3575. Disvā nisinnaṃ rājānaṃ brahmadattaṃ rathesabhaṃ, athassa paṭivedesi yassāsi anukampako.
3575. Sau khi nhìn thấy đức vua Brahmadatta, đấng thủ lãnh xa binh, khi ấy, (người giữ vườn) đã thông báo cho đức vua hay rằng: “Vị mà bệ hạ có lòng thương tưởng,–
1. Vừa thấy Brah-ma-dat đại vương,
Ngôi cao chiếm chệ thật huy hoàng,
Lão tâu: "Chúa thượng, thân bằng cũ
Chúa thượng vẫn thường dạ luyến thương
3576. Saṅkiccāyaṃ anuppatto isīnaṃ sādhusammato, taramānarūpo niyyāhi khippaṃ passa mahesinaṃ.
3576. –và vị Saṅkicca này đã đến, vị đã được công nhận là tốt đẹp trong số các bậc ẩn sĩ. Xin bệ hạ hãy tức tốc ra đi, hãy mau chóng gặp gỡ vị đại ẩn sĩ.”
2. Tôn giả Sam-ca đã đến đây,
Giữa hiền nhân, nổi tiếng vai thầy
Đại vương, xin vội lên đường sớm,
Chớ chậm tìm thăm bậc Thánh này.
3577. Tato ca rājā taramāno yuttamāruyha sandanaṃ, mittāmaccaparibbūḷho agamāsi rathesabho.
3577. Sau đó, đức vua đã vội vã bước lên cỗ xe đã được thắng ngựa. Được các thân hữu và các quan đại thần tháp tùng, đấng thủ lãnh xa binh đã ra đi.
3. Vua ngự lên xa giá vội vàng,
Sẵn sàng theo lệnh của vua ban,
Triều thần bạn hữu vây quanh đủ,
Tìm kiếm Thánh nhân, tiến thẳng đàng.
3578. Nikkhippa pañca kakudhāni kāsīnaṃ raṭṭhavaḍḍhano, vāḷavījanimuṇhīsaṃ khaggaṃ chattañcupāhanaṃ.
3578. Bậc làm hưng thịnh đất nước Kāsi đã dẹp bỏ năm biểu hiệu (của nhà vua) là: quạt lông đuôi bò, vương miện, cây gươm, lọng che, và đôi hài.
4. Cả năm biểu tượng của vương gia
Ví chúa Kà-si vội bỏ ra,
Lọng, quạt đuôi trâu rừng, mão niệm,
Đôi hài, bảo kiếm cũng trao qua.
3579. Oruyha rājā yānamhā ṭhapayitvā pacchadaṃ, āsīnaṃ dāyapassasmiṃ saṅkiccamupasaṅkami.
3579. Sau khi bước xuống cỗ xe, đức vua đã để lại áo khoác ngoài, rồi đã đi đến gần vị Saṅkicca đang ngồi ở vườn thượng uyển Dāyapassa.
5. Rồi vua ngự xuống khỏi vương xa,
Cởi hết bào y rực sáng lòa,
Đi đến Da-ya-pa ngự uyển
Là nơi an tọa Thánh Sam-ca.
3580. Upasaṅkamitvā so rājā sammodi isinā saha, taṃ kathaṃ vītisāretvā ekamantaṃ upāvisi.
3580. Sau khi đi đến gần, vị vua ấy đã vui mừng chào hỏi với vị ẩn sĩ; sau khi trao đổi lời chào hỏi với vị ấy, đức vua đã bước đến ở một bên.
6. Và vua vội vã tiến lên gần,
Đảnh lễ trang nghiêm, lại hỏi thăm
Nhắc lại hàn huyên câu chuyện cũ
Cùng nhau trao đổi đã bao lần.
3581. Ekamantaṃ nisinnova atha kālaṃ amaññatha, tato pāpāni kammāni pucchituṃ paṭipajjatha.
3581. Ngay lúc vừa ngồi xuống ở một bên, khi ấy, đức vua đã biết là thời điểm, sau đó đã tiến hành để hỏi về những hành động độc ác.
7. Cạnh bạn, vua an tọa một bên,
Đến khi dịp tốt bắt đầu lên,
Hỏi câu liên hệ bao điều ác,
Vua vội nêu ra với bạn hiền:
3582. Isiṃ pucchāmi saṅkiccaṃ isīnaṃ sādhusammataṃ, āsīnaṃ dāyapassasmiṃ isisaṅghapurakkhataṃ.
3582. “Trẫm xin hỏi ẩn sĩ Saṅkicca, vị đã được công nhận là tốt đẹp trong số các bậc ẩn sĩ, vị đang ngồi ở vườn thượng uyển Dāyapassa, phía trước tập thể các bậc ẩn sĩ.
8. "Sam-ca, bậc thượng thủ hiền nhân,
Đại trí nhân, nay trẫm vấn an
Tỉnh tọa Dà-ya-pa ngự uyển
Bao điều trẫm muốn hỏi thân bằng.
3583. Kaṃ gatiṃ pecca gacchanti narā dhammāticārino, aticiṇṇo mayā dhammo tamme akkhāhi pucchito.
3583. Những người đã vượt qua luân lý sẽ đi đến cảnh giới nào sau khi chết? Luân lý đã bị trẫm vượt qua. Được hỏi, xin ngài hãy giải thích điều ấy cho trẫm.”
9. Ra sao kẻ ác lúc tử trần,
Cảnh giới nào đâu phải thọ thân ~
Trẫm đã đi sai đường chánh đạo,
Trẫm mong lời giải của hiền nhân.
3584. Isī avaca saṅkicco kāsīnaṃ raṭṭhavaḍḍhanaṃ, āsīnaṃ dāyapassasmiṃ mahārāja suṇohi me.
3584. Vị ẩn sĩ Saṅkicca đã nói với bậc làm hưng thịnh đất nước Kāsi đang ngồi ở vườn thượng uyển Dāyapassa rằng: “Tâu đại vương, xin hãy lắng nghe bần đạo.
10. Như vậy Sam-ca bảo Đại vương
Trị Kà-si quốc độ giang sơn,
Tại Dà-ya ngự viên, an tọa,
"Đại đế, lắng nghe sẽ tỏ tường".
3585. Uppathena vajantassa yo maggamanusāsati, tassa ce vacanaṃ kayirā nāssa maggeyya kaṇṭako.
3585. Khi có vị nào chỉ dạy con đường an toàn cho người đang đi theo lối đi sai trái, nếu người này có thể thực hành lời nói của vị ấy, thì chông gai (kẻ bất lương) không thể ngăn trở con đường đi của người này.
11.Ví thử ngài đưa lối chỉ đường
Cho người đi lạc bước vô phương,
Người kia theo đúng lời khuyên nhủ,
Chẳng gặp chông gai cản bước chân.
3586. Adhammaṃ paṭipannassa yo dhammamanusāsati, tassa ce vacanaṃ kayirā na so gaccheyya duggatiṃ.
3586. Khi có vị nào chỉ dạy thiện pháp cho người đang thực hành phi pháp, nếu người này có thể thực hành lời nói của vị ấy, người ấy không thể nào đi đến khổ cảnh.
12. Nếu kẻ kia đi lạc nẻo tà,
Nếu ngài dẫn dắt đúng đường ra,
Kẻ kia tuân thủ lời khuyên nhủ,
Sẽ thoát ra bao cảnh khổ mà.
3587. Dhammo patho mahārāja adhammo pana uppatho, adhammo nirayaṃ neti dhammo pāpeti suggatiṃ.
3587. Tâu đại vương, thiện pháp là lối đi; hơn nữa, phi pháp là lối đi sai trái. Phi pháp dẫn đến địa ngục, thiện pháp giúp cho đạt được nhàn cảnh.
13-14. Đường cái khác nào lẽ chánh chân,
Còn đường tắt chỉ nẻo tà gian,
Chánh chân đưa lối lên thiên giới,
Ác dẫn người vào địa ngục môn.
3588. Adhammacārino rāja narā visamajīvino, yaṃ gatiṃ pecca gacchanti niraye te suṇohi me.
3588. Tâu bệ hạ, những kẻ thực hành phi pháp là những kẻ có cuộc sống bất chánh. Cảnh giới mà những kẻ ấy đi đến sau khi chết là các địa ngục, xin bệ hạ hãy lắng nghe bần đạo.
15. Kẻ nào phạm giới, hỡi quân vương,
Và sống đời bất chánh bất lương,
Số phận nào chờ trong địa ngục
Mệnh chung, nghe rõ sẽ am tường:
3589. Sañjīvo kāḷasutto ca saṅghāto dve ca roruvā, athāparo mahāvīci tapano ca patāpano.
3589. Địa ngục Sañjīva, địa ngục Kāḷasutta, địa ngục Saṅghāta, và hai địa ngục Roruva, rồi địa ngục khác nữa là địa ngục Mahāvīci, địa ngục Tapana, và địa ngục Patāpana.
16. Sañ-ji-va, Kà-la-sut-ta,
Ro-ru-va tiểu và đại,
San-ghà-ta, Đại A-vì-ci,
Ta-pa-na, Pa-tà-pa-na,
3590. Iccete aṭṭha nirayā akkhātā dūratikkamā, ākiṇṇā luddakammehi paccekā soḷasussadā.
3590. Tám địa ngục này được nói đến như thế, là rất khó thoát ra, đông đúc những người có hành động tàn bạo; mỗi một địa ngục này bằng mười sáu địa ngục Ussada.
17. Tám địa ngục kia tiếng lẫy lừng
Khiến cho người thất đảm kinh hoàng,
Thoát thân từ đó đều vô vọng,
Các ngục Us-sa(l) được kể rằng:
Con số tăng hơn mười sáu nữa,
Đều là ngục cỡ nhỏ từng phần.
3591. Kadariyatāpanā ghorā accimanto mahabbhayā, lomahaṃsanarūpā ca bhesmā paṭibhayā dukhā.
3591. Các địa ngục có ngọn lửa ghê gớm thiêu đốt những kẻ bỏn xẻn, có sự sợ hãi lớn lao, có dáng vẻ khiến lông dựng đứng, khủng khiếp, gây ra sự sợ hãi, khổ đau.
18. Lửa cháy, hành hình các tội nhân
Thảy đều tạo ác nghiệp vô ngần,
Kinh hồn, hoảng hốt, đầy đau đớn,
Khổ não, hãi hùng ngập bốn phương.
3592. Catukkaṇṇā catudvārā vibhattā bhāgaso mitā, ayopākārapariyantā ayasā paṭikujjitā.
3592. Bốn góc có bốn cửa ra vào, được phân chia, được đo đạc thành từng phần, được bao quanh bởi tường thành bằng sắt, được đậy lại bằng vòm sắt.
19. Bốn phía đều xây cửa bốn tầng,
Chia từng khoảng cách thật cân phân,
Mái vòm bằng sắt trên che phủ,
Tường sắt lại còn bọc lấy thân.
3593. Tesaṃ ayomayā bhūmi jalitā tejasā yutā, samantā yojanasataṃ phuṭā tiṭṭhanti sabbadā.
3593. Mặt đất của các địa ngục làm bằng sắt, được đốt nóng, được tràn ngập bởi sức nóng. Các địa ngục luôn luôn được lan tỏa và duy trì sức nóng ở xung quanh một trăm d0-tuần.
20. Nền sắt này xây mới vững sao
Vì không lửa dữ đốt tan nào,
Dù xa trăm dặm chung quanh đó,
Cũng thấy oai thần tỏa vút cao.
3594. Ete patanti niraye uddhapādā avaṃsirā, isīnaṃ ativattāro saññatānaṃ tapassinaṃ.
3594. Những kẻ nói lời xúc phạm với các vị ẩn sĩ, với các vị đạo sĩ khổ hạnh đã tự kiềm chế, những kẻ này rơi vào địa ngục với tư thế chân phía trên, đầu phía dưới.
21. Ai làm thương tổn các hiền nhân,
Hoặc xúc phạm gì bậc thiện chân,
Rơi thẳng vào ngay miền địa ngục
Chẳng còn cơ hội để vươn thân.
3595. Te bhūnahuno paccanti macchā bilakatā yathā, saṃvacchare asaṅkheyye narā kibbisakārino.
3595. Những con người gây ra tội ác, những kẻ ấy bị nung nấu với sự hành hạ được gia tăng trong vô số năm không đếm được, giống như những con cá bị cắt thành từng khúc rồi nướng chín.
22. Thân thể tả tơi, cảnh hãi hùng
Khác nào cá nướng, lửa đang nồng,
Cũng vì ác nghiệp bao năm cũ
Đày xuống ngục kia phải nướng thân.
3596. Dayhamānena gattena niccaṃ santarabāhiraṃ, nirayā nādhigacchanti dvāraṃ nikkhamanesino.
3596. Với thân thể thường xuyên bị đốt cháy bên trong lẫn bên ngoài, có những kẻ tìm kiếm lối thoát ra khỏi địa ngục nhưng không đến được cánh cửa.
23. Thiêu hủy tứ chi lửa bỏng sôi,
Hành hình làm hoảng sợ con mồi,
Dù mong giải thoát ra ngoài ngục,
Cũng chẳng tìm đâu lối thoát rồi.
3597. Puratthimena dhāvanti tato dhāvanti pacchato, uttarenapi dhāvanti tato dhāvanti dakkhiṇaṃ.
3597. Chúng chạy về hướng đông, sau đó chạy về hướng tây, chúng còn chạy về hướng bắc, sau đó chạy về hướng nam.
24. Chạy tới chạy lui kiếm lối đi,
Đông, Tây, Nam, Bắc chẳng mong gì,
3598. Yaṃ yaṃ hi dvāraṃ gacchanti taṃ tadeva pithīyati, bahūni vassasahassāni janā nirayagāmino, bāhā paggayha kandanti patvā dukkhaṃ anappakaṃ.
3598. Bởi vì mỗi một cánh cửa nào mà chúng đi đến, chính cánh cửa ấy bị đóng lại. Những con người có sự đi đến địa ngục trong nhiều ngàn năm giơ các cánh tay lên khóc lóc, sau khi đã chịu sự khổ đau không phải là ít.
Vì chư thần đó ngăn đường lối,
Họ cố tìm đường có ích chi.
25. Hàng ngàn năm số phận đau thương,
Chúng sống trong miền địa ngục môn,
Với cánh tay dài vương tới mãi
Khóc than nỗi khổ ngập tâm hồn.
3599. Āsīvisaṃva kupitaṃ tejassiṃ dūratikkamaṃ, na sādhurūpe āsīde saññatānaṃ tapassinaṃ.
3599. Tựa như con rắn có nọc độc, bị nổi giận, có oai lực, khó chế ngự, không nên công kích các vị có bề ngoài tốt đẹp, các vị đạo sĩ khổ hạnh đã tự kiềm chế.
26. Cũng như rắn độc giết con mồi
Nổi giận hung tàn nếu bị khơi,
Phải tránh tổn thương cho Thánh giả,
Những người nguyền khổ hạnh trong đời.
3600. Atikāyo mahissāso ajjuno kekakādhipo, sahassabāhu ucchinno isimāsajja gotamaṃ.
3600. Gã cung thủ vĩ đại có thân hình lực lưỡng Ajjuna, chúa tể xứ Kekaka, có ngàn cánh tay, đã bị tiêu diệt sau khi công kích vị ẩn sĩ Gotama.
27. Tộc trưởng Ke-ka(2) Aj-ju-na,
Tan tành vì hại Go-ta-ma,
Dù ngàn tay, vóc người cường tráng
Thiện xạ lẫy lừng một thuở xưa.
3601. Arajaṃ rajasā vacchaṃ kisaṃ avakiriya daṇḍakī, tālova mūlato chinno sarājā vibhavaṅgato.
3601. Vua Daṇḍakī, sau khi ném vật dơ vào bậc vô nhiễm Vaccha Kisa, vị vua ấy đã đi đến sự hủy diệt, tựa như cây thốt nốt bị chặt đứt tận gốc.
28. Dan-da-ki phỉ báng Ki-sa(3),
Ngài chẳng tội tình, chẳng xấu xa,
Như chặt cọ dừa từ gốc rễ,
Hoàn toàn hủy diệt thế kia mà.
3602. Upahacca manaṃ mejjho mātaṅgasmiṃ yassasine, sapārisajjo ucchinno mejjhāraññaṃ tadā ahu.
3602. Sau khi có tâm ý xấu xa với vị ẩn sĩ Mātaṅga có danh tiếng, vua xứ Mejjha cùng toàn bộ xứ sở đã bị tiêu diệt. Từ đó, đã có khu rừng Mejjha.
29. Mej-jha vì bậc trí Tan-ga(4)
Phải rớt từ trên bảo tọa kia,
Đất nước trở thành hoang phế địa,
Chúa tôi đều phải hóa ra ma.
3603. Kaṇhadīpāyanāsajja isiṃ andhakaveṇhuyo, aññamaññaṃ musale hantvā sampattā yamasādhanaṃ.
30. Dân chúng Vish-nu tộc tấn công
Di-pà-ya(5) ấy Hắc hiền nhân
Cùng tộc An-dha(6) tìm địa ngục,
Giết nhau dùng dáo trượng tranh hùng.
3604. Athāyaṃ isinā satto antalikkhe caro pure, pāvekkhi paṭhaviṃ cecco hīnatto pattapariyāyaṃ.
3603. Những người con trai của Andhakaveṇhu sau khi công kích vị ẩn sĩ Kaṇhadīpāyana đã dùng chày giết hại lẫn nhau, rồi đã đi đến lãnh địa của Diêm Vương.
3604. Rồi vị vua Cetiya này, trước kia có sự di chuyển ở không trung, về sau bị nguyền rủa bởi vị ẩn sĩ, đã rơi vào trong trái đất, có bản thân bị tiêu hoại, đã đạt đến đoạn cuối của cuộc sống.
31. Bị mắc lời nguyền của trí nhân,
Cec-ca xưa bước giữa không trung,
Tương truyền bị nuối vào lòng đất
Biến mất vào ngày đã định phần.
3605. Tasmā hi chandāgamanaṃ nappasaṃsanti paṇḍitā, aduṭṭhacitto bhāseyya giraṃ saccūpasaṃhitaṃ.
3605. Chính vì thế, các bậc sáng suốt không khen ngợi việc đi theo sự ham muốn. Người có tâm không xấu xa nên nói lời nói liên quan đến sự thật.
32. Kẻ ngu bướng bỉnh chẳng khi nào
Được tán đồng từ bậc trí cao,
Song các thiện nhân đầy chánh nghĩa
Khó lòng nói chuyện dối gian nào.
3606. Manasā ce paduṭṭhena yo naro pekkhate muniṃ, vijjācaraṇasampannaṃ gantā so nirayaṃ adho.
3606. Người nào với tâm ý xấu xa, nếu soi mói bậc hiền trí đã được thành tựu sự hiểu biết và đức hạnh, người ấy là kẻ đi đến địa ngục ở bên dưới.
33. Kẻ nào nằm sẵn để chờ mong
Bắt lấy hiền nhân với trí nhân,
Sẽ bị cuốn chìm vào địa ngục,
Vì mưu kế độc phải ăn năn.
3607. Ye vuddhe paribhāsanti pharusūpakkamā janā, anapaccā adāyādā tālavatthū bhavanti te.
3607. Những người nào có sự ra sức thô lỗ, mắng nhiếc các bậc trưởng thượng, những kẻ ấy trở thành không có con cái, không người thừa tự, tựa như cây thốt nốt bị trốc gốc.
34. Kẻ nào lòng phản bội hung tàn
Xông đến đành càn lão Thánh nhân,
Sẽ giống gốc cây dừa chết héo,
Chẳng con thừa kế, phải tàn dần.
3608. Yo ca pabbajitaṃ hanti katakiccaṃ mahesinaṃ, sa kāḷasutte niraye cirarattāya paccati.
3608. Kẻ nào giết hại bậc xuất gia, bậc đại ẩn sĩ đã hoàn thành phận sự, kẻ ấy bị nung nấu ở địa ngục Kāḷasutta trong thời gian lâu dài.
35. Kẻ nào dám giết đại hiền nhân,
Hoặc bậc tu hành sống chánh chân,
Sẽ đọa Kà-la-sut địa ngục
Cực hình phải chịu lắm ngày ròng.
3609. Yo ca rājā adhammaṭṭho raṭṭhaviddhaṃsano cuto, tāpayitvā janapadaṃ tāpane pecca paccati.
3609. Và vị vua nào duy trì sự bất công, có sự hủy hoại đất nước, bị tẩy chay, sau khi làm cho xứ sở bị điêu tàn, khi chết đi, bị nung nấu ở địa ngục Tāpana.
36. Còn nếu Ma-ga, một ác vương
Muốn làm điên đảo cả giang sơn,
Mạng chung, vào ngục Ta-pa ấy
Phải chịu nhiều đau khổ đoạn trường.
3610. Yo ca vassasahassānaṃ sataṃ dibyāni paccati, accisaṅghapareto so dukkhaṃ vedeti vedanaṃ.
3610. Và kẻ ấy bị nung nấu một trăm ngàn năm theo cách tính của cõi Trời. Bị vây quanh bởi những đám lửa, kẻ ấy nhận chịu cảm thọ khổ đau.
37. Trăm ngàn năm sống đọa đày thân
Như cách chư Thiên tính tháng năm,
Mặc áo làm bằng cây lửa đỏ,
Giữa đau thương địa ngục muôn phần.
3611. Tassa aggisikhā kāyā niccharanti pabhassarā, tejobhakkhassa gattāni lomaggehi nakhehi ca.
3611. Từ thân thể của kẻ ấy, có những ngọn lửa phát ra chói sáng. Các bộ phận cơ thể cùng với các lông và các móng trở thành mồi của ngọn lửa.
38. Lửa phun lên rực sáng nơi nơi,
Tung tóe từ thân thể tả tơi,
Chân cẳng, tóc râu cùng tất cả
Chỉ dùng nuôi ngọn lửa làm mồi.
3612. Dayhamānena gattena niccaṃ santarabāhiraṃ,dukkhābhitunno nadati nāgo tuttaddito yathā.
3612. Với thân thể thường xuyên bị đốt cháy bên trong lẫn bên ngoài, kẻ bị khổ đau hành hạ gào thét, giống như con voi bị áp đảo bởi các móc câu.
39. Trong lúc thân kia cháy thật nhanh
Khổ đau hành hạ đến tan tành,
Như voi bị quất bằng cây nhọn,
Kẻ khốn rống lên hết sức mình.
3613. Yo lobhā pitaraṃ hanti dosā vā purisādhamo, sa kāḷasutte niraye cirarattāya paccati.
3613. Kẻ nào giết cha vì tham lam, hay vì sân hận, là kẻ đốn mạt, kẻ ấy bị nung nấu ở địa ngục Kāḷasutta trong thời gian lâu dài.
40. Có kẻ tham sân lại giết cha,
Ấy người hèn hạ, đại gian tà,
Chịu nhiều thống khổ trong hầm lửa
Ở ngục Kà-la-sut mãi mà.
3614. Sa tāsiso paccati lohakumbhiyaṃ pakkañca sattīhi hananti nittacaṃ, andhaṃ karitvā muttakarīsabhakkhaṃ khāre nimujjenti tathāvidhaṃ naraṃ.
3614. Kẻ như thế ấy bị nung nấu ở vạc đồng. Và họ (những người cai quản địa ngục) đâm kẻ đã bị nấu chín bằng những cây giáo đến khi không còn lớp da ngoài. Họ làm cho con người thuộc hạng như thế ấy bị mù, rồi cho ăn phân và nước tiểu, sau đó nhấn chìm trong nước muối.
41. Trong chảo sắt sôi đến lột da,
Bị đâm tên sắt đến mù lòa,
Ăn phân, kẻ giết nhằm thân phụ,
Nước muối chìm thân, chuộc tội xưa.
3615. Tattaṃ pakkaṭṭhitaṃ ayoguḷañca dīghe ca phāle cirarattatāpite, vikkhambhamādāya vibhajja rajjuhi vivaṭe mukhe saṃsavayanti rakkhasā.
3615. Các quỷ sứ đã cầm các lưỡi cày dài đã được đốt nóng nhiều ngày đêm, được nối với những sợi dây thừng, rồi banh miệng (và kéo cái lưỡi ra), sau đó nhét vào cục sắt đã được đốt nóng đến cháy đỏ ở cái miệng đã được mở rộng.
42. Quỷ sứ đặt trong miệng kẻ này
- Vì e nó ngậm chặt hàm ngay -
Một hòn sắt nóng nung cho đỏ,
Hoặc một lưỡi cày với sợi dây,
Rồi buộc lấy mồm cho thật chặt,
Thả vào trong vũng nước bùn lầy.
3616. Sāmā ca soṇā sabalā ca gijjhā kākoḷa saṅghā ca dijā ayomukhā, saṅgamma khādanti vipphandamānaṃ jivhaṃ vibhajja vighāsaṃ salohitaṃ.
3616. Những con chó màu đen, những con chim kên kên có sức mạnh, những bầy quạ, và những con chim có mỏ sắt tụ tập lại ngấu nghiến kẻ đang giãy giụa, sau khi đã xâu xé cái lưỡi thành những mẫu thịt đẫm máu.
43. Kên kên, diều quạ, cả đen, nâu,
Chim mỏ sắt kia thật đủ màu,
Phanh lưỡi nó ra từng mảnh nhỏ,
Run run từng miếng, máu tuôn trào.
3617. Taṃ daḍḍhatālaṃ paribhinnagattaṃ nipphoṭhayantā anuvicaranti rakkhasā,
ratī hi tesaṃ dukhino panītare etādisasmiṃ niraye vasanti ye keci loke idha pettighātino.
3617. Các quỷ sứ vừa di chuyển theo sau kẻ ấy vừa đánh đập, và kẻ ấy có thân thể bị nát tan, tựa như cây thốt nốt bị thiêu đốt. Chính các quỷ sứ ấy có sự khoái lạc, còn những kẻ khác (chúng sanh ở địa ngục) thì có sự khổ đau. Những kẻ sống ở địa ngục giống như vầy là những kẻ đã giết chết cha ruột ở thế gian này.
44. Bay đi, bầy quỷ lại bay về
Đánh đập kẻ đầy khốn khổ kia,
Vào ngực cháy, chân tay gãy nát,
Chúng hành người, độc ác say mê.
45. Cả bầy quỷ sứ thật hân hoan,
Song nỗi khổ đau lại ngập tràn
Những kẻ đọa đày trong ngục ấy,
Vì đời phạm tội giết nghiêm đường.
3618. Putto ca mātaraṃ hantvā ito gantvā yamakkhayaṃ, bhusamāpajjate dukkhaṃ attakammaphalūpago.
3618. Và đứa con, sau khi giết chết người mẹ, thì từ thế gian này đi đến trú xứ của Diêm Vương và nhận lãnh nhiều sự khổ đau, là kẻ bị gánh chịu quả báo về hành động của bản thân.
46. Còn nếu kẻ nào giết mẫu thân
Đọa ngay vào ngục Dạ- ma quân,
Để đền tội phạm hành vi ác,
Nhận quả báo kia thật xứng phần.
3619. Amanussā atibalā hantāraṃ janayantiyā, ayomayehi vālehi pīḷayanti punappunaṃ.
3619. Các phi nhân có sức mạnh vượt trội hành hạ kẻ giết hại mẫu thân bằng những sợi dây roi làm bằng sắt lượt này đến lượt khác.
47-48. Quỷ dữ nắm người giết mẫu thân
Dùng cày sắt rộng ủi mạnh vào lưng,
Tạo thành những luống cày sâu rộng,
Máu tựa đồng tan chảy cả dòng
Từ các vết thương, và chúng lấy
Làm nguôi cơn khát bỏng tù nhân.
3620. Taṃ passavaṃ sakā gattā rudhiraṃ attasambhavaṃ, tambalohavilīnaṃva tattaṃ pāyenti mattiyaṃ.
3620. Họ bắt kẻ giết mẹ uống máu của bản thân được rỉ ra từ chính cơ thể của mình, tựa như nước đồng đỏ đã được nung nóng tan chảy.
3621. Jigucchaṃ kuṇapaṃ pūti duggandhaṃ gūthakaddamaṃ, pubbalohitasaṅkāsaṃ rahadaṃ ogayha tiṭṭhati.
3621. Kẻ ấy đứng, chìm ngập trong hố nước, là vũng lầy của phân, nhờm gớm, có mùi hôi thối của thây chết đã bị hoại rửa, tựa như mủ máu.
49-50. Hồ máu đỏ kia nó ngập mình,
Hít mùi xác chết hoặc bùn tanh,
3622. Tamenaṃ kimayo tattha atikāyā ayomukhā, chaviṃ chetvāna khādanti pagiddhā maṃsalohite.
3622. Tại nơi ấy, những con giòi có thân hình to lớn, có miệng bằng sắt, xuyên thủng thân xác kẻ ấy ở lớp da ngoài, rồi ngấu nghiến thịt và máu với vẻ thèm khát.
Bầy sâu khủng khiếp dùng mồm sắt
Xuyên suốt da người chịu cực hình,
Xâu xé thịt kia nhai ngấu nghiến,
Hút ngay máu đỏ thật ngon lành.
3623. So ca taṃ nirayaṃ patto nimuggo sataporisaṃ, pūtikaṃ kuṇapaṃ vāti samantā satayojanaṃ.
3623. Và kẻ ấy, khi đã đạt đến địa ngục Sataporisa ấy, bị chìm đắm (ngập đầu), và tỏa ra mùi thây chết hôi thối ở xung quanh đến một trăm do-tuần.
51-52. Ngục sâu trăm dặm, ngập chìm thân,
Trăm dặm quanh đầy xác thối nồng,
3624. Cakkhumāpi hi cakkhūhi tena gandhena jīyati, etādisaṃ brahmadatta mātughātī labhe dukhaṃ.
3624. Bởi vì, ngay cả kẻ sáng mắt cũng bị hư hoại đôi mắt bởi mùi hôi ấy. Tâu Brahmadatta, kẻ giết chết mẹ ruột nhận lãnh khổ đau như thế ấy.
Bởi chính mùi hôi, ôi! Tội nghiệp,
Xưa dù mắt sáng, cũng mờ dần.
3625. Khuradhāramanukkamma tikkhaṃ durabhisambhavaṃ, patanti gabbhapātiniyo duggaṃ vetaraṇiṃ nadiṃ.
3625. Sau khi vượt qua địa ngục Khuradhāra (Lưỡi Dao Cạo) sắc bén, khó có thể chịu đựng, các phụ nữ phá thai rơi vào dòng sông Vetaraṇī hiểm trở.
53. Vượt qua ngục thất Khu-ra-dhà(7),
Tù ngục tối tăm, khó vượt qua,
Những kẻ phá thai, sao thoát được
Dòng sông khủng khiếp Ve-ta-ra(8).
3626. Ayomayā simbaliyo soḷasaṅgula kaṇṭakā, ubhato mabhilambanti duggaṃ vetaraṇiṃ nadiṃ.
3626. Có những cây bông gòn làm bằng sắt có gai nhọn dài mười sáu ngón tay treo lòng thòng ở hai bên bờ của dòng sông Vetaraṇī hiểm trở.
54. Cây vải có gai sắt thật dài,
Chừng vài ba tấc, miệng người đời
Tương truyền trên cả đôi bờ ấy
Lơ lững giường đen tối của ngài.
3627. Te accimanto tiṭṭhanti aggikkhandhāva ārakā, ādittā jātavedena uddhaṃ yojanamuggatā.
3627. Các chúng sanh ấy đứng với thân rực lửa tựa như những khối lửa ở xa xa, bị cháy rực với ngọn lửa vươn cao một do-tuần ở bên trên.
55. Tất cả bọc trong khối lửa hồng
Vươn lên sừng sững tựa trời trồng
Cháy bùng rực rỡ như cây tháp
Cao cả dặm đường giữa cõi không
3628. Ete sajanti niraye tatte tikhiṇakaṇṭake, nāriyo ca aticāriṇiyo narā ca paradāragū.
3628. Những người này, các phụ nữ ngoại tình và các nam nhân đi đến với vợ người khác, tiến vào địa ngục bị đốt nóng, có gai nhọn sắc bén.
56-57. Trên lửa gai nung, ngục hiện ra:
Gian phu, dâm phụ, bọn gian tà
Roi da vụt xuống, đầu lăn lóc,
Hỗn loạn quay cuồng chạy trốn xa,
Tơi tả tứ chi nhừ nát cả,
Chúng nằm thức đợi suốt đêm qua.
3629. Te patanti adhokkhandhā vivattā vihatā puthū, sayanti vinividdhaṅgā dīghaṃ jagganti saṃvariṃ.
3629. Chúng rơi vào với thân chổng ngược; nhiều người bị quay tròn, bị đánh đập. Chúng nằm dài với các phần thân thể bị đâm thủng và không ngủ được suốt đêm dài.
3630. Tato ratyā vivasane mahatiṃ pabbatūpamaṃ, lohakumbhiṃ pavajjanti tattaṃ aggisamūdakaṃ.
3630. Sau đó, vào cuối đêm, chúng bị ném vào vạc đồng to lớn tương tự quả núi, có nước và lửa bằng nhau bị đốt nóng.
58-59. Tảng sáng, vào Nồi Sắt ẩn thân
To như núi, ngập nước bừng bừng,
Ngu si vây bọc như y quấn,
3631. Evaṃ divā ca ratto ca dussīlā mohapārutā, anubhonti sakaṃ kammaṃ pubbe dukkatam attano.
3631. Như vậy, ngày và đêm, những kẻ có bản chất xấu xa, bị bao phủ bởi si mê, chịu đựng nghiệp của mình đã làm trước đây của bản thân.
Bọn ác nhân kia sáng tối ròng,
Vì ác nghiệp gây từ kiếp trước,
Nay đền nợ cũ xứng cân phần.
3632. Yā ca bhariyā dhanakkītā sāmikaṃ atimaññati, sassuṃ vā sasuraṃ vāpi jeṭṭhaṃ vāpi nanandaraṃ.
3632. Và cô vợ nào được mua về bằng tài sản mà khinh khi người chồng, hoặc mẹ chồng, hoặc cha chồng, hoặc anh chồng, hoặc em gái chồng,–
60. Người vợ được mua với bạc vàng
Đem lòng coi rẻ đức lang quân,
Hoặc nhìn khinh bỉ người thân thích,
Lưỡi bị móc ra, thống khổ tràn.
3633. Tassā vaṅkena jivhaggaṃ nibbahanti sabandhanaṃ, sabyāmamattaṃ kiminaṃ jivhaṃ passati attano, viññāpetuṃ sakkoti tāpane pecca paccati.
3633. –những người cai quản địa ngục kéo chót lưỡi của cô ấy ra bằng lưỡi câu, có sự cột lại (rồi lôi đi). Cô ấy nhìn thấy cái lưỡi (bị kéo ra) có kích thước dài một sải tay của mình đầy giòi, và không thể nào than vãn. Sau khi chết đi, cô ấy bị nung nấu ở địa ngục Tāpana.
61. Thấy lưỡi căng đầy đám bọ sâu,
Kêu than chẳng thể được đâu nào,
Âm thầm phải gánh bao hình phạt
Trong ngục Ta-pa chịu khổ đau.
3634. Orabbhikā sūkarikā macchikā migabandhakā, corā goghātakā luddā avaṇṇe vaṇṇakārakā.
3634. Những người giết mổ cừu, giết mổ heo, ngư phủ, bẫy thú, trộm cướp, giết mổ bò, những kẻ hung bạo, những kẻ ca ngợi điều xấu xa,–
62-63. Kẻ giết heo cừu, bọn thợ săn,
Chài ngư, trộm cướp, lũ tà nhân,
Xem hành vi thiện là hèn kém,
Bị đánh bằng dùi sắt, kiếm cung,
Nhào xuống, cả bầy người khát máu
Bị tên, giáo đuổi, ngã vào dòng.
3635. Sattīhi lohakūṭehi nettiṃsehi usūhi ca, haññamānā khāranadiṃ papatanti avaṃsirā.
3635. – (những kẻ ấy) bị đánh đập bằng các cây giáo, bằng những búa đồng, bằng những thanh gươm, và bằng những mũi tên, rồi rơi vào dòng sông nước mặn, có đầu chúc xuống.
3636. Sāyaṃ pāto kūṭakārī ayokūṭehi haññati, tato vantaṃ durattānaṃ paresaṃ bhuñjate sadā.
3636. Những kẻ sáng chiều làm công việc lường gạt bị đánh bằng những cây búa sắt, sau đó luôn phải thọ dụng vật ói mửa ra của những kẻ tồi tệ khác.
64. Thợ rèn làm hại suốt ngày đêm
Dùng gậy sắt kia để luyện rèn,
Chỉ sống bằng đồ ăn bẩn thỉu
Nhả ra bởi các kẻ đê hèn.
3637. Dhaṅkā bheraṇḍakā gijjhā kākoḷā ca ayomukhā, vipphandamānaṃ khādanti naraṃ kibbisakārinaṃ.
3637. Những con quạ, những con chó rừng, những con chim kên kên, và những con quạ đen có mỏ sắt ngấu nghiến con người gây ra tội ác đang bị giãy giụa.
65. Diều quạ, kên kên, với chó rừng
Hàm nhe toàn sắt sẵn sàng luôn
Vồ ngay kẻ khốn đang lăn lộn,
Nuốt sống vào mồm quá hám ăn!
3638. Ye migena migaṃ hanti pakkhiṃ vā pana pakkhinā, asanto rajasā channā gantā te nirayussadaṃ.
3638. Những kẻ nào giết hại thú vật bằng thú vật, hoặc là giết hại chim chóc bằng chim chóc (làm mồi nhử), những kẻ ấy không tốt lành, bị che lấp bởi bụi bặm; họ là những kẻ đi đến địa ngục Ussada.
66. Ai dùng thú dữ giết hươu nai,
Hoặc giết chim bằng các bẫy mồi,
Tội lỗi đầy thân chìm đọa xứ,
Ăn năn ngày tháng khổ đau dài.
3639. Santo ca uddhaṃ gacchanti suciṇṇenidha kammunā, suciṇṇassa phalaṃ passa sahindā devā sabrahmakā.
3639. Và người tốt lành đi đến cõi Trời do nghiệp đã được thực hành tốt đẹp ở thế gian này. Bệ hạ hãy nhìn xem quả báo của người đã thực hành tốt đẹp: là chư Thiên, với Thiên Chủ Inda, và các vị Phạm Thiên.
67. Nhờ tích đức trên cõi thế gian
Từ xưa người thiện đến thiên đàng,
Chư Thiên, Phạm chúng, kìa Thiên chủ,
Đạt quả công năng chín vẹn toàn.
3640. Taṃ taṃ brūmi mahārāja dhammaṃ raṭṭhapatī cara, tathā tathā rāja carāhi dhammaṃ, yathā taṃ suciṇṇaṃ nānutappeyya pacchā ”ti.
3640. Tâu đại vương, bần đạo nói với bệ hạ về điều ấy. Tâu vị chúa của đất nước, bệ hạ hãy thực hành thiện pháp. Tâu bệ hạ, bệ hạ hãy thực hành thiện pháp như thế này, như thế này, giống như việc đã được thực hành tốt đẹp ấy thì sẽ không hối hận về sau này.”
68. Ta bảo ngài cai trị chánh chân
Suốt trong quốc độ, hỡi Quân vương,
Đạt thành phước đức nhờ công chánh,
Hối tiếc về sau chẳng phải mang.
Saṅkiccajātakaṃ.
***
Bổn sanh Ẩn Sĩ Saṅkicca. [530]
***
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada