3508. Kassa sutvā sataṃ dammi sahassaṃ daṭṭhu soṇakaṃ, ko me soṇaka makkhāti sahāyaṃ paṃsukīḷitaṃ. 

3508. “Người nào nói cho trẫm về vị Soṇaka, người bạn đã cùng trẫm đùa nghịch đất cát, trẫm sẽ ban một trăm cho người nào đã nghe, một ngàn để trẫm nhìn thấy vị Soṇaka?”

Một ngàn đồng trẫm tặng cho người
Trông thấy thân bằng, bạn trẫm chơi,
Tặng một trăm đồng cho kẻ khác
Biết So-na ấy chút tăm hơi.

3509. Atha bravī māṇavako daharo pañcacūḷako, mayhaṃ sutvā sataṃ dehi sahassaṃ daṭṭhu soṇakaṃ, ahaṃ soṇakamakkhissaṃ sahāyaṃ paṃsukīḷitaṃ. 

3509. Khi ấy, một đứa bé trai dòng Bà-la-môn có năm búi tóc đã nói rằng: “Xin bệ hạ hãy cho một trăm sau khi lắng nghe lời nói của con, rồi một ngàn để nhìn thấy vị Soṇaka. Con sẽ nói về vị Soṇaka, người bạn đã cùng bệ hạ đùa nghịch đất cát.”

2. Rồi cậu bé kia bỗng nói rằng:
- Trên đầu còn để tóc năm chòm -
"Ngàn đồng xin tặng cho con thấy,
Và đã nghe xin tặng một trăm,
Con sẽ đưa tin Tôn giả ấy
Bạn thân ngày trước của Minh quân.

3510. Katarasmiṃ so janapade raṭṭhesu nigamesu ca, kattha te soṇako diṭṭho taṃ me akkhāhi pucchito. 

3510. “Vị Soṇaka ấy đã được con nhìn thấy ở đâu, ở xứ sở nào, ở các quốc độ nào và các thị trấn nào? Được hỏi, con hãy giải thích điều ấy cho trẫm.”

3. Thành thị, thôn quê, quốc độ gì
Mà con lê mãi bước chân đi,
Thấy đâu hiền hữu So-na ấy,
Con hãy vui lòng nói trẫm nghe?

3511. Taveva deva vijite tavevuyyānabhūmiyā, ujuvaṃsā mahāsālā nīlobhāsā manoramā, tiṭṭhanti meghasamānā rammā aññoññanissitā.

3511. “Tâu bệ hạ, ở lãnh địa của chính bệ hạ, ở khu đất thuộc vườn thượng uyển của chính bệ hạ, có những cây sālā to lớn, giống cây có thân thẳng, có tán màu xanh lục, làm thích ý. Chúng đứng thẳng, nương tựa với nhau, đáng yêu, tương tự đám mây.

4. Trong quốc độ này, chính ngự viên,
Nhiều Sà la lớn mọc đua chen
Xanh tươi cành lá, thân cao vút,
Phong cảnh đẹp sao trước mắt nhìn.

3512. Tesaṃ mūlasmiṃ soṇako jhāyati anupādano, upādānesu lokesu dayhamānesu nibbuto.

3512. Vị Soṇaka tham thiền ở gốc của những cây ấy, không còn chấp thủ, đã được tịch tịnh, trong khi các chúng sanh có sự chấp thủ đang bị thiêu đốt.”

5. Cành lá giao nhau, kết thật dày,
Vươn lên trời tựa các vầng mây,
So-na nằm dưới gốc, thiền định,
Ly dục, tâm an, thanh tịnh đầy.

3513. Tato ca rājā pāyāsi senāya caturaṅgiyā, kārāpetvā samaṃ maggaṃ agamā yena soṇako.

3513. Và sau đó, đức vua đã xuất phát cùng với bốn binh chủng. Sau khi đã cho làm bằng phẳng con đường, đức vua đã đi đến nơi vị Soṇaka trú ngụ.

6 - 7 . Vua liền khởi sự quyết lên đàng,
Rẽ lối tiến ngay, thực vội vàng
Ðến chốn So-na-ka trú ngụ,
Quẩn quanh vườn ngự rộng thênh thang,
Thân bằng, ngài thấy đà ly dục,
Thánh hạnh an nhiên hỷ lạc tràn.

3514. Uyyānabhūmiṃ gantvāna vicaranto brahāvane, āsīnaṃ soṇakaṃ dakkhi dayhamānesu nibbutaṃ.

3514. Sau khi đi đến khu đất thuộc vườn thượng uyển, trong lúc đang đi loanh quanh ở khu vườn rộng lớn, đức vua đã nhìn thấy vị Soṇaka đang ngồi, đã được tịnh tịnh, ở giữa những người đang bị thiêu đốt.

3515. Kapaṇo vatāyaṃ bhikkhu muṇḍo saṅghāṭipāruto, amātiko apitiko rukkhamūlasmiṃ jhāyati.

3515. “Vị tỳ khưu này quả thật khốn khổ, đầu cạo trọc, được trùm lại với tấm y khoác ngoài, không có mẹ, không có cha, đang tham thiền ở gốc cây.”

8. Trọc đầu, mất cả mẹ cùng cha,
Trẫm thấy người kia khoác áo dà,
Kẻ khó tu hành đang nhập định,
Trải mình đây, dưới gốc Sà-la.

3516. Imaṃ vākyaṃ nisāmetvā soṇako etadabravi, na rājā kapaṇo hoti dhammaṃ kāyena phassayaṃ.
 

3516. Sau khi nghe được lời nói ấy, vị Soṇaka đã nói điều này: “Tâu bệ hạ, người đạt được thiện pháp bằng thân thì không khốn khổ.

9. Nghe thế, So-na-ka bảo rằng:
"Chẳng là khốn khổ, tấu Vương quân,
Kẻ nào biết rõ trong hành động
Luôn hướng về điều phải, lẽ chân".

3517. Yodha dhammaṃ niraṃkatvā adhammamanuvattati, sa rāja kapaṇo hoti pāpo pāpaparāyano.

3517. Ở đây, người nào lơ là thiện pháp và hành theo bất thiện pháp, tâu bệ hạ, người ấy bị khốn khổ, là kẻ ác, có sự nương tựa vào việc ác.”

10. Khốn hèn là kẻ bỏ điều chân,
Và lại thực hành chuyện bất nhân,
Với kẻ ác kia, ngài phải biết,
Khổ đau mạt vận để dành phần.

3518. Arindamoti me nāmaṃ kāsirājāti maṃ vidū, kacci bhoto sukhaseyyā idha pattassa soṇaka.

3518. “Tên của trẫm là: ‘Arindama (bậc thuần hóa kẻ thù).’ Mọi người biết trẫm là: ‘Vua của xứ Kāsi.’ Thưa vị Soṇaka, có lẽ sự nghỉ ngơi của ngài được thoải mái khi đến ở đây?”

11. Vua Kà-si nọ chính là ta,
Ta mệnh danh là A-rin-da,
Từ lúc đến đây, thưa Thánh giả,
Có điều chi đáng để phiền hà?

3519. Sadāpi bhadramadhanassa anāgārassa bhikkhuno, na tesaṃ koṭṭhe openti na kumbhiṃ na kaḷopiyaṃ, paraniṭṭhitamesānā tena yāpenti subbatā.

3519. “Vị tỳ khưu không có tài sản, không có nhà cửa, luôn luôn có điều tốt đẹp là: Các vị ấy không cất giữ ở nhà kho, trong lu chậu, trong túi xách. Các vị có sự hành trì tốt đẹp nuôi thân bằng vật xin được ở nhà của những người khác.

12. Một kẻ xuất gia chẳng bạc tiền,
Ðược bao phước lạc, kể đầu tiên,
Trong bình hay vựa, không tồn trừ,
Chỉ muốn vật thừa, sống thản nhiên.

3520. Dutiyampi bhadramadhanassa anāgārassa bhikkhuno, anavajjapiṇḍo bhottabbo na ca kocūparodhati.

3520. Điều tốt đẹp thứ nhì của vị tỳ khưu không có tài sản, không có nhà cửa là: Thọ dụng miếng ăn không tội lỗi và không bị bất cứ ai quấy rầy.

13-14. Phước lạc tiếp theo, đáng tán đồng:
Vị này thọ thực chẳng sai lầm,
Thứ ba, hạnh phúc hằng ngày được
Thọ thực an vui, chẳng mếch lòng.

3521. Tatiyampi bhadramadhanassa anāgārassa bhikkhuno, nibbutapiṇḍo bhottabbo na ca kocūparodhati.

3521. Điều tốt đẹp thứ ba của vị tỳ khưu không có tài sản, không có nhà cửa là: Thọ dụng miếng ăn đã được quán xét và không bị bất cứ ai quấy rầy.

3522. Catutthampi bhadramadhanassa anāgārassa bhikkhuno,
muttassa raṭṭhe carato saṅgo yassa na vijjati.

3522. Điều tốt đẹp thứ tư của vị tỳ khưu không có tài sản, không có nhà cửa là: Đối với vị đã được giải thoát đang du hành ở quốc độ, sự quyến luyến  của vị ấy không hiện diện.

15-16. Phước lạc thứ tư, chốn đến đi,
Thong dong chẳng biết luyến lưu gì,
Thứ năm ví thử thành kia cháy,
Người chẳng thiệt thòi, chẳng mất chi.

3523. Pañcamampi bhadramadhanassa anāgārassa bhikkhuno, nagaramhi dayhamānamhi nāssa kiñci adayhatha.

3523. Điều tốt đẹp thứ năm của vị tỳ khưu không có tài sản, không có nhà cửa là: Khi thành phố đang bị đốt cháy, không có một vật nào thuộc về vị ấy bị đốt cháy.

3524. Chaṭṭhampi bhadramadhanassa anāgārassa bhikkhuno, raṭṭhe vilumpamānamhi nāssa kiñci ahāratha.

3524. Điều tốt đẹp thứ sáu của vị tỳ khưu không có tài sản, không có nhà cửa là: Khi quốc độ đang bị cướp bóc, không có một vật nào thuộc về vị ấy bị cướp bóc.

17. Thứ sáu là điều hạnh phúc đây,
Người tu tính để phận riêng tây:
Ví dù quốc độ điêu tàn cả,
Người ấy chẳng hề thiệt mảy may.

3525. Sattamampi bhadramadhanassa anāgārassa bhikkhuno, 
corehi rakkhitaṃ maggaṃ ye caññe paripanthikā, pattacīvaramādāya sotthiṃ gacchati subbato.

3525. Điều tốt đẹp thứ bảy của vị tỳ khưu không có tài sản, không có nhà cửa là: Ở con đường được bảo hộ bởi bọn trộm cướp và ở những nơi có các bọn đạo tặc khác, vị có sự hành trì tốt đẹp mang theo bình bát và y ra đi một cách bình yên.

18. Thứ bảy là điều hạnh phúc kia:
Vì chưng nghèo khó chẳng còn gì,
Dù bầy cướp chận đường vây hãm,
Cừu địch dù bao kẻ hiểm nguy,
Bình bát, hoàng y, người Phạm hạnh
Bình an vẫn cứ bước chân đi.

3526. Aṭṭhamampi bhadramadhanassa anāgārassa bhikkhuno, yaṃ yaṃ disaṃ pakkamati anapekkhova gacchati.  

3526. Điều tốt đẹp thứ tám của vị tỳ khưu không có tài sản, không có nhà cửa là: Khi khởi hành đi đến bất cứ phương trời nào, vị ấy ra đi không có trông mong.

19. Còn đây là hạnh phúc sau cùng:
Vị ấy lang thang khắp mọi vùng,
Không cửa không nhà, và khốn khó,
Lên đường chẳng luyến tiếc băn khoăn.

3527. Bahūni samaṇabhadrāni ye tvaṃ bhikkhu pasaṃsasi, ahañca giddho kāmesu kathaṃ kāhāmi soṇaka.

3527. “Thưa vị tỳ khưu, ngài ca ngợi nhiều điều tốt đẹp của các vị Sa-môn. Còn trẫm thì thèm khát các dục, thưa vị Soṇaka, trẫm sẽ làm thế nào?

20-21. Phước lạc ngài ca, trẫm chẳng màng,
Trẫm truy tầm lạc thú trần gian
Nhân, thiên lạc, trẫm đều yêu thích
Ðạt cả hai ngay, hãy chỉ đàng.

3528. Piyā me mānusā kāmā atho dibyāpi me piyā, atha kena nu vaṇṇena ubho loke labhamhase. 

3528. Các dục thuộc về nhân gian được trẫm yêu thích, và (các dục) thuộc về Thiên giới cũng được trẫm yêu thích; vậy thì bằng cách nào chúng tôi đạt được cả hai thế giới ấy?”

3529. Kāmesu giddhā kāmaratā kāmesu adhimucchitā, narā pāpāni katvāna upapajjanti duggatiṃ. 

3529. “Những người thèm khát các dục, thích thú các dục, bị mê mẫn ở các dục, làm các việc ác rồi sanh vào khổ cảnh.

22. Ai cử tham lam muốn hưởng tràn
Biết bao dục lạc cõi trần gian,
Tạo nên ác nghiệp trong đời sống,
Sau phải tái sinh cõi khổ buồn.

3530. Ye ca kāme pahatvāna nikkhantā akutobhayā, ekodibhāvādhigatā na te gacchanti duggatiṃ. 

3530. Và những người đã dứt bỏ, đã đi ra ngoài các dục, không có sự sợ hãi từ bất cứ đâu, đã đạt đến trạng thái chuyên nhất (của tâm), những người ấy không đi đến khổ cảnh.

23. Bỏ ái dục kia lại phía sau,
Suốt đời vô úy tiến lên mau,
Tham thiền đạt đến tâm thanh tịnh
Chẳng phải luân hồi cõi khổ đau.

3531. Upamante karissāmi taṃ suṇohi arindama, upamāyapidhekacce atthaṃ jānanti paṇḍitā. 

3531. Tâu đấng thuần hóa kẻ thù, bần đạo sẽ làm ví dụ cho bệ hạ. Xin bệ hạ lắng nghe chuyện ấy. Cũng nhờ vào ví dụ, một số người sáng suốt hiểu được ý nghĩa.

24. Ta nói Ðại vương ví dụ này,
A-rin-da hãy lắng nghe đây:
Những người hiền trí nhờ lời dụ,
Ý nghĩa cao siêu sẽ hiểu ngay.

3532. Gaṅgāya kuṇapaṃ disvā vuyhamānaṃ mahaṇṇave, vāyaso samacintesi appapañño acetaso. 

3532. Sau khi nhìn thấy thây (con voi) chết ở sông Gaṅgā đang trôi nổi ở vũng nước lớn, con quạ thiểu trí, vô tư, đã nghĩ rằng: 

25. Trên sông Hằng sóng thủy triều dâng
Kìa chú quạ ngu thấy cuốn phăng
Một xác vật gì to quái lạ,
Tự nhủ thầm khi nó nổi gần:

3533. Yānañca vatidaṃ laddhaṃ bhakkhovāyaṃ anappako, tattha rattiṃ tattha divā tattheva nirato mano.

3533. ‘Vật đã đạt được này quả thật là phương tiện di chuyển, vật này còn là thức ăn không phải ít. Ban đêm ở nơi ấy, ban ngày ở nơi ấy, tâm (của ta) ưa thích ở chính nơi ấy.’

26. "Vật kia tìm được lớn lao thay,
Ôi thật là kho thực phẩm đầy
Ðể tận hưởng bao niềm khoái
Ðây ta sẽ ở suốt đêm ngày".

3534. Khādaṃ nāgassa maṃsāni pivaṃ bhāgīrathodakaṃ, sampassaṃ vanacetyāni na palettha vihaṅgamo.

3534. Trong khi ăn các miếng thịt của con voi, trong khi uống nước của sông Bhāgīrathī, trong khi nhìn xem các bảo tháp ở khu rừng, con chim đã không bỏ đi.

27. Như thế thịt voi, quạ cứ ăn,
Uống thêm nước mát tự sông Hằng
Trong khi trôi nổi, không hề thấy
Rừng miếu thoáng qua giấc mộng vàng

3535. Tañca otaraṇī gaṅgā pamattaṃ kuṇape rataṃ, samuddaṃ ajjhagāhāsi agatī yattha pakkhinaṃ.

3535. Và bị say đắm, thích thú ở thây chết, với sự trôi xuôi theo dòng sông Gaṅgā, con quạ ấy đã đi sâu vào biển khơi, nơi không phải là chỗ đến của loài chim.

28. Cứ vậy buông lung chú quạ trôi
Ðắm mình trên xác chết tanh hôi,
Sông Hằng cuốn chú lao đầu thẳng
Vào chốn hiểm nguy của biển khơi.

3536. So ca bhakkhaparikkhīṇo uppatitvā vihaṅgamo, na pacchato na purato nuttaraṃ nopi dakkhiṇaṃ.

3536. Và khi thức ăn đã hết hẳn, con chim ấy đã bay lên, về hướng tây không được, về hướng đông không được, hướng bắc không được, và hướng nam cũng không được (vì bốn bề đều là biển cả).

29. Song lúc thức ăn đã cạn đi,
Ôi, chim tội nghiệp cố bay về,
Ðông Tây, Nam, Bắc nào đâu hướng,
Chẳng thấy đất đai, biển bốn bề!

3537. Dīpaṃ so na ajjhagañchi agatī yattha pakkhinaṃ, so ca tattheva pāpattha yathā dubbalako tathā.  

3537. Nó đã không đạt đến được hòn đảo. Và nó đã ngã xuống ngay tại nơi ấy, nơi không phải là chỗ đến của loài chim, giống như một kẻ yếu ớt.

30. Xa giũa trùng dương, đã mệt phờ,
Trước khi chú quạ đến bên bờ,
Giữa muôn vàn hiểm nguy trên biển,
Ngã xuống, không bay nữa bấy giờ.

3538. Tañca sāmuddikā macchā kumbhīlā makarā susū, pasayhakārā khādiṃsu phandamānaṃ vipakkhinaṃ. 

3538. Và các loài cá ở biển, cá sấu, cá đao, cá dữ, với những hành động tàn bạo, đã ăn thịt con chim đang run rẩy, không còn sức để vỗ cánh bay lên.

31. Nơi chú chim kia khốn khổ rơi,
Cả đàn sấu, thủy quái đang bơi
Chung quanh, vội đến và xâu xé,
Tan xác run run của quạ mồi.

3539. Evameva tuvaṃ rāja ye caññe kāmabhogino, giddhā ce na vamissanti kākapaññāya te vidū. 

3539. Tâu bệ hạ, tương tự y như vậy, bệ hạ và những người khác có sự thọ hưởng các dục, rồi bị tham đắm, nếu những người ấy không ói ra, thì họ có sự hiểu biết tựa như trí tuệ của con quạ.

32. Cũng vậy, Ðại vương với những người
Tham lam tìm lạc thú kia hoài,
Tưởng mình có trí như chim quạ,
Cho đến khi lìa bỏ cuộc đời.

3540. Esā te upamā rāja atthasandassanī katā, tvaṃ ca paññāyase tena yadi kāhasi vā na vā. 

3540. Tâu bệ hạ, ví dụ này đã được tạo ra cho bệ hạ, có sự chỉ rõ ý nghĩa, và bệ hạ sẽ được hiểu rõ điều ấy, và tùy thuộc bệ hạ sẽ làm hay không làm.”

33. Ví dụ ta bày tỏ thật chân,
Ðại vương hãy thận trọng quan tâm,
Danh thơm có được hay danh xấu,
Tùy thuộc hành vi của Ðại quân.

3541. Ekavācampi dve vācaṃ bhaṇeyya anukampako, tatuttariṃ na bhāseyya dāso vayyassa santike. 

3541. Vị có lòng thương tưởng có thể thuyết một lời, hai lời, và không thể nói nhiều hơn thế, tựa như người tớ trai bên cạnh ông chủ.

34. Vì từ tâm nói một hai lần,
Nhắc nhở đôi lời để hộ thân,
Song chớ nhắc đi nhắc lại mãi,
Giống gia nô trước chủ nhân ông!

3542. Idaṃ vatvāna pakkāmi soṇako amitabuddhimā, vehāse antalikkhasmiṃ anusāsitvāna khattiyaṃ. 

3542. Sau khi nói điều này, sau khi đã chỉ dạy vị Sát-đế-lỵ, vị Soṇaka có trí giác ngộ vô lượng đã ra đi bằng đường không trung, trên bầu trời. 

35. Với trí vô biên, bậc Ðại nhân,
So-na Giác giả dạy vương quân
Vừa xong, Ngài thẳng đàng bay biến
Trong khoảng không gian rộng mịt mùng.

3543. Ko nu me rājakattāro sūtā veyyattimāgatā, rajjaṃ niyyādayissāmi nāhaṃ rajjenamatthiko.

3543. “Các quan viên làm lễ phong vương, các xa phu, các vị đã đạt đến tài năng đâu rồi? Trẫm sẽ bàn giao vương quyền. Trẫm không còn ham muốn với vương quyền.

36. Các quản xa nay được lệnh ban
Ði tìm đâu được đấng minh hoàng?
Trẫm không muốn ngự trên ngai nữa,
Trẫm giã từ ngay chiếc miện vàng.

3544. Ajjeva pabbajissāmi ko jaññā maraṇaṃ suve, māhaṃ kākova dummedho kāmānaṃ vasamanvagaṃ.

3544. Nội trong ngày hôm nay, trẫm sẽ xuất gia. Ai có thể biết được cái chết vào ngày mai. Chớ để trẫm trở thành kẻ thiểu trí, tựa như con quạ đã đi theo sự tác động của các dục.”

37. Ta chết ngày mai, ai có hay
Trẫm mong thọ giới tự hôm nay,
Sợ rằng như quạ kia ngu dại,
Ác dục cuốn lôi, trẫm đọa đày.

3545. Atthi te daharo putto dīghāvu raṭṭhavaḍḍhano, taṃ rajje abhisiñcassu so no rājā bhavissati.

3545. “Bệ hạ có người con trai trẻ tuổi Dīghāvu, là bậc làm hưng thịnh đất nước. Bệ hạ hãy tấn phong vị ấy vào vương vị; vị ấy sẽ trở thành đức vua của chúng thần.”

38. Ðại vương có Thái tử Dì-ghà
Vương tử đẹp tươi quả thật là,
Quán đảnh suy tôn lên bảo tọa
Sẽ làm Ðại đế của triều ta.

3546. Khippaṃ kumāraṃ ānetha dīghāvuṃ raṭṭhavaḍḍhanaṃ, taṃ rajje abhisiñcissaṃ so vo rājā bhavissati.

3546. “Hãy mau triệu vời hoàng tử Dīghāvu, bậc làm hưng thịnh đất nước. Trẫm sẽ tấn phong vị ấy vào vương vị; vị ấy sẽ trở thành đức vua của các khanh.”

39. Mau triệu Dì-ghà-vu đến đây,
Hoàng nhi này thật tốt tươi thay,
Sắc phong quán đảnh lên vương vị,
Ấy chính là vua quốc độ này.

3547. Tato kumāraṃ ānesuṃ dīghāvuṃ raṭṭhavaḍḍhanaṃ, taṃ disvā ālapi rājā ekaputtaṃ manoramaṃ.

3547. Kế đó, họ đã triệu vời hoàng tử Dīghāvu, bậc làm hưng thịnh đất nước. Sau khi nhìn thấy vị ấy, đức vua đã nói về điều làm cho thích ý với người con trai độc nhất:

40. Khi quần thần dẫn đến Digha
Chúa tể tương lai của nước nhà,
Vương phụ bảo cùng hoàng thái tử,
Con yêu độc nhất quả chàng là.

3548. Saṭṭhi gāmasahassāni paripuṇṇāni sabbaso, te putta paṭipajjassu rajjaṃ niyyādayāmi te.  

3548. “Có sáu mươi ngàn ngôi làng hoàn toàn đầy đủ về mọi mặt. Này con trai, con hãy tiếp nhận chúng. Trẫm bàn giao vương quyền cho con. 

41. Thôn làng sáu vạn ấy ngày xưa
Trẫm đã phán rằng:"Chính của ta",
Hãy nhận chúng đi, này Thái tử,
Từ nay trẫm giã biệt sơn hà.

3549. Ajjeva pabbajissāmi ko jaññā maraṇaṃ suve, māhaṃ kākova dummedho kāmānaṃ vasamanvagaṃ. 

3549. Nội trong ngày hôm nay, trẫm sẽ xuất gia. Ai có thể biết được cái chết vào ngày mai. Chớ để trẫm trở thành kẻ thiểu trí, tựa như con quạ đã đi theo sự tác động của các dục.

42. Ngày mai ta chết, có ai hay?
Trẫm muốn hôm nay thọ giới ngay,
Vì sợ ngu si như chú quạ
Ðắm mê ác dục, trẫm sa lầy.

3550. Saṭṭhināgasahassāni sabbālaṅkārabhūsitā, suvaṇṇakacchā mātaṅgā hemakappanavāsasā. 

3550. Có sáu mươi ngàn con voi đã được tô điểm với mọi thứ trang sức, có dây đai bằng vàng, là những con voi có trang phục là yên cương bằng vàng.

43. Kìa xem! Vương tượng sáu mươi ngàn
Ðược điểm tô bao vẻ rỡ ràng,
Với đủ cân đai vàng chói lọi
Trang hoàng bảo vật sáng huy hoàng.

3551. Ārūḷhā gāmaṇīyehi tomaraṅkusapāṇihi, te putta paṭipajjassu rajjaṃ niyyādayāmi te. 

3551. Chúng được cỡi lên bởi các viên quản tượng có cây thương móc câu ở bàn tay. Này con trai, con hãy tiếp nhận chúng. Trẫm bàn giao vương quyền cho con. 

44. Quản tượng ngồi lên cỡi mỗi con,
Tay cầm giáo có móc câu tròn,
Nhận đi, Thái tử, cha ban tặng
Con, kẻ lên ngôi trị nước non.

3552. Ajjeva pabbajissāmi ko jaññā maraṇaṃ suve, māhaṃ kākova dummedho kāmānaṃ vasamanvagaṃ. 

3552. Nội trong ngày hôm nay, trẫm sẽ xuất gia. Ai có thể biết được cái chết vào ngày mai. Chớ để trẫm trở thành kẻ thiểu trí, tựa như con quạ đã đi theo sự tác động của các dục.

45. Ngày mai ta chết, có ai hay?
Trẫm muốn hôm nay thọ giới ngay,
Vì sợ ngu si như chú quạ
Ðắm mê ác dục, trẫm sa lầy.

3553. Saṭṭhiassasahassāni sabbālaṅkārabhūsitā, ājānīyā ca jātiyā sindhavā sīghavāhanā. 

3553. Có sáu mươi ngàn con ngựa đã được tô điểm với mọi thứ trang sức, là thuần chủng về dòng dõi, là giống ngựa Sindhu, có sức chuyển vận mau lẹ.

46. Kìa xem, vương mã sáu mươi ngàn!
Tô điểm yên cương sáng rỡ ràng,
Tuấn mã Sindh đều dòng giống quý,
Bộ binh hùng hậu cả quân đoàn.

3554. Ārūḷhā gāmaṇīyehi illiyācāpadhārihi, te putta paṭipajjassu rajjaṃ niyyādayāmi te. 

3554. Chúng được cỡi lên bởi các viên mã phu có mang gươm và cung. Này con trai, con hãy tiếp nhận chúng. Trẫm bàn giao vương quyền cho con.

47. Chúng đều mang quản mã oai hùng
Ðầy đủ trong tay với kiếm, cung,
Thái tử nhận đi, cha tặng cả
Cho con, người ngự trị toàn dân.

3555. Ajjeva pabbajissāmi ko jaññā maraṇaṃ suve, māhaṃ kākova dummedho kāmānaṃ vasamanavagaṃ. 

3555. Nội trong ngày hôm nay, trẫm sẽ xuất gia. Ai có thể biết được cái chết vào ngày mai. Chớ để trẫm trở thành kẻ thiểu trí, tựa như con quạ đã đi theo sự tác động của các dục.

48. Ngày mai ta chết, có ai hay?
Trẫm muốn hôm nay thọ giới
Vì sợ ngu si như chú quạ
Ðắm mê ác dục, trẫm sa lầy.

3556. Saṭṭhirathasahassāni sannaddhā ussitaddhajā, dīpā athopi veyyagghā sabbālaṅkārabhūsitā.

3556. Có sáu mươi ngàn cỗ xe, đã được trang bị, có lá cờ đã được giương lên, có các tấm thảm da báo, da cọp, đã được tô điểm với mọi thứ trang sức.

49. Vương xa sáu vạn đủ yên cương,
Cờ xí tung bay ngập bốn phương
Da cọp, da beo bao phủ khắp,
Kìa xem quang cảnh thật huy hoàng!

3557. Ārūḷhā gāmaṇīyehi cāpahatthehi vammihi, te putta paṭipajjassu rajjaṃ niyyādayāmi te.

3557. Chúng được cỡi lên bởi các viên xa phu mặc áo giáp, có cây cung ở tay. Này con trai, con hãy tiếp nhận chúng. Trẫm bàn giao vương quyền cho con.

50. Quản xa điều ngự, giáp bào mang,
Cung tiễn cầm tay, thảy vũ trang,
Thái tử nhận đi, cha tặng cả
Vì con, người ngự trí giang san.

3558. Ajjeva pabbajissāmi ko jaññā maraṇaṃ suve, māhaṃ kākova dummedho kāmānaṃ vasamanvagaṃ.

3558. Nội trong ngày hôm nay, trẫm sẽ xuất gia. Ai có thể biết được cái chết vào ngày mai. Chớ để trẫm trở thành kẻ thiểu trí, tựa như con quạ đã đi theo sự tác động của các dục.

51. Ta chết ngày mai, ai có hay?
Trẫm mong thọ giới tự hôm nay,
Sợ rằng như quạ kia ngu dại,
Ác dục đắm mê, trẫm đọa đày.

3559. Saṭṭhidhenusahassāni rohaññā puṅgavūsabhā, tā putta paṭipajjassu rajjaṃ niyyādayāmi te.

3559. Có sáu mươi ngàn bò cái màu hung đỏ, với các con bò đực đầu đàn. Này con trai, con hãy tiếp nhận chúng. Trẫm bàn giao vương quyền cho con.

52. Sáu vạn bò tơ sắc đỏ hồng,
Cùng đàn bò đực ở bên lưng,
Nhận đi, Thái tử, cha ban tặng
Vì chính con cai trị quốc dân.

3560. Ajjeva pabbajissāmi ko jaññā maraṇaṃ suve, māhaṃ kākova dummedho kāmānaṃ vasamanvagaṃ.

3560. Nội trong ngày hôm nay, trẫm sẽ xuất gia. Ai có thể biết được cái chết vào ngày mai. Chớ để trẫm trở thành kẻ thiểu trí, tựa như con quạ đã đi theo sự tác động của các dục.

53. Ngày mai ta chết, có ai hay?
Trẫm muốn hôm nay thọ giới ngay,
Vì sợ ngu si như chú quạ
Ðắm mê ác dục, trẫm sa lầy.

3561. Soḷasitthīsahassāni sabbālaṅkārabhūsitā, vicitravatthābharaṇā āmuttamaṇikuṇḍalā. tā putta paṭipajjassu rajjaṃ niyyādayāmi te.  

3561. Có sáu mươi ngàn nữ nhân đã được tô điểm với mọi thứ trang sức, có vải vóc và đồ trang sức đủ màu sắc rực rỡ, có các bông tai bằng ngọc trai và ngọc ma-ni. Này con trai, con hãy tiếp nhận các nàng ấy. Trẫm bàn giao vương quyền cho con. 

54. Sáu vạn cung phi đẹp nõn nà
Ðứng kia xiêm áo thật xa hoa,
Ðầy tay vòng ngọc, hoa tai điểm,
Cha tặng con, người trị quốc gia.

3562. Ajjeva pabbajissāmi ko jaññā maraṇaṃ suve, māhaṃ kākova dummedho kāmānaṃ vasamanvagaṃ. 

3562. Nội trong ngày hôm nay, trẫm sẽ xuất gia. Ai có thể biết được cái chết vào ngày mai. Chớ để trẫm trở thành kẻ thiểu trí, tựa như con quạ đã đi theo sự tác động của các dục.”

55. Ta chết ngày mai, ai có hay?
Trẫm mong thọ giới tự hôm nay,
Sợ rằng như quạ kia ngu dại,
Ác dục đắm mê, trẫm đọa đày.

3563. Daharasseva me tāta mātā matāti me sutaṃ, tayā vinā ahaṃ tāta jīvitumpi na ussahe. 

3563. “Ngay từ khi con còn nhỏ, thưa cha, mẹ của con đã chết, con đã được nghe như thế. Thưa cha, không có cha, con không thể sống được.

56. Chúng bảo con: "Vương mẫu mất rồi"
Ðáng thương ai tử nọ! Than ôi!
Làm sao con sống không vương phụ,
Con đã lìa sinh thú ở đời.

3564. Yathā āraññakaṃ nāgaṃ poto anveti pacchato, jessantaṃ giriduggesu samesu visamesu ca. 

3564. Giống như con voi con đi theo phía sau con voi lớn sống ở rừng, trong lúc dạo chơi ở những khe núi hiểm trở, ở những nơi bằng phẳng và lồi lõm. 

57. Như ở sau lưng, sát với cha,
Voi con thường thấy kế voi già,
Xuyên đèo, xuyên núi hay rừng rậm,
Bằng phẳng, gồ ghề, cũng vượt qua.

3565. Evaṃ taṃ anugacchāmi puttamādāya gacchato, subharo te bhavissāmi na te hessāmi dubbharo.

3565. Tương tự như vậy, con sẽ cầm bình bát đi theo cha ở phía sau. Con sẽ là dễ nuôi đối với cha, con sẽ là không khó nuôi đối với cha.”

58. Bình bát trong tay, con bước sau,
Theo cha dẫn lối bất kỳ đâu,
Cha không thấy gánh con làm nặng,
Hay phải nuôi con khó nhọc nào.

3566. Yathā sāmuddikaṃ nāvaṃ vāṇijānaṃ dhanesinaṃ, vohāro tattha gaṇheyya vāṇijā byasanī siyā, evameva puttakali antarāyakaro mama.

3566. “Giống như chiếc tàu biển của những người thương buôn đang tầm cầu tài sản có thể gặp xoáy nước ở biển khơi, người thương buôn có thể có sự rủi ro; tương tự y như vậy, này đứa con bất hạnh, đây là việc gây chướng ngại cho trẫm.

59. Như thương nhân, chủ các con tàu,
Kiếm lợi dù cho với giá nào,
Thường bị cuốn trôi vào vực xoáy,
Cả thuyền, thủy thủ, thảy tiêu hao.

60. Sợ rằng ta gặp bước gian nan,
Con trẻ gây phiền lụy cản đàng,

3567. Imaṃ kumāraṃ pāpetha pāsādaṃ rativaḍḍhanaṃ, tattha kambusa hatthāyo yathā sakkaṃva accharā, tā naṃ tattha ramessanti tāhi ceso ramissati.

3567. Các khanh hãy tấn phong cho hoàng tử này tại lâu đài có sự hưng thịnh về lạc thú. Tại nơi ấy, các nữ nhân có cánh tay bằng vàng. Tại nơi ấy, các nàng ấy sẽ làm cho hoàng tử thích thú, và hoàng tử sẽ thích thú với các nàng ấy, giống như các nàng tiên nữ làm cho Thiên Chủ Sakka thích thú vậy.”

Làm lễ phong vương trong bảo điện,
Cho con hưởng lạc thú trần gian.

61. Cả bầy cung nữ vuốt ve chàng
Ngời chói đôi tay với ngọc vàng,
Như Ðế Thích cùng bầy thị nữ
Từ đây chàng sẽ được hân hoan.

3568. Tato kumāraṃ pāpesuṃ pāsādaṃ rativaḍḍhanaṃ, taṃ disvā avacuṃ kaññā dīghāvuṃ raṭṭhavaḍḍhanaṃ.

3568. Kế đó, họ đã tấn phong cho vị hoàng tử tại lâu đài có sự hưng thịnh về lạc thú. Sau khi nhìn thấy hoàng tử, các cô gái đã nói với hoàng tử Dīghāvu, bậc làm hưng thịnh đất nước rằng:

62. Họ rước Di-ghà, Thái tử này
Vào cung điện, chốn lạc hoan đầy,
Vừa nhìn vương tử, đoàn thanh nữ
Kiều diễm, liền thưa gửi giải bày:

3569. Devatānusi gandhabbo ādu sakko purindado, ko vā tvaṃ kassa vā putto kathaṃ jānemu taṃ mayaṃ.

3569. “Phải chăng ngài là vị Thiên nhân, là vị Càn-thát-bà, hay là Thiên Chủ Sakka, vị đã bố thí trước đây? Chàng là ai, chàng là con của người nào? Làm thế nào bọn thiếp có thể biết về chàng?”

63. -"Chàng là ai? Nhạc sĩ, Thiên thần,
Hay Ðế Thích danh tiếng lẫy lừng,
Bố thí của tiền khắp thị trấn,
Xin cho tiện thiếp biết danh xưng?.

3570. Namhi devo na gandhabbo napi sakko purindado, kāsirañño ahaṃ putto dīghāvu raṭṭhavaḍḍhano, mamaṃ bharatha bhaddaṃ vo ahaṃ bhattā bhavāmi vo.

3570. “Ta không phải là Thiên nhân, không phải là Càn-thát-bà, cũng không phải là Thiên Chủ Sakka, vị đã bố thí trước đây. Ta là con trai của đức vua xứ Kāsi, là Dīghāvu, bậc làm hưng thịnh đất nước. Các nàng hãy chấp nhận ta; điều tốt lành sẽ đến với các nàng. Ta là chồng của các nàng.”

64. "Ta không Nhạc sĩ, chẳng Thiên thần,
Chẳng Ðế Thích danh tiếng lẫy lừng,
Vua xứ Kà-si, ta kế vị,
Di-ghà Thái tử, ấy danh xưng,
Hãy yêu ta nhé và an lạc,
Ta sắc vương phi đủ mọi nàng!

3571. Taṃ tattha avacuṃ kaññā dīghāvuṃ raṭṭhavaḍḍhanaṃ, kuhiṃ rājā anuppatto ito rājā kuhiṃ gato.  

3571. Tại nơi ấy, các cô gái đã nói với vị Dīghāvu ấy, bậc làm hưng thịnh đất nước, rằng: “Hoàng thượng đã đến được nơi nào? Từ nơi này hoàng thượng đã đi đến nơi nào?” 

65. Rồi với Di-ghà, vị chúa công,
Các nàng kiều nữ lại thưa rằng:
"Thượng hoàng tìm chỗ nào an trú,
Và kể tử nay sẽ ẩn thân?".

3572. Paṅkaṃ rājā atikkanto thale rājā patiṭṭhito, akaṇṭakaṃ agahanaṃ paṭipanno mahāpathaṃ.

3572. “Hoàng thượng đã vượt qua vũng lầy (ngũ dục). Hoàng thượng đã đứng vững ở đất bằng (xuất gia), đã thực hành đạo lộ lớn (đạo lộ giải thoát) không có gai nhọn (ô nhiễm), không có sự nắm giữ (các ô nhiễm).

66. - "Phụ vương đã tránh chốn bùn nhơ,
Ngài đã bình an ở đất khô,
Thoát khỏi chông gai rừng rậm rạp,
Cuối cùng ngài đã thấy đường to.

3573. Ahañca paṭipannosmi maggaṃ duggatigāminaṃ, sakaṇṭakaṃ sagahanaṃ yena gacchanti duggatiṃ. 

3573. Còn ta đang thực hành đạo lộ đưa đến cảnh giới khổ đau, có gai nhọn, có sự nắm giữ, do đạo lộ đó chúng sanh đi đến cảnh giới khổ đau.”

67. Còn ta mới cất bước lên đường
Dẫn đến nơi đầy rẫy khổ buồn,
Qua đám chông gai, rừng rậm rạp
Tiến lên tìm số phận kinh hoàng".

3574. Tassa te svāgataṃ rāja sīhasseva giribbajaṃ, anusāsa mahārāja tvaṃ no sabbāsamissaro ”ti. 

3574. “Tâu bệ hạ, chào mừng bệ hạ đã ngự đến, tựa như việc đi đến hang núi của con sư tử. Tâu đại vương, xin đại vương hãy chỉ dạy. Đại vương là chúa tể của tất cả chúng thần.” 

68.- "Cung nghênh Thánh thượng đến hoàng cung,
Như hổ tìm con ở động hang,
Thánh thượng từ đây lên ngự trị,
Chánh chân thừa kế chiếc ngai vàng".

Soṇakajātakaṃ.

***

Bổn sanh Phật Độc Giác Soṇaka. [529]

*** 



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada