối với chúng tôi. Chúng tôi đã đạt được sự không nghi ngờ của bệ hạ, điều ấy là sự tận tụy của bệ hạ dành cho chúng tôi.
81. Ngài đối đãi đây với chúng thần
Như người đối với đại thân bằng,
Này đây Chúa thượng vừa ban phát
Hèn mọn đội chim hưởng phước ân.
3906. Aduñca nūna sumahā ñātisaṅghassamantaraṃ, adassanena asmākaṃ dukkhaṃ bahūsu pakkhisu.
82. Song đàn chim quyến thuộc kêu than
Xa vắng lâu ngày đã bặt tăm,
Và có nhiều chim đầy khổ não
Vì không còn thấy bóng Nga vương.
3907. Tesaṃ sokavighātāya tayā anumatā mayaṃ, taṃ padakkhiṇato katvā ñātī passemarindama.
83. Vậy để xua tan nỗi khổ này,
Đại vương, xin thả chúng thần ngay,
Cúi xin Chúa thượng nay cho phép
Gặp lại thân bằng, cất cánh bay.
3908. Addhāhaṃ vipulaṃ pītiṃ bhavataṃ vindāmi dassanā, eso cāpi mahā attho ñātivissāsanā siyā.
3908. Tôi quả thật tìm được sự hỷ lạc vô bờ do việc gặp gỡ các ông. Việc ấy có thể tạo niềm tin cho thân quyến và còn có lợi ích lớn lao nữa.”
84. Hôm nay hạnh ngộ đấng Quân vương,
Thần thấy tâm hoan hỷ ngập tràn,
Thần chắc từ nay toàn bạn hữu
Chẳng còn duyên cớ để kinh hoàng.
3909. Idaṃ vatvā dhataraṭṭhā haṃsarājā narādhipaṃ, uttamajavamattāya ñātisaṅghamupāgamuṃ.
85. Như vầy với chúa tể loài người,
Chim chúa Dha-ta đã đáp lời,
Sau đó tìm thân bằng quyến thuộc,
Tung đôi cánh mạnh nhất lên trời.
3910. Te aroge anuppatte disvāna parame dvije, kekātimakaruṃ haṃsā puthu saddo ajāyatha.
86. Nhìn chủ tướng chim được vạn an
Trở về từ cõi chết nhân gian,
Đàn chim vỗ cánh kêu ầm ĩ
Chào đón chúa chim lại họp đàn.
3911. Te patītā pamuttena bhattunā bhattugāravā, samantā parikariṃsu aṇḍajā laddhapaccayā.
87. Vây quanh chúa tể chúng tôn sùng,
Tin tưởng, giờ đây đám ngỗng hồng
Kính cẩn nghiêng mình chào chúa tể
Hân hoan vì chúa được an thân.
3912. Evaṃ mittavataṃ atthā sabbe honti padakkhiṇā, haṃsā yathā dhataraṭṭhā ñātisaṅghamupāgamun ”ti.
88. Ai có từ tâm ắt đạt thành
Việc gì các vị ấy thi hành,
Như Thiên nga trở về bằng hữu
Lần nữa đôi chim được trọn lành.
Cullahaṃsajātakaṃ.
***
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada