3449. Kinnu daṇḍaṃ kimajinaṃ kiṃ chattaṃ kiṃ upāhanaṃ, kiṃ aṅkusañca pattañca saṅghāṭiñcāpi brāhmaṇa, taramānarūpo gaṇhāsi kannu patthayase disaṃ.
3449. “Tại sao ngài có vẻ vội vã cầm lấy cây gậy chống, mảnh y phục da dê, cái dù che, đôi đép, cái móc câu, cái bình bát, và luôn cả tấm y khoác ngoài? Thưa vị Bà-la-môn, ngài mong muốn đi về hướng nào?”
1. Có nghĩa gì chăng các vật này,
Lọng, giầy, y, gậy lại cầm tay?
Thượng y, bình bát, cùng dao quắm,
Ta muốn hiểu ra cớ sự vầy,
Ðến xứ sở nào xa cách lắm,
Sao ngài nóng vội bỏ đi ngay?
3450. Dvādasetāni vassāni vusitāni tavantike, nābhijānāmi soṇena piṅgalenābhikujjitaṃ.
3450. “Mười hai năm này được sống gần bệ hạ, bần đạo không biết gì về tiếng sủa của con chó hung.
2. Tâu Ðại vương, hơn một thập niên,
Hạ thần an trú chốn hoa viên,
Từ nay về trước, chưa hề thấy
Con chó này cất tiếng sủa lên.
3451. Svāyaṃ dittova nadati sukkadāṭhaṃ vidaṃsayaṃ, tava sutvā sabhariyassa vītasaddhassa maṃ pati.
3451. Sau khi nghe được bệ hạ và hoàng hậu không còn niềm tin đối với bần đạo, con chó này đây gầm gừ tựa như kiêu ngạo, còn nhe răng trắng hếu.”
3. Hôm nay chó nọ lại nhe răng
Trắng nhởn, kiêu căng thật dữ dằn,
Vì đã nghe ngài cùng chánh hậu,
Báo cho thần biết, sủa vang rần!
3452. Ahu esa kato doso yathā bhāsasi brāhmaṇa, esa bhiyyo pasīdāmi vasa brāhmaṇa māgamā.
3452. “Thưa vị Bà-la-môn, lỗi lầm ấy đã được tạo ra giống như ngài nói. Trẫm đây tin tưởng vào ngài nhiều hơn nữa. Thưa vị Bà-la-môn, ngài hãy ở lại, xin chớ ra đi.”
4. Tội ấy của ta thật đúng phần,
Ðích ta đà nhắm giết Tôn nhân,
Song nay ân huệ ban lần nữa,
Mong ước Tôn nhân hãy nán chân.
3453. Sabbaseto pure āsi tatopi sabalo ahu, sabbalohitakodāni kālo pakkamituṃ mama.
3453. “Trước đây, đã là cơm trắng toàn bộ. Sau đó, đã có lấm tấm (trộn lẫn gạo đỏ). Bây giờ, toàn bộ gạo đỏ. Là thời điểm ra đi của bần đạo.
5. Thực phẩm ngày xưa sạch, trắng ngần,
Kế theo màu sắc tạp nham dần,
Ðến nay đã hóa thành nâu sẫm,
Chính lúc này ta phải rút chân.
3454. Abbhantaraṃ pure āsi tato majjhe tato bahi, purā niddhamanā hoti sayameva vajāmahaṃ.
3454. Trước đây, (chỗ ngồi) là ở phòng trong, sau đó là phòng giữa, kế đến là ở bên ngoài. Bần đạo hãy tự mình ra đi trước khi có việc tống khứ.
6. Buổi đầu tọa thực ở trên ngai,
Kế đó cầu thang, cuối bệ dài,
Trước lúc ta chờ dài cổ họng,
Ta đành tử giã chốn này thôi.
3455. Vītasaddhaṃ na seveyya udapānaṃvanodakaṃ, sacepi naṃ anukhaṇe vārikaddama gandhikaṃ.
3455. Không nên thân cận người đã không còn niềm tin (đối với mình), tựa như cái giếng không còn nước, thậm chí nếu có thể đào sâu thêm thì cũng chỉ là nước bùn có mùi hôi.
7. Ngài chớ mến yêu bạn bất trung:
Khác gì đâu cái giếng khô cùn,
Dù đào sâu đến bao nhiêu mẫu,
Dòng nước tuôn ra cũng đục bùn.
3456. Pasannameva seveyya appasannaṃ vivajjaye, pasannaṃ payirupāseyya rahadaṃvodakatthiko.
3456. Nên thân cận người thật sự tin tưởng (mình), nên xa lánh kẻ không tin tưởng, nên gần gũi người tin tưởng (mình), tựa như người cần nước gần gũi cái hồ.
8. Phải lo kết nghĩa bạn trung can,
Hãy tránh xa liền bạn bất nhân,
Như kẻ khát đi tìm suối nước,
Bạn vàng trung tín phải theo gần.
3457. Bhaje bhajantaṃ purisaṃ abhajantaṃ na bhajjaye, asappurisadhammo so yo bhajantaṃ na bhajjati.
3457. Nên cộng sự với người cộng sự (với mình), không nên cộng sự với kẻ không cộng sự (với mình). Kẻ nào không cộng sự với người cộng sự (có thiện tâm), kẻ ấy có bản chất của kẻ phi chân nhân.
9. Lưu luyến bạn thân luyến ái ngài,
Ðem tình ngài đáp lại tình ai,
Kẻ ruồng bỏ bạn vàng trung tín
Ðược kể là người đốn mạt thôi.
3458. Yo bhajantaṃ na bhajati sevamānaṃ na sevati, sa ve manussapāpiṭṭho migo sākhassito yathā.
3458. Kẻ nào không cộng sự với người đang cộng sự, không thân cận người đang thân cận, chính kẻ ấy là tồi tệ nhất ở loài người, giống như loài thú, loài khỉ.
10. Kẻ chẳng luyến lưu bạn thủy chung,
Chẳng đem tình đáp lại tình thân,
Giữa đời là kẻ đê hèn nhất,
Ðịa vị không hơn lũ khỉ rừng.
3459. Accābhikkhaṇasaṃsaggā asamosaraṇena ca, etena mittā jīranti akāle yācanāya ca.
3459. Do gặp gỡ thường xuyên quá nhiều, d0 không hội họp chung, và do yêu cầu không đúng thời, do việc ấy các thân hữu bị suy giảm.
11. Gặp gỡ quá nhiều cũng xấu xa,
Khác nào chẳng gặp gỡ bao giờ.
Hỏi xin ân huệ nào nhanh quá
Cũng khiến tình thân hóa nhạt nhòa!
3460. Tasmā nābhikkhaṇaṃ gacche na ca gacche cirāciraṃ, kālena yācaṃ yāceyya evaṃ mittā na jīyare.
3460. Vì thế, không nên qua lại thường xuyên, và quá lâu không qua lại, nên bày tỏ yêu cầu lúc hợp thời, như vậy thì các thân hữu không bị suy giảm.
12. Viếng bạn, song đừng đến viếng luôn,
Cũng không nấn ná bước dừng chân,
Ðúng thời, ta mới cầu ân huệ,
Nhờ thế tình thân chẳng lụi dần.
3461. Aticiraṃ nivāsena piyo bhavati appiyo, āmanta kho taṃ gacchāma purā te homa appiyā.
3461. Do việc cư ngụ quá lâu mà người yêu quý không còn được yêu quý. Thật vậy, hãy để chúng tôi chào bệ hạ và ra đi, trước khi chúng tôi đây không còn được yêu quý.”
13. Ai cứ kéo dài cuộc trú chân,
Thấy thường bằng hữu hóa cừu nhân;
Trước khi ta mất tình bằng hữu,
Xin giã biệt ngay, tiến bước đường.
3462. Evaṃ ce yācamānānaṃ añjaliṃ nāvabujjhasi, paricārakānaṃ sattānaṃ vacanaṃ na karosi no, evaṃ taṃ abhiyācāma puna kayirāsi pariyāyaṃ.
3462. “Nếu như ngài không để tâm đến việc chắp tay của những người đang thỉnh cầu, nếu ngài không nói lời nào với chúng tôi, những người hộ độ ngài, thì chúng tôi thỉnh cầu ngài như vầy: Mong rằng ngài có thể thực hiện việc quay trở lại lần nữa.”
14. Dù trẫm chắp tay khẩn thiết nài,
Ngài không muốn để lọt vào tai,
Chẳng dành lời nói cho quần chúng
Tha thiết cầu ân đức của ngài,
Trẫm khát khao ngài ban tối huệ
Xin về đây viếng trẫm nay mai.
3463. Evaṃ ce no viharataṃ antarāyo na hessati, tumhaṃ cāpi mahārāja amhaṃ vā raṭṭhavaḍḍhana, appeva nāma passema ahorattānamaccaye.
3463. “Tâu đại vương, nếu như sẽ không có nguy biến xảy ra cho chúng tôi trong khi sinh sống, và đối với bệ hạ nữa, hoặc đối với (cả hai) chúng ta, tâu bậc làm hưng thịnh đất nước, có lẽ chúng ta sẽ gặp lại (sau một thời gian) khi những ngày đêm đã qua đi.”
15. Nếu không gì gián đoạn dòng đời,
Ví thử ngài, ta, Ðại đế ôi!
Còn sống, hỡi người-nuôi-quốc-độ,
Ta bay về lại chốn này thôi,
Rồi ta còn dịp lành tương kiến
Trong lúc ngày đêm lờ lững trôi.
3464. Udīraṇā ce saṅgatyā bhāvāya manuvattati, akāmā akaraṇīyaṃ vā karaṇīyaṃ vāpi kubbati, akāmakaraṇīyasmiṃ kvidha pāpena lippati.
3464. “Nếu nói rằng: Thế gian này diễn tiến d0 điều kiện tự nhiên của sự hội tụ, con người tạo tác việc không nên làm (việc ác) hay việc nên làm (việc thiện) không do ước muốn; trong trường hợp việc được làm không do ước muốn, thì ở đây, ai bị lấm nhơ bởi tội ác?
16. Nếu thuyết ngài cho "thiện, ác hành"
Ðều do duyên cớ tự nhiên sinh,
Thì trong các việc làm vô ý,
Tội lỗi làm sao thấy chỗ mình?
3465. So ce attho ca dhammo ca kalyāṇo na ca pāpako, bhoto ce vacanaṃ saccaṃ suhato vānaro mayā.
3465. Nếu ý nghĩa và giáo pháp ấy là tốt lành và không xấu xa, nếu lời nói của ngài là sự thật, thì nhờ tôi mà con khỉ đã được chết tốt đẹp.
17. Nếu lý thuyết này ngài chủ trương,
Và đây là Giáo pháp như chân,
Thì hành vi của ta là đúng
Khi giết khỉ kia để hưởng phần.
3466. Attano ce hi vādassa aparādhaṃ vijāniyā, na maṃ tvaṃ garaheyyāsi bhoto vādo hi tādiso.
3466. Bởi vì, nếu học thuyết của bản thân ngài đã cho rằng không có tội lỗi, thì ngài không thể chê trách tôi; chính học thuyết của ngài là như thế ấy.
18. Song nếu ngài trông thấy rõ ràng
Ðây là lý thuyết thật sai lầm,
Thì ngài sẽ chẳng bao giờ nữa
Khiển trách việc ta với luận đàm.
3467. Issaro sabbalokassa sace kappeti jīvitaṃ, iddhi byasanabhāvañca kammaṃ kalyāṇapāpakaṃ, niddesakārī puriso issaro tena lippati.
3467. Nếu vị chúa tể của toàn bộ thế gian xếp đặt cuộc sống, sự thành tựu, sự được mất, và việc làm tốt xấu, con người là công cụ làm theo sự chỉ định, thì vị chúa tể bị lấm nhơ bởi điều ấy.
19. Nếu có Chúa trời đủ vạn năng
Cho người thiện, ác, lạc, ưu tràn,
Ðấng kia quả thật mang đầy tội,
Người theo ý chúa, chỉ chuyên làm.
3468. So ce attho ca dhammo ca kalyāṇo na ca pāpako, bhoto ce vacanaṃ saccaṃ suhato vānaro mayā.
3468. Nếu ý nghĩa và giáo pháp ấy là tốt lành và không xấu xa, nếu lời nói của ngài là sự thật, thì nhờ tôi mà con khỉ đã được chết tốt đẹp.
20. Nếu lý thuyết này ngài chủ trương,
Và đây là Giáo pháp như chân,
Thì hành vi của ta là đúng
Khi giết khỉ kia để hưởng phần.
3469. Attano ce hi vādassa aparādhaṃ vijāniyā, na maṃ tvaṃ garaheyyāsi bhoto vādo hi tādiso.
3469. Bởi vì, nếu học thuyết của bản thân ngài đã cho rằng không có tội lỗi, thì ngài không thể chê trách tôi; chính học thuyết của ngài là như thế ấy.
21. Song nếu ngài trông thấy rõ ràng
Ðây là lý thuyết thật sai lầm,
Thì ngài sẽ chẳng bao giờ nữa
Khiển trách việc ta với luận đàm.
3470. Sace pubbekatahetu sukhadukkhaṃ nigacchati, porāṇakaṃ kataṃ pāpaṃ tameso muñcate iṇaṃ,porāṇaka iṇamokkho kvidha pāpena lippati.
3470. Nếu con người đi đến sướng hay khổ do nhân đã làm kiếp trước, và người ấy thoát khỏi món nợ là việc ác đã làm thời xưa ấy, với việc thoát khỏi món nợ thời xưa ấy, thì ở đây, ai bị lấm nhơ bởi tội ác?
22. Lạc, ưu, khởi tự nghiệp duyên xưa,
Khỉ ấy nay đền tội đã qua,
Mỗi nghiệp ta làm đều trả nợ,
Vậy thì tội lỗi ở đâu ra?
3471. So ce attho ca dhammo ca kalyāṇo na ca pāpako, bhoto ce vacanaṃ saccaṃ suhato vānaro mayā.
3471. Nếu ý nghĩa và giáo pháp ấy là tốt lành và không xấu xa, nếu lời nói của ngài là sự thật, thì nhờ tôi mà con khỉ đã được chết tốt đẹp.
23. Nếu lý thuyết này ngài chủ trương,
Và đây là Giáo pháp như chân,
Thì hành vi của ta là đúng
Khi giết khỉ kia để hưởng phần.
3472. Attano ce hi vādassa aparādhaṃ vijānīyā, na maṃ tvaṃ garaheyyāsi bhoto vādo hi tādiso.
3472. Bởi vì, nếu học thuyết của bản thân ngài đã cho rằng không có tội lỗi, thì ngài không thể chê trách tôi; chính học thuyết của ngài là như thế ấy.
24. Song nếu ngài trông thấy rõ ràng
Ðây là lý thuyết thật sai lầm,
Thì ngài sẽ chẳng bao giờ nữa
Khiển trách việc ta với luận đàm.
3473. Catunnaṃyevupādāya rūpaṃ sambhoti pāṇinaṃ, yato ca rūpaṃ sambhoti tattheva anupagacchati.
3473. Sắc liên quan đến bốn thành phần (đất, nước, lửa, gió) tạo nên sinh vật. Và sắc hình thành từ nơi nào thì sẽ tiến đến chính nơi ấy.
25-26. Tứ đại họp thành mỗi loại sinh,
Mạng chung, mọi bộ phận tan tành,
Mất đi, người chết còn đâu nữa,
Người sống vẫn theo cuộc sống mình,
Ví thử thế gian đều hủy diệt,
Người ngu, bậc trí thảy đi nhanh,
Chẳng ai tội lỗi đầy ô uế
Giữa cõi trần gian đã hoại hình.
3474. Idheva jīvati jīvo pecca pecca vinassati, ucchijjati ayaṃ loko ye bālā ye ca paṇḍitā, ucchijjamāne lokasmiṃ kvidha pāpena lippati.
3474. Mạng sống sinh sống ở ngay tại nơi này và tiêu hoại sau khi chết đi, lần này đến lần khác. Thế gian này bị đứt đoạn, những ai là kẻ ngu hay những ai là người trí (đều như nhau). Trong lúc thế gian này bị đứt đoạn, thì ở đây, ai bị lấm nhơ bởi tội ác?
3475. So ce attho ca dhammo ca kalyāṇo na ca pāpako, bhoto ce vacanaṃ saccaṃ suhato vānaro mayā.
3475. Nếu ý nghĩa và giáo pháp ấy là tốt lành và không xấu xa, nếu lời nói của ngài là sự thật, thì nhờ tôi mà con khỉ đã được chết tốt đẹp.
3476. Bởi vì, nếu học thuyết của bản thân ngài đã cho rằng không có tội lỗi, thì ngài không thể chê trách tôi; chính học thuyết của ngài là như thế ấy.
27. Nếu lý thuyết này ngài chủ trương,
Và đây là Giáo pháp như chân,
Thì hành vi của ta là đúng
Khi giết khỉ kia để hưởng phần.
3476. Attano ce hi vādassa aparādhaṃ vijāniyā, na maṃ tvaṃ garaheyyāsi bhoto vādo hi tādiso.
28. Song nếu ngài trông thấy rõ ràng
Ðây là lý thuyết thật sai lầm,
Thì ngài sẽ chẳng bao giờ nữa
Khiển trách việc ta với luận đàm.
3477. Āhu khattavidhā loke bālā paṇḍitamānino, mātaraṃ pitaraṃ haññe atho jeṭṭhampi bhātaraṃ, haneyya puttadāre ca attho ce tādiso siyā.
3477. Hạng người theo thuyết vua chúa ở thế gian, những kẻ ngu dốt lại tự hào là sáng suốt, đã bảo rằng có thể giết chết mẹ, cha, rồi anh trai và luôn cả em trai, có thể giết chết vợ và con, nếu mục đích như thế ấy là cần thiết.
29. Sát-đế-lỵ kia vẫn bảo rằng:
- Lũ ngu lại tưởng chúng khôn ngoan-
Mẹ cha cũng giết, tùy cơ hội,
Anh chị, vợ con, nếu có cần.
3478. Yassa rukkhassa chāyāya nisīdeyya sayeyya vā, na tassa sākhaṃ bhañjeyya mittadubbho hi pāpako.
3478. Người ngồi hoặc nằm ở bóng râm của cây nào thì không nên bẻ gãy cành lá của cây ấy, bởi vì kẻ phản bội bạn bè là kẻ ác xấu.
30. Bóng mát ta ngồi xuống nghỉ chân,
Cành cây ta chặt đứt lìa thân,
Tội kia bội nghĩa vong ơn đấy,
Bằng hữu dối gian, hãy ghét căm.
3479. Atha atthe samuppanne samūlamapi abbahe, attho me sambalenāsi suhato vānaro mayā.
3479. Rồi khi có nhu cầu sanh khởi thì có thể nhổ lên thậm chí luôn cả gốc rễ. Tôi đã có nhu cầu về vật dự phòng, và nhờ tôi mà con khỉ đã được chết tốt đẹp.
31. Song nếu do cơ hội nảy sinh,
Thì ta chặt gốc, rễ cây cành,
Vì cần phục vụ nhu cầu đó,
Nên giết khỉ kia cũng hợp tình.
3480. So ce attho ca dhammo ca kalyāṇo na ca pāpako, bhoto ce vacanaṃ saccaṃ suhato vānaro mayā.
3480. Nếu ý nghĩa và giáo pháp ấy là tốt lành và không xấu xa, nếu lời nói của ngài là sự thật, thì nhờ tôi mà con khỉ đã được chết tốt đẹp.
32. Nếu lý thuyết này ngài chủ trương,
Và đây là Giáo pháp như chân,
Thì hành vi của ta là đúng
Khi giết khỉ kia để hưởng phần.
3481. Attano ce hi vādassa aparādhaṃ vijāniyā, na maṃ tvaṃ garaheyyāsi bhoto vādo hi tādiso.
3481. Bởi vì, nếu học thuyết của bản thân ngài đã cho rằng không có tội lỗi, thì ngài không thể chê trách tôi; chính học thuyết của ngài là như thế ấy.
33. Song nếu ngài trông thấy rõ ràng
Ðây là lý thuyết thật sai lầm,
Thì ngài sẽ chẳng bao giờ nữa
Khiển trách việc ta với luận đàm.
3482. Ahetuvādo puriso yo ca issarakuttiko, pubbekatī ca ucchedī yo ca khattavidho naro.
3482. Có người với học thuyết không nguyên nhân, và có người tin vào sự sáng tạo của vị chúa tể, người thì quan niệm do việc đã làm kiếp trước, người thì cho rằng có sự đứt đoạn, và người theo thuyết vua chúa,–
34. Người này quả quyết:"Chẳng nguyên nhân".
Kẻ khác:"Có trời, Đấng chí tôn".
Kẻ nói:"Nghiệp này do nghiệp trước".
Người thì:" Thế giới thảy tiêu vong".
3483. Ete asappurisā loke bālā paṇḍitamānino, kareyya tādiso pāpaṃ atho aññampi kāraye, asappurisasaṃsaggo dukkaṭo kaṭukudrayo.
3483. –những người này là các kẻ phi chân nhân ở thế gian, những kẻ ngu dốt lại tự hào là sáng suốt. Kẻ như thế ấy có thể làm điều ác, rồi còn xúi người khác làm. Sự tiếp xúc với kẻ phi chân nhân là việc làm sai trái, là nguồn tạo ra sự đắng cay.
35. Sát-đế-lỵ cùng ngoại đạo sư,
Tưởng mình có trí, cả bầy ngu,
Ác nhân gây tội, khuyên làm ác,
Truyền bá ác hành, tạo khổ ưu.
3484. Urabbharūpena bakāsu pubbe asaṅkito ajayūthaṃ upeti, hantvā uraṇiṃ ajiyaṃ ajañca citrāsayitvā yena kāmaṃ paleti.
3484. Vào thời quá khứ, có con sói giả dạng con cừu rồi đi đến gần bầy dê, và đã không bị nghi ngờ. Sau khi giết hại cừu, dê cái, và dê đực, sau khi làm cho khiếp sợ, nó tẩu thoát theo như ý muốn.
36. Sói đội lốt cừu một thuở xưa,
Đến gần chuồng nọ chẳng ai ngờ
Giết đàn cừu hoảng hồn kinh vía,
Xông tới đồng xanh chạy thẳng giò!
3485. Tathā vidheke samaṇabrāhmaṇāse chadanaṃ katvā vañcayantī manusse, anāsakā thaṇḍilaseyyakā ca rajojallaṃ ukkuṭikappadhānaṃ, pariyāyabhattañca apāṇakattaṃ pāpācārā arahanto vadānā.
3485. Tương tự như thế, có một số hạng Sa-môn và Bà-la-môn thực hiện việc che đậy rồi lừa gạt nhiều người. Họ không ăn, và nằm ở trên mặt đất, có bụi bặm và cáu ghét, ra sức ngồi chồm hổm, có bữa ăn theo định kỳ, và thực hiện việc không uống nước, có hành vi xấu xa, có sự khoe khoang là A-la-hán.
37. Cũng vậy, Sa-môn hoặc đạo nhân
Thường dùng chiếc áo gạt lương dân,
Kẻ nằm trên đất, mình dơ bẩn,
Chồm hổm người ngồi, kẻ nhịn ăn.
38-39. Bọn thì không uống, bọn thì ăn
Theo luật, tạo ra vẻ thánh thần,
3486. Ete asappurisā loke bālā paṇḍitamānino, kareyya tādiso pāpaṃ atho aññampi kāraye, asappurisasaṃsaggo dukkaṭo kaṭukudrayo.
3486. Những người này là những kẻ phi chân nhân ở thế gian, những kẻ ngu dốt lại tự hào là sáng suốt. Kẻ như thế ấy có thể làm điều ác, rồi còn xúi người khác làm. Sự tiếp xúc với kẻ phi chân nhân là việc làm sai trái, là nguồn tạo ra sự đắng cay.
Bọn chúng đều là phường bất thiện,
Người ngu lại tưởng chúng hiền nhân.
Bọn này không những gây bao tội,
Chúng lại khuyên người khác lỗi lầm.
Truyền bá ác hành luôn tạo quả
Khổ đau và hoạn nạn muôn phần.
3487. Yamāhu natthi viriyanti hetuñca apavadanti ye, parakāraṃ attakārañca ye tucchaṃ samavaṇṇayuṃ.
3487. Những người nào đã nói là không có sự nỗ lực, những người nào không tuyên thuyết về nhân, và những người nào đã ca ngợi việc làm của bản thân và hành động của người khác là rỗng không,–
40. Bảo rằng: "Mọi vật chẳng nguồn căn",
Chúng phủ nhận luôn mọi nghiệp nhân,
Xem nhẹ nghiệp mình cùng kẻ khác
Như là huyễn hoặc, hỡi vương quân.
3488. Ete asappurisā loke bālā paṇḍitamānino, kareyya tādiso pāpaṃ atho aññampi kāraye, asappurisasaṃsaggo dukkaṭo kaṭukudrayo.
3488. –những người này là những kẻ phi chân nhân ở thế gian, những kẻ ngu dốt lại tự hào là sáng suốt. Kẻ như thế ấy có thể làm điều ác, rồi còn xúi người khác làm. Sự tiếp xúc với kẻ phi chân nhân là việc làm sai trái, là nguồn tạo ra sự đắng cay.
41. Bọn chúng đều là lũ bất lương,
Người ngu lại tưởng chúng hiền nhân,
Chúng gây tội lỗi, còn khuyên ác,
Truyền bá ác hành, tạo khổ thân.
3489. Sace hi viriyaṃ nāssa kammaṃ kalyāṇapāpakaṃ, na bhare vaḍḍhakiṃ rājā napi yantāni kāraye.
3489. Bởi vì nếu không có sự nỗ lực, không có nghiệp thiện và ác, đức vua không cấp dưỡng người thợ mộc thì cũng không thể cho thực hiện các công trình xây dựng.
42. Nếu chẳng nghiệp nhân ở chốn nào,
Cũng không có thiện, ác hành, sao
Vua thường tuyển thợ đầy tài khéo
Ðể hưởng lợi nhờ kỷ xảo cao?
3490. Yasmā ca viriyaṃ atthi kammaṃ kalyāṇapāpakaṃ, tasmā yantāni kāreti rājā bharati vaḍḍhakiṃ.
3490. Và bởi vì có sự nỗ lực, có nghiệp thiện và ác, cho nên đức vua cấp dưỡng người thợ mộc và cho thực hiện các công trình xây dựng.
43. Vậy cũng chính vì có nghiệp nhân
Thiện hành, ác nghiệp có thông thường,
Nên vua chúa tuyển người tài khéo
Ðể hưởng lợi nhiều bởi kỹ năng.
3491. Yadi vassasataṃ devo na vasse na himaṃ pate, ucchijjeyya ayaṃ loko vinasseyya ayaṃ pajā.
3491. Nếu một trăm năm trời không đổ mưa, cũng không rơi tuyết, thế gian này có thể bị gián đoạn, loài người này có thể bị diệt vong.
44. Ví thử trăm năm chẳng có mưa,
Tuyết sương chẳng rớt đúng theo mùa
Ở trong thế giới suy tàn cả
Dân chúng diệt vong chẳng kẻ chừa.
3492. Yasmā ca vassati devo himaṃ cāpi phusīyati, tasmā sassāni paccanti raṭṭhañca pallate ciraṃ.
3492. Và nhờ vào trời đổ mưa và còn rơi tuyết xuống nữa, nhờ thế các mùa màng được chín rộ và đất nước được hộ trì lâu dài.
45. Song có mưa rơi, với tuyết sương,
Bốn mùa thay đổi luật thông thường
Làm cho thóc lúa dần dần chín,
Ðất nước trải bao thế kỷ trường.
3493. Gavañce taramānānaṃ jimhaṃ gacchati puṅgavo, sabbā tā jimhaṃ gacchanti nette jimhaṃ gate sati.
3493. Trong khi bầy bò đang vượt qua sông, nếu con bò đực đi quanh co, tất cả các con bò cái sẽ đi quanh co khi con bò dẫn đường đi quanh co.
46. Bò già đi lạc giữa dòng sông,
Cả đám bò con lạc hướng luôn,
Vậy trưởng đoàn theo đường hiểm trở,
Ðưa bầy thuộc hạ đến đường cùng,
3494. Evameva manussesu yo hoti seṭṭhasammato, so ce adhammaṃ carati pageva itarā pajā, sabbaṃ raṭṭhaṃ dukkhaṃ seti rājā ce hoti adhammiko.
3494. Tương tự y như thế ở loài người, nếu người được phong làm thủ lãnh thực hành không đúng pháp, nói gì thêm những người khác, toàn bộ đất nước sẽ bị lầm than nếu đức vua là kẻ không công minh.
Và toàn quốc độ đều ân hận,
Thời đại buông lung phóng dật tràn.
3495. Gavañce taramānānaṃ ujuṃ gacchati puṅgavo, sabbā tā ujuṃ gacchanti nette ujugate sati.
3495. Trong khi bầy bò đang vượt qua sông, nếu con bò đực đi ngay thẳng, tất cả các con bò cái sẽ đi ngay thẳng khi con bò dẫn đường đi ngay thẳng.
3496. Evameva manussesu yo hoti seṭṭhasammato, so ceva dhammaṃ carati pageva itarā pajā, sabbaṃ raṭṭhaṃ sukhaṃ seti rājā ce hoti dhammiko.
3496. Tương tự y như thế ở loài người, nếu người được phong làm thủ lãnh thực hành đúng pháp, nói gì thêm những người khác, toàn bộ đất nước sẽ được hạnh phúc nếu đức vua là người công minh.
3497. Mahārukkhassa phalino āmaṃ chindati yo phalaṃ, rasañcassa na jānāti bījañcassa vinassati.
3497. Kẻ nào hái trái cây còn non của cội cây lớn đang kết trái, kẻ ấy không biết được vị ngon của trái cây này và hủy hoại hạt giống của nó.
47. Kẻ hái trái còn quá nhỏ nhoi
Trước khi trái ấy chín cho muồi,
Chính là hủy hoại bao mầm hạt,
Chẳng thể biết đâu quả ngọt bùi.
3498. Mahārukkhūpamaṃ raṭṭhaṃ adhammena yo pasāsati, rasañcassa na jānāti raṭṭhañcassa vinassati.
3498. Đất nước được ví như cội cây lớn, kẻ nào cai trị đất nước không công minh, kẻ ấy không biết rõ tiềm lực của nó và hủy hoại đất nước của mình.
48. Cũng vậy người nào tri quốc dân
Bằng nền cai trị chẳng công bằng,
Chẳng hề thưởng thức bao mùi ngọt
Phát xuất từ đường lối chánh chân.
3499. Mahārukkhassa phalino pakkaṃ chindati yo phalaṃ, rasañcassa vijānāti bījañcassa na nassati.
3499. Người nào hái trái cây đã chín của cội cây lớn đang kết trái, người ấy biết được vị ngon của trái cây này và không hủy hoại hạt giống của nó.
49. Nhưng kẻ nào hay để trái tươi
Trên cây, khi trái chín cho muồi,
Là người giữ được bao mầm hạt,
Biết hưởng trái ngon ngọt tuyệt vời.
3500. Mahārukkhūpamaṃ raṭṭhaṃ dhammena yo pasāsati, rasañcassa vijānāti raṭṭhañcassa na nassati.
3500. Đất nước được ví như cội cây lớn, người nào cai trị đất nước công minh, người ấy biết rõ tiềm lực của nó và không hủy hoại đất nước của mình.
50. Cũng vậy, người nào trị quốc dân
Bằng đường chân chánh giữ giang sơn,
Trái cây công lý bao ngon ngọt,
Có thể hưởng cho thật vẹn tròn.
3501. Yo ca rājā janapadaṃ adhammena pasāsati, sabbosadhīhi so rājā viruddhaṃ hoti khattiyo.
3501. Và vị vua nào cai trị xứ sở không công minh, vị vua ấy là Sát- đế- lỵ bị thất bại với mọi giải pháp cứu chữa.
51. Quốc vương cai quản cả giang san
Dùng bạo quyền trị nước bất công,
Phải chịu mất đi nhiều thảo mộc
Dù cho đất kết quả bao phần.
3502. Tatheva negame hiṃsaṃ ye yuttā kayavikkaye, ojadānabalīkāre sa kosena virujjhati.
3502. Tương tự y như thế, trong khi hãm hại các thị dân, là những người gắn bó với việc buôn bán, thông qua việc quy định thuế má vào việc vận chuyển hàng hóa, vị vua ấy bị thất bại với ngân sách tồn trữ.
52. Nếu vua làm hại đám thần dân,
Có đủ tài sinh lợi bán buôn,
Khi lợi tức kia đà giảm sút,
Kho tàng vua cũng cạn vơi dần.
3503. Pahāravarakhettaññū saṅgāme katanissame, ussite hiṃsayaṃ rājā sabalena virujjhati.
3503. Trong khi hãm hại những người tài giỏi về lãnh vực chiến đấu đã thể hiện sự ra sức ở chiến trường, đã được nổi bật, vị vua ấy bị thất bại với quân đội của chính mình.
53. Nếu vua quấy nhiễu đám hùng anh
Có tài điều khiển việc đao binh,
Ðội quân sẽ giã từ vua ấy
Và tước của vua mọi bạo hành.
3404. Tatheva isayo hiṃsaṃ saṃyame brahmacārino, adhammacārī khattiyo so saggena virujjhati.
3504. Tương tự y như thế, trong khi hãm hại các vị ẩn sĩ có sự tự kiềm chế, có sự thực hành Phạm hạnh, bằng sự hành xử không công minh, vị Sát-đế-lỵ ấy bị thất bại với cõi Trời.
54. Nếu làm sai, với Thánh hiền nhân
Vua ấy về sau hưởng xứng phần,
Dù quý tộc mà gây tội lỗi,
Cũng đều phải mất cảnh thiên đàng.
3505. Yo ca rājā adhammaṭṭho bhariyaṃ hanti adūsakaṃ, luddaṃ pasavate pāpaṃ puttehi ca virujjhati.
3505. Và vị vua nào duy trì phi pháp, giết chết người vợ không phải là kẻ lăng loàn, và gây ra tội ác tàn bạo, (vị vua ấy) bị thất bại với các con.
55. Nếu hôn quân giết một vương phi
Dầu chẳng hề gây tội lỗi gì,
Vua liền bị khổ đau xâu xé
Bởi các con cùng địa ngục kia.
3506. Dhammañcare jānapade negamesu balesu ca, isayo ca na hiṃseyyaṃ puttadāre samañcare.
3506. Nên hành xử công minh đối với dân chúng, đối với các thị dân, và đối với các đội quân binh. Và không nên hãm hại các vị ẩn sĩ, nên hành xử bình đẳng với vợ con.
56. Hãy xử công bằng với quốc dân,
Ân cần tử tế với toàn quân,
Với thê nhi hãy đầy thân ái,
Ðể các hiền nhân an trú chân.
3507. Sa tādiso bhūmipati raṭṭhapālo akodhano, sāmante sampakampeti indova asurādhipo ”ti.
3507. Vị như thế ấy là chúa tể của trái đất, đấng hộ trì đất nước, có sự khoan dung, làm cho các lân bang phải khiếp sợ, tựa như vị thần Inda, chúa tể của loài A-tu-la.
57. Vị vua như vậy, hỡi Vương quân,
Giải thoát được bao nỗi hận sân,
Chẳng khác In-dra, Thiên chủ ấy,
Tạo nên khiếp phục giữa quần thần.
Mahābodhijātakaṃ.
***
Bổn Sanh Bậc Đại Nhân Mahābodhi. [528]
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada