3382. Nivesanaṃ kassa nudaṃ sunanda pākārena paṇḍumayena guttaṃ,
kā dissati aggisikhāva dūre vehāsayaṃ pabbataggeva acci.
3382. “Này Sunanda, biệt thự này là của người nào mà được bảo vệ bởi tường thành xây bằng gạch màu cam? Cô nàng nào được nhìn thấy từ đàng xa tựa như ngọn lửa, tựa như đống lửa trên đỉnh ngọn núi ở giữa không trung?
1. Kia, nhà ai đó, hỡi Su-nan,
Bao bọc thành cao tỏa ánh vàng?
Bảo vật này như sao sáng rực,
Hay thiều quang chiếu đỉnh cao san?
3383. Dhītānayaṃ kassa sunanda hoti suṇisānayaṃ kassa athopi bhariyā, akkhāhi me khippamidheva puṭṭho avāvaṭā yadi vā atthi bhattā.
3383. Này Sunanda, cô này là con gái của ai? Cô này là con dâu của ai, rồi là vợ của ai nữa? Được hỏi, khanh hãy mau mau trả lời cho ta, ngay tại đây, nàng còn chưa được cưới hỏi, hay là đã có chồng?”
2. Chắc nàng con gái chốn khuê môn,
Chính chủ nhà? Hay vợ cậu tôn?
Chỉ một lời, mau cho trẫm biết,
Có chồng, hay chửa được cầu hôn?
3384. Ahaṃ hi jānāmi janinda etaṃ matyā ca petyā ca athopi assā, taveva so puriso bhūmipāla rattindivaṃ appamatto tavatthe.
3384. “Tâu vị chúa của loài người, thần quả có biết về cô này, về bên mẹ và về bên cha, rồi luôn cả người chồng của cô ấy. Tâu đấng hộ quốc, người đàn ông ấy là thuộc về chính bệ hạ, ngày đêm không xao lãng đối với phúc lợi của bệ hạ.
3. Chuyện ấy, Đại vương hỏi hạ thần
Đôi bên cha mẹ, thảy am tường;
Chồng nàng tận tụy ngày đêm vẫn
Phụng sự quân vương đủ mọi đường.
3385. Iddho ca phīto ca suvaḍḍhito ca amacco ca te aññataro janinda, tassesā bhariyā abhipārakassa ummādantī nāmadheyyena rāja.
3385. (Người ấy) giàu có, dư dả, vô cùng phát đạt. và là một vị quan đại thần của bệ hạ, tâu vị chúa của loài người. Nàng ấy là người vợ của vị Ahipāraka ấy, với tên gọi là ‘Cô gái làm cho điên cuồng,’ tâu bệ hạ.”
4. Đại thần này chính của Anh quân,
Phú quý vinh hoa hưởng trọn phần,
Mệnh phụ A-li lừng lẫy ấy,
Lọt lòng được gọi Um-ma-dan.
3386. Ambho ambho nāmamidaṃ imissā matyā ca petyā ca kataṃ susādhu, tathā hi mayhaṃ avalokayantī ummattakaṃ ummadantī akāsi.
3386. “Trời! Trời! Cái tên này dành cho nàng này đã được mẹ và cha tạo ra thật khéo léo! Bởi vì đối với trẫm là như thế ấy, trong khi nhìn trẫm, nàng Ummadantī đã làm cho trẫm trở thành kẻ điên cuồng.
5. Trời hỡi! Tên kia thật bất tường,
Song thân nàng đã đặt cho nàng,
Um-ma, từ lúc nàng nhìn trẫm,
Trẫm bỗng hóa ra kẻ dại cuồng!
3387. Yā puṇṇamāse migamandalocanā upāvisī puṇḍarīkattacaṅgī, dve puṇṇamāyo tadahū amaññaṃ disvāna pārāvatarattavāsiniṃ.
3387. Nàng ấy, vào đêm trăng tròn, có cặp mắt ngơ ngác của loài nai, đã ngồi ở bên cửa sổ, có làn da và cơ thể màu hoa sen trắng. Sau khi nhìn thấy nàng mặc y phục màu đỏ tựa như chân chim bồ câu, trẫm nghĩ rằng đã có hai mặt trăng tròn.
6. Ngọc nữ mắt nai thật dịu hiền,
Trăng rằm vằng vặc mới vừa lên,
Ngắm nàng trong áo bồ câu trắng,
Ta tưởng đôi vầng nguyệt hiện tiền!
3388. Aḷārapamhehi subhehi vagguhi palobhayantī maṃ yadā udikkhati, vijambhamānā harateva me mano jātā vane kimpurisīva pabbate.
3388. Vào lúc nàng ngước nhìn lên, nàng khiến cho trẫm say đắm bởi hàng lông mi dài, xinh đẹp, dễ thương. Trong lúc nghiêng người (ném bông hoa), nàng chiếm lấy tâm trí của trẫm, tựa như loài nhân điểu cái sanh ra ở trong khu rừng, ở nơi núi non (thu hút nhân điểu đực).
7. Thu ba gợn sóng mắt long lanh
Quyến rũ hồn như sét ái tình,
Nào khác yêu tinh trên đỉnh núi,
Dáng yêu kiều chiếm trọn tim mình!
3389. Tadā hi brahatī sāmā āmuttamaṇikuṇḍalā, ekaccavasanā nārī migī bhantāvudikkhati.
3389. Bởi vì vào lúc ấy, người phụ nữ quý phái, có màu da màu hoàng kim, có bông tai bằng ngọc trai và ngọc ma-ni, có trang phục chỉ một tấm vải, tựa như con nai cái ngước nhìn lên trong lúc đang đi quanh quẩn.
8. Tố nga huyền bí, thật cao vời,
Bảo ngọc lung linh dưới mỗi tai,
Mình chỉ khoác xiêm y độc nhất,
Rụt rè như vẻ một con nai.
3390. Kadāssu maṃ tambanakhā sulomā bāhā mudū candanasāralittā,
vaṭṭaṅgulī sannatadhīrakuttiyā nārī upaññissati sīsato subhā.
3390. Vậy thì khi nào thì người phụ nữ xinh đẹp đến tận đỉnh đầu, có móng tay màu đồng đỏ, có mái tóc đẹp, có hai cánh tay mềm mại, được thoa tinh chất trầm hương, có các ngón tay tròn trịa, có các cử chỉ khôn khéo đã được tính toán, sẽ đoái hoài đến trẫm?
9. Các móng tô son, cuốn tóc mây,
Chiên- đàn tỏa ngát, dịu đôi tay
Búp măng duyên dáng, ôi kiều nữ,
Ðến thuở nào cười với trẫm đây
3391. Kadāssu maṃ kañcanajāluracchadā dhītā tirīṭissa vilākamajjhā, mudūhi bāhāhi paḷissajissati brahāvane jātadumaṃva māluvā.
3391. Vậy thì khi nào thì người con gái có tấm lưới bằng vàng che ở ngực, có làn eo thon của (gia tộc) Tirīṭi, sẽ ôm chặt lấy trẫm bằng hai cánh tay mềm mại, tựa như loài dây leo māluvā quấn chặt lấy thân cây mọc lên ở khu rừng bao la?
10. Bao giờ thục nữ có lưng thon,
Trước ngực phô trương món bội hoàn,
Ðôi cánh tay mềm ôm trẫm chặt
Khác nào cát lũy bám cây rừng?
3392. Kadāssu lākhārasarattasucchavī bindutthanī puṇḍarīkattacaṅgī, mukhaṃ mukhena upanāmayissati soṇḍova soṇḍassa surāya thālaṃ.
3392. Vậy thì khi nào người phụ nữ có làn da đẹp hồng hào với màu cánh kiến, có bầu ngực tròn, có làn da và cơ thể màu hoa sen trắng, sẽ mặt đối mặt dâng lên chén rượu, tựa như kẻ say sưa đối với kẻ say sưa?
11. Nàng điểm chấm son sáng rực lên,
Ngực tròn, ngọc nữ trắng như sen,
Bao giờ trao nụ hôn cho trẫm,
Như rượu nồng đưa đến bợm ghiền!
3393. Yadāddaṃ taṃ tiṭṭhantiṃ sabbagattaṃ manoramaṃ, tato sakassa cittassa nāvabodhāmi kañcinaṃ.
3393. Vào lúc trẫm nhìn thấy nàng ấy, với toàn bộ cơ thể làm thích ý, đang đứng, từ khi ấy, trẫm không còn nhận biết bất cứ người nào ở trong tâm của mình nữa.
12. Nàng đứng kia, ta chợt thấy nàng
Cực kỳ diễm lệ trước long nhan,
Không còn tự chủ lòng ta nữa,
Hồn vía quẳng đâu, trí biến tan!
3394. Ummādantimahaṃ diṭṭho āmuttamaṇikuṇḍalaṃ, na supāmi divārattiṃ sahassaṃva parājito.
3394. (Từ khi) trẫm nhìn thấy nàng Ummādantī có bông tai bằng ngọc trai và ngọc ma-ni, trẫm không ngủ ban ngày và ban đêm, tựa như kẻ đã bị đánh bại một ngàn lần.
13. Khi ta chiêm ngưỡng dáng Um-ma,
Sáng rực đôi tai điểm ngọc hoa,
Như kẻ bị đền tiền phạt nặng,
Ngày đêm chẳng chợp mắt phần ta!
3395. Sakko ca me varaṃ dajjā so ca labbhetha me varo, ekarattaṃ dirattaṃ vā bhaveyyaṃ ahipārako, ummādantyā ramitvāna sivirājā tato siyaṃ.
3395. Nếu Thiên Chủ Sakka ban cho trẫm điều ước muốn, và điều ước muốn ấy có thể đạt được bởi trẫm. Trẫm (ước muốn) có thể trở thành Ahipāraka một đêm hoặc hai đêm, sau khi vui sướng cùng Ummādantī rồi lại trở thành vua xứ Sivi.”
14. Nếu được trời ban, trẫm ước nguyền:
Trẫm làm đại tướng một hai đêm,
Hưởng đời cùng với Um-ma ấy,
Ðể tướng A-hi trị nước liền.
3396. Bhūtāni me bhūtapatī namassato āgamma yakkho idamevamabravi,
rañño mano ummadantyā niviṭṭho dadāmi te taṃ paricārayassu.
3396. “Tâu vị chúa tể của muôn dân, lúc thần đang lễ bái các thần linh, có vị Dạ-xoa đi đến và đã nói điều này như vầy: ‘Tâm trí của đức vua đã bị vương vấn với Ummadantī.’ Thần dâng nàng Ummadantī đến bệ hạ. Bệ hạ hãy bảo nàng ấy hầu hạ.”
15. Quỳ trước đền thiêng, tấu Ðại vương,
Thần nghe quỷ nói chuyện phi thường:
- "Um-ma mê hoặc lòng kim thượng"-
Mong chúa thỏa tâm nguyện tuyển nàng!
3397. Puññā vidhaṃse amaro na camhi jano ca me pāpamidanti jaññā, bhuso ca tyassa manaso vighāto datvā piyaṃ ummadantiṃ adiṭṭhā.
3397. “Trẫm sẽ hủy hoại các phước báu, và trẫm không phải là người. Loài người có thể biết về điều xấu xa này của trẫm. Và có thể có nhiều sự khó chịu ở tâm trí của khanh do không được nhìn thấy nàng, sau khi đã dâng hiến nàng Ummadantī yêu quý.”
16. Phước trời chẳng hưởng, trẫm đành sa,
Thế giới đều hay đại tội ta,
Phải biết, lòng khanh đầy khổ não,
Nếu khanh chẳng gặp lại Um-ma.
3398. Janinda nāññatra tayā mayā vā sabbāpi kammassa katassa jaññā, yante mayā ummadantī padinnā bhusehi rājā vanathaṃ sajāhi.
3398. “Tâu vị chúa của loài người, ngoại trừ bệ hạ và hạ thần, tất cả mọi người đều không thể nào biết về hành động đã được làm. Bởi vì nàng Ummadantī đã được thần dâng đến bệ hạ, tâu bệ hạ, xin bệ hạ hãy tận hưởng thú yêu đương, rồi hoàn trả lại (nàng cho hạ thần).”
17. Trừ Ðại vương cùng với hạ thần,
Việc kia, ai biết giữa trần gian?
Um-ma, tặng vật xin dâng chúa,
Phỉ nguyện, rồi đem trả lại nàng.
3399. Yo pāpakaṃ kammakaraṃ manusso so maññati māyidaṃ maññiṃsu aññe, passanti bhūtāni karontametaṃ yuttā va ye honti narā paṭhabyā.
3399. “Kẻ nào là người có làm hành động xấu xa, kẻ ấy nghĩ rằng: ‘Mong rằng những người khác đừng biết về việc này của ta.’ Các thần linh và những hạng người nào ở trái đất được gắn bó với thần thông thì nhìn thấy kẻ làm việc ấy.”
18. Kẻ ác nghĩ:?Không một thế nhân
Hẳn từng chứng kiến tội ta làm?.
Song toàn việc ấy, đều hay biết
Bởi các Thánh nhân lẫn quỷ thần.
3400. Añño nu te koci naro paṭhabyā saddaheyya lokasmiṃ na me piyāti, bhuso ca tyassa manaso vighāto datvā piyaṃ ummadantiṃ adiṭṭhā.
3400. “Có người đàn ông nào khác ở trên trái đất, ở trên thế gian, có thể tin được lời của khanh rằng: ‘Ummadantī không được tôi yêu mến’? Và có thể có nhiều sự khó chịu ở tâm trí của khanh do không được nhìn thấy nàng, sau khi đã dâng hiến nàng Ummadantī yêu quý.”
19. Dù khanh có bảo: "Chẳng yêu nàng?,
Ðiều ấy, ai tin giữa thế gian?
Phải biết, lòng khanh đầy khổ não,
Nếu khanh chăng gặp lại phu nhân.
3401. Addhā piyā mayha janinda esā na sā mama appiyā bhūmipāla, gaccheva tvaṃ ummadantiṃ bhadante sīhova selassa guhaṃ upehi.
3401. “Nàng ấy quả thật là người yêu quý của thần, tâu vị chúa của loài người. Nàng ấy không phải là không được thần yêu quý, tâu đấng hộ quốc. Bệ hạ hãy đi đến với Ummadantī, thưa bậc đáng tôn kính, tựa như con sư tử đực đi đến hang của con sư tử cái.”
20. Nàng quý yêu như mạng sống mình
Thực là vợ thắm thiết bao tình,
Song hoàng thượng đến Um-ma gấp,
Như hổ, sư về thạch động nhanh.
402. Na pīḷitā attadukkhena dhīrā sukhapphalaṃ kammaṃ pariccajanti, sammohitā vāpi sukhena mattā na pāpakammañca samācaranti.
3402. “Không vì bị hành hạ bởi sự khổ đau của bản thân, mà các bậc sáng trí buông bỏ việc làm có quả báo an lạc. Dầu cho bị hoàn toàn mê muội, hoặc bị đắm say hạnh phúc, các vị vẫn không thực hiện hành động xấu xa.”
21. Bậc trí, dù đau khổ ngập tràn
Cũng không bỏ việc tạo bình an,
Kẻ ngu dù đắm chìm hoan lạc
Tội lỗi thế kia, chẳng dám làm!
3403. Tuvañhi mātā ca pitā ca mayhaṃ bhattā patī posako devatā ca, dāso ahaṃ tuyha saputtadāro yathāsukhaṃ sibba karohi kāmaṃ.
3403. “Bởi vì bệ hạ là người mẹ và là người cha của hạ thần, là người chồng, là chủ nhân, là người nuôi dưỡng, và là vị Thiên thần. Hạ thần cùng với vợ con đều là tôi tớ của bệ hạ. Tâu Sibba, xin bệ hạ hãy hưởng dụng dục lạc một cách thoải mái.”
22. Tâu Ðại vương là dưỡng phụ thân,
Là Thiên đế, chúa tể thần dân,
Thê nhi, xin hiến làm nô lệ,
Thánh thượng Si-vi hãy đẹp lòng!
3404. Yo issaromhīti karoti pāpaṃ. katvā ca so nuttapate paresaṃ, na tena so jīvati dīghamāyuṃ devāpi pāpena samekkhare naṃ.
3404. “Kẻ nào (nghĩ rằng): ‘Ta là chúa tể’ rồi làm việc ác, là sau khi làm xong, kẻ ấy không tỏ ra hối lỗi đối với những người khác. Do điều ấy, kẻ ấy không sống cuộc sống dài lâu. Ngay cả chư Thiên cũng nhìn kẻ ấy với ánh mắt xấu xa.”
23. Kẻ làm hại bạn chẳng ăn năn,
Bảo: "Chính đây là chúa vạn năng?
Chỉ nửa đời thôi, e khó sống,
Thánh thần thấy vậy, chẳng bằng lòng.
3405. Aññātakaṃ sāmikehī padinnaṃ dhamme ṭhitā ye paṭicchanti dānaṃ, paṭicchakā dāyakā cāpi tattha sukhapphalaññeva karonti kammaṃ.
3405. “Khi các chủ nhân biếu tặng vật ngoại thân và những người đã trú vào thiện pháp tiếp nhận vật thí, trong trường hợp ấy, người nhận lãnh và luôn cả người bố thí đều thực hiện việc làm có quả báo an lạc.”
24. Nếu chánh nhân thâu nhận lễ dâng
Do người tình nguyện, tấu Minh quân,
Vậy người đem tặng cùng người nhận
Làm việc thành công, quả vạn toàn.
3406. Añño nu te koci naro paṭhabyā saddaheyya lokasmiṃ na me piyāti, bhuso ca tyassa manaso vighāto datvā piyaṃ ummadantiṃ adiṭṭhā.
3406. “Có người đàn ông nào khác ở trên trái đất, ở trên thế gian, có thể tin được lời của khanh rằng: ‘Ummadantī không được tôi yêu mến’? Và có thể có nhiều sự khó chịu ở tâm trí của khanh do không được nhìn thấy nàng, sau khi đã dâng hiến nàng Ummadantī yêu quý.”
25. Dù khanh có bảo: "Chẳng yêu nàng?,
Ðiều ấy ai tin giữa thế gian?
Phải biết, lòng khanh đầy khổ não,
Ví khanh chẳng gặp lại phu nhân.
3407. Addhā piyā mayha janinda esā na sā mama appiyā bhūmipāla, yante mayā ummadantī padinnā bhusehi rājā vanathaṃ sajāhi.
3407. “Nàng ấy quả thật là người yêu quý của thần, tâu vị chúa của loài người. Nàng ấy không phải là không được thần yêu quý, tâu đấng hộ quốc. Bởi vì nàng Ummadantī đã được thần dâng đến bệ hạ, tâu bệ hạ, xin bệ hạ hãy tận hưởng thú yêu đương, rồi hoàn trả lại (nàng cho hạ thần).”
26. Nàng thiết thân như mạng sống thần,
Thật nàng là vợ quý vô ngần,
Um-ma, tặng vật, xin dâng hiến,
Thỏa nguyện, rồi đem trả lại nàng.
3408. Yo attadukkhena parassa dukkhaṃ sukhena vā attasukhaṃ dahāti, yathevidaṃ mayha tathā paresaṃ yo evaṃ jānāti sa vedi dhammaṃ.
3408. “Kẻ nào tạo ra khổ đau cho người khác bằng khổ đau của mình, hoặc tạo ra hạnh phúc cho mình bằng hạnh phúc của người khác, (nghĩ rằng): ‘Việc này đối với ta y như thế nào thì đối với những người khác là như vậy;’ người nào biết như vậy, người ấy hiểu biết về đạo đức.”
27. Làm mình khỏi khổ, hại cho người,
Kẻ khác mất vui, dạ vẫn tươi,
Chẳng cảm niềm đau người khác khổ
Như mình, chẳng biết chánh chân rồi!
3409. Añño nu te koci naro paṭhabyā saddaheyya lokasmiṃ na me piyāti, bhuso ca tyassa manaso vighāto datvā piyaṃ ummadantiṃ adiṭṭhā.
3409. “Có người đàn ông nào khác ở trên trái đất, ở trên thế gian, có thể tin được lời của khanh rằng: ‘Ummadantī không được tôi yêu mến’? Và có thể có nhiều sự khó chịu ở tâm trí của khanh do không được nhìn thấy nàng, sau khi đã dâng hiến nàng Ummadantī yêu quý.”
3410. Janinda jānāsi piyā mamesā na sā mamaṃ appiyā bhūmipāla, piyena te dammi piyaṃ janinda piyadāyino deva piyaṃ labhanti.
3410. “Tâu vị chúa của loài người, bệ hạ biết rằng nàng ấy là người yêu quý của thần. Tâu đấng hộ quốc, nàng ấy không phải là không được thần yêu quý. Tâu vị chúa của loài người, thần dâng hiến vật yêu quý đến bệ hạ vì lòng yêu quý. Tâu bệ hạ, những người bố thí vật yêu quý đạt được vật yêu quý.”
28. Nàng quý như đời sống, Ðại vương,
Thật nàng được ái luyến khôn lường,
Thần dâng bảo vật, không hoài của,
Như vậy, người cho đã hưởng phần.
3411. So nūnāhaṃ vadhissāmi attānaṃ kāmahetukaṃ, na hi dhammaṃ adhammena ahaṃ vadhitumussahe.
3411. “Không lẽ trẫm đây sẽ hủy hoại bản thân vì nguyên nhân dục vọng! Trẫm không bao giờ ra sức để hủy hoại đạo đức bởi điều phi đạo đức.”
29. Ta có thể làm hại bản thân
Vì thèm dục lạc của phàm nhân,
Song ta quyết chăng bao giờ dám
Làm hại điêu tàn bậc chánh chân.
3412. Sace tuvaṃ mayha satiṃ janinda na kāmayāsi naravīraseṭṭha, cajāmi naṃ sabbajanassa sibba mayā pamuttaṃ tato avhayesi naṃ.
3412. “Tâu vị chúa của loài người, nếu bệ hạ nghĩ rằng nàng đang thuộc về hạ thần, tâu vị dũng sĩ hạng nhất ở loài người, nên bệ hạ không ham muốn nàng. Tâu Sibba, hãy để thần xả bỏ nàng ấy đến tất cả mọi người. Khi nàng đã được thần trả tự do, sau đó, bệ hạ hãy đưa nàng đi.”
30. Ví thử Minh quân phải khước từ
Chỉ vì nàng, vợ hạ thần ư?
Từ nay giải phóng nàng, từ biệt,
Xin triệu nô tỳ vời chiếu thư!
3413. Adūsiyaṃ ce ahipāraka tvaṃ cajāsi katte ahitāya tyassa, mahā ca te upavādopi assa na cāpi tyassa nagaramhi pakkho.
3413. “Này Ahipāraka, nếu nàng không có lỗi lầm mà khanh bỏ rơi nàng khi không còn lợi ích đối với khanh, này người có công lao, có thể có sự chỉ trích lớn đối với khanh, và thậm chí dư luận ở thành phố có thể không thuộc về khanh.”
31. Ví dù đại tướng hại thân mình,
Lìa bỏ phu nhân chẳng tội tình,
E phải chịu bao lời khiển trách,
Chẳng hề ai nói đúng công bình.
3414. Ahaṃ sahissaṃ upavādametaṃ nindaṃ pasaṃsaṃ garahañca sabbaṃ, mametamāgacchatu bhūmipāla yathāsukhaṃ sibba karohi kāmaṃ.
3414. “Thần sẽ chịu đựng sự chỉ trích ấy, sự chê bai, sự khen ngợi, và mọi sự khiển trách. Tâu đấng hộ quốc, hãy để việc ấy xảy đến với thần. Tâu Sibba, xin bệ hạ hãy hưởng dụng dục lạc một cách thoải mái.”
32. Mặc lời khiển trách, mặc than phiền,
Ðể mặc lời bình phẩm, ngợi khen,
Trút xuống hạ thần như ý muốn,
Trước tiên ước chúa thỏa tâm nguyền!
3415. Yo neva nindaṃ na punappasaṃsaṃ ādīyati garahaṃ nopi pūjaṃ, sirī ca lakkhī ca apeti tamhā āpo suvuṭṭhīva yathā thalamhā.
3415. “Kẻ nào không quan tâm đến sự chê bai, rồi sự khen ngợi, và sự khiển trách, luôn cả sự dâng cúng, thì vinh quang và sự may mắn rời xa kẻ ấy, giống như nước từ cơn mưa lớn rời khỏi mặt đất.”
33. Kẻ không màng đến việc khen, chê,
Chỉ trích, tuyên dương, chẳng sá gì,
Tài sản, vinh quang đều biến mất,
Như cơn lũ rút, đất khô đi.
3416. Yaṃ kiñci dukkhañca sukhañca etto dhammātisārañca manovighātaṃ, urasā ahaṃ paṭicchissāmi sabbaṃ paṭhavī yathā thāvarānaṃ tasānaṃ.
3416. “Bất cứ khổ đau hay hạnh phúc nào từ việc này, và sự vượt qua lề thói đạo đức có sự khó chịu ở tâm trí, thần sẽ ưỡn ngực đón nhận tất cả, giống như trái đất đối với mọi thứ, bất động và cử động.”
34. Bất cứ lạc hay khổ nảy sinh,Vượt qua ngay, hoặc não lòng mình,
Thần xin đón nhận dù ưu, hỷ,
Như đất khoan dung cả dữ, lành.
3417. Dhammātisārañca manovighātaṃ dukkhaṃ ca nicchāmi ahaṃ paresaṃ, ekopimaṃ tārayissāmi bhāraṃ dhamme ṭhito kañci ahāpayanto.
3417. “Sự vượt qua lề thói đạo đức có sự khó chịu ở tâm trí, và trẫm không muốn những người khác có sự khổ đau. Một mình trẫm sẽ vượt qua gánh nặng này, người đã trú vào thiện pháp không bỏ quên bất cứ một ai.”
35. Ta chẳng muốn người khác khổ đau,
Làm càn, cho bạn phải ưu sầu,
Gánh sầu mang nặng, mình riêng chịu,
Chân chánh, không làm vướng bận nhau.
3418. Saggūpagaṃ puññakammaṃ janinda mā me tuvaṃ antarāyaṃ akāsi, dadāmi te ummadantiṃ pasanno rājāva yaññaṃ dhanaṃ brāhmaṇānaṃ.
3418. “Tâu vị chúa của loài người, việc làm phước đưa đến cõi Trời. Xin bệ hạ chớ gây chướng ngại cho thần. Được tịnh tín, thần dâng nàng Ummadantī đến bệ hạ, tựa như vị vua dâng vật hiến cúng là tài sản đến các vị Bà-la-môn.”
36. Thiện hành dẫn dắt tới thiên đường,
Xin chớ cản chân, tấu Ðại vương,
Tặng vật Um-ma, thần cống hiến
Như vua ban thưởng bậc Sa-môn.
3419. Addhā tuvaṃ katte hitosi mayhaṃ sakhā mama ummadantī tuvañca, nindeyyu devā pitaro ca sabbe pāpañca passaṃ abhisamparāyaṃ.
3419. “Này quan đại thần, quả thật khanh là người có lợi ích cho trẫm. Nàng Ummadantī và khanh là bằng hữu của trẫm. Chư Thiên, các vị Phạm Thiên, và tất cả cư dân sẽ chê bai,trong khi nhìn thấy sự xấu xa trong ngày vị lai.”
37. Khanh đối cùng ta thật chí thành
Khanh và hiền nội, bạn chân tình;
Ðạo nhân, thần thánh đều chê trách
Nguyền rủa, ta mang mãi nặng mình.
3420. Nahetaṃ dhammaṃ sivirāja vajjuṃ sanegamā jānapadā ca sabbe, yante mayā ummadantī padinnā bhusehi rājā vanathaṃ sajāhi.
3420. “Tâu đức vua Sivi, tất cả dân chúng có cả các thị dân không có thể nói rằng: ‘Việc ấy không phải là phi đạo đức.’ Bởi vì nàng Ummadantī đã được thần dâng đến bệ hạ, tâu bệ hạ, xin bệ hạ hãy tận hưởng thú yêu đương, rồi hoàn trả lại (nàng cho hạ thần).”
38. Thần chắc dân quê đến thị dân
Chẳng hề than chúa thiếu công bằng,
Vì Um-ma, chính thần dâng hiến,
Thỏa nguyện, rồi đem trả lại thần.
3421. Addhā tuvaṃ katte hitosi mayhaṃ sakhā mama ummadantī tuvañca, satañca dhammāni sukittitāni samuddavelāva duraccayāni.
3421. “Này người có công lao, quả thật khanh là người có lợi ích cho trẫm. Nàng Ummadantī và khanh là bằng hữu của trẫm. Các lời giáo huấn của các bậc thiện nhân đã khéo được thuyết giảng là không thể vi phạm, tựa như bờ biển là không thể được qua.”
39. Khanh cùng trẫm quả thật ân cần,
Khanh với phu nhân chính bạn vàng,
Chánh nghiệp thiện nhân vang vọng khắp,
Chánh hành khó vượt, tựa triều dâng.
3422. Āhuneyyo mesi hitānukampī dhātā vidhātā casi kāmapālo, tayī hutā deva mahapphalā hi kāmena me ummadantiṃ paṭiccha.
3422. “Bệ hạ có sự quan tâm đến điều tốt đẹp, là xứng đáng với sự hiến cúng của thần. Bệ hạ là người nâng đỡ, là người bảo quản, và là người ngự trị các dục. Tâu bệ hạ, các vật đã được dâng hiến đến bệ hạ chắc chắn có quả báo lớn lao. Xin bệ hạ hãy tiếp nhận nàng Ummadantī theo ước muốn của thần.”
40. Tâu Chúa công, ban thưởng hạ thần
Những gì thần ước, đại ân nhân,
Xin hoàn gấp bảy quà thần tặng,
Xin nhận Um-ma, của biếu không.
3423. Addhā hi sabbaṃ ahipāraka tvaṃ dhammaṃ acārī mama kattuputta, añño nu te ko idha sotthikattā dipado naro aruṇe jīvaloke.
3423. “Này Ahipāraka, quả thật khanh đã thực hành mọi phận sự đối với trẫm. Này người con trai của vị quan đại thần, vậy ngoài khanh ra, có con người hai chân nào khác là người tạo ra sự bình yên ở nơi này, ở thế gian của cuộc sống, từ lúc rạng đông?”
41. Tri kỷ A-hi, quả thật tình,
Theo đường chân chánh tự xuân xanh,
Ðâu còn ai nữa trong nhân thế
Nỗ lực cho ta được tốt lành?
3424. Tuvaṃ nu seṭṭho tvamanuttarosi tvaṃ dhammagutto dhammavidū sumedho, so dhammagutto cirameva jīva dhammañca me desaya dhammapāla.
3424. “Bệ hạ là hạng nhất, bệ hạ là vô thượng. Bệ hạ là người bảo vệ đạo lý, là người thông hiểu đạo lý, là bậc thiện trí. Cầu cho người bảo vệ đạo lý ấy sống thật dài lâu. Tâu vị hộ trì đạo lý, xin bệ hạ hãy giảng giải đạo lý cho thần.”
42. Tấu Minh quân, hiển hách vô song,
Thông hiểu chánh hành, đại trí nhân,
Vạn tuế Pháp vương, đầy chánh hạnh,
Tránh đường tà, dạy bảo cho thần.
3425. Tadiṅgha ahipāraka suṇohi vacanaṃ mama, dhammante desayissāmi sataṃ āsevitaṃ ahaṃ.
3425. “Này Ahipāraka, giờ khanh hãy lắng nghe lời nói của trẫm. Trẫm sẽ giảng giải cho khanh về đạo lý đã được các bậc thiện nhân thực hành.
43. Ðến đây, Ðại tướng A-hi-pà,
Hãy lắng nghe lời nói của ta,
Ta sẽ dạy thanh toàn chánh đạo
Thực hành bởi các thiện nhân xưa:
3426. Sādhu dhammarucī rājā sādhu paññāṇavā naro, sādhu mittānamaddubbho pāpassākaraṇaṃ sukhaṃ.
3426. Tốt đẹp thay vị vua vui thích ở thiện pháp! Tốt đẹp thay con người có trí tuệ! Tốt đẹp thay kẻ không phản bội bạn bè! Không làm điều ác là hạnh phúc.
44. Vua cầu Chánh pháp, được ân trời,
Bậc trí tối ưu giữa mọi người,
Không phản bạn lành là thiện hảo,
Tránh đường tà, cực lạc cao vời!
3427. Akkodhanassa vijite ṭhitadhammassa rājino, sukhaṃ manussā āsetha sītacchāyāya saṅghare.
3427. Ở lãnh địa của vị vua không có sự giận dữ, có công lý đã được thiết lập, loài người có thể sinh sống hạnh phúc trong bóng mát (của thân quyến) ở căn nhà của mình.
45. Dưới quyền đức độ của minh quân
Như bóng cây che nắng trú thân,
Tất cả thần dân đều lạc nghiệp,
Hưởng đời phú quý mãi gia tăng.
3428. Na cāhametaṃ abhirocayāmi kammaṃ asamekkha kataṃ asādhu, yevāpi ñatvāna sayaṃ karonti upamā imā mayha tuvaṃ suṇohi.
3428. Không xem xét mà đã thực hiện hành động là không tốt đẹp. Và trẫm không hứng thú về việc ấy. Chỉ những người nào sau khi đã biết thì tự mình hành động. Khanh hãy lắng nghe ví dụ này của trẫm.
46. Việc ác, nào ta có tán đồng,
Dù là vô ý vẫn sai lầm:
Ngu si là tội ta khinh ghét,
Nghe ví dụ này, khắc tận tâm.
3429. Gavañce taramānānaṃ jimhaṃ gacchati puṅgavo, sabbā tā jimhaṃ gacchanti nette jimhaṃ gate sati.
3429. Trong khi bầy bò đang vượt qua sông, nếu con bò đực đi quanh co, tất cả các con bò cái sẽ đi quanh co khi con bò dẫn đường đi quanh co.
47. Bò già đi lạc giữa dòng sông,
Cả đám bò con lạc bước luôn,
3430. Evameva manussesu yo hoti seṭṭhasammato, so ce adhammaṃ carati pageva itarā pajā, sabbaṃ raṭṭhaṃ dukhaṃ seti rājā ce hoti adhammiko.
3430. Tương tự y như thế ở loài người, nếu người được phong làm thủ lãnh thực hành không đúng pháp, không phải đề cập đến những người khác, toàn bộ đất nước sẽ bị lầm than nếu đức vua là kẻ không công minh.
Vậy nếu trưởng đoàn đi lạc lối,
Mục tiêu hạ liệt lại đưa đường,
Cả đoàn thấp kém, liền theo gót,
Cả nước than thời loạn nhiễu nhương.
3431. Gavañce taramānānaṃ ujuṃ gacchati puṅgavo, sabbā tā ujuṃ gacchanti nette ujugate sati.
3431. Trong khi bầy bò đang vượt qua sông, nếu con bò đực đi ngay thẳng, tất cả các con bò cái sẽ đi ngay thẳng khi con bò dẫn đường đi ngay thẳng.
48. Song nếu bò cha lái đúng dòng,
Ðoàn bò thẳng tiếp bước sau lưng;
3432. Evameva manussesu yo hoti seṭṭhasammato, so cepi dhammaṃ carati pageva itarā pajā, sabbaṃ raṭṭhaṃ sukhaṃ seti rājā ce hoti dhammiko.
3432. Tương tự y như thế ở loài người, nếu người được phong làm thủ lãnh thực hành đúng pháp, không phải đề cập đến những người khác, toàn bộ đất nước sẽ được hạnh phúc nếu đức vua là người công minh.
Vậy khi tướng lãnh theo chân chánh,
Dân chúng sẽ cùng tránh bất công,
Thanh tịnh an bình liền phát khởi
Khắp miền cương thổ với non sông.
3433. Na cāpahaṃ adhammena amarattamabhipatthaye, imaṃ vā paṭhaviṃ sabbaṃ vijetuṃ ahipāraka.
3433. Và trẫm cũng không ước nguyện bản thể Thiên nhân một cách phi pháp, hay là để chiến thắng toàn bộ trái đất này, này Ahipāraka.
49. Ví dầu trẫm được cả trần gian
Cũng chẳng làm sao, hỡi Tướng quân,
Trẫm chẳng thể nào gây ác nghiệp
Mà mong đạt đến cõi thiên đàng.
3434. Yaṃ hi kiñci manussesu ratanaṃ idha vijjati, gāvo dāso hiraññañca vatthiyaṃ haricandanaṃ.
3434. Bởi vì bất cứ vật gì quý báu ở giữa loài người được tìm thấy ở nơi này: như là trâu bò, nô lệ, vàng, vải vóc, trầm hương màu vàng,–
50. Nhũng gì quý giá giữa nhân gian,
Nô lệ, bò trâu với bạc vàng,
Thuấn mã, xiêm y, kho của cải,
Ngọc châu sáng rực, gỗ chiên-đàn,
3435. Assitthiyo ca ratanaṃ maṇikañca yañcāpi me candasuriyābhipālayanti, na tassa hetu visamaṃ careyya majjhe sivīnaṃ usabhosmi jāto.
3435. –ngựa, phụ nữ, bảo vật, vòng ngọc, và luôn cả nơi nào mà mặt trời và mặt trăng (chiếu sáng) bảo hộ cho trẫm, nhưng không vì nguyên nhân của việc ấy mà trẫm hành xử không công bằng, bởi vì trẫm là quý tộc, được sanh ra ở trong dòng tộc Sivi.
Mọi nơi nhật nguyệt ngày đêm chiếu,
Ðổi lấy bất công cũng chẳng màng,
Trẫm vốn Si-vi dòng quý tộc,
Người cai trị chính đáng công bằng!
3436. Netā pitā uggato raṭṭhapālo dhammaṃ sivīnaṃ apacāyamāno, so dhammamevānuvicintayanto tasmā sake cittavase na vatte.
3436. Là bậc lãnh đạo, người cha, người nổi bật, đấng hộ trì đất nước, trong lúc tôn kính truyền thống của người dân Sivi, trong lúc suy xét về chính truyền thống ấy, trẫm đây. do đó, không thể hành động theo sự tác động của tâm mình.”
51. Làm cha, lãnh đạo, giữ giang sơn,
Trẫm bảo tồn quyền lợi nước non,
Trẫm quyết trị dân theo Chánh đạo,
Chẳng còn ai lệ thuộc riêng phần.
3437. Addhā tuvaṃ mahārāja niccaṃ abyasanaṃ sivaṃ, karissasi ciraṃ rajjaṃ paññā hi tava tādisī.
3437. “Tâu đại vương, đúng vậy, bệ hạ sẽ cai trị vương quốc lâu dài, vĩnh viễn, không bị suy sụp, an toàn, bởi vì trí tuệ của bệ hạ là như thế ấy.
52. Luật pháp Ðại vương thật tốt lành!
Mong ngài ngự trị hưởng trường sinh!
Dẫn đường đưa nước nhà an lạc,
Cường thịnh nhờ ngài đại trí minh!
3438. Etaṃ te anumodāmi yaṃ dhammaṃ nappamajjasi, dhammaṃ pamajja khattiyo ṭhānā cavati issaro.
3438. Thần tùy hỷ với điều ấy của bệ hạ, về việc bệ hạ không xao lãng truyền thống. Sau khi xao lãng truyền thống, vị Sát-đế-lỵ, vị chúa tể đánh mất ngôi vị.
53. Hân hoan tràn ngập chúng thần dân,
Vì Ðại vuơng chân chánh nhiệt tâm,
Các bạo chúa nào quên Chánh đạo
Từ nay ắt phải mất ngai vàng.
3439. Dhammaṃ cara mahārāja mātāpitusu khattiya, idha dhammaṃ caritvāna rāja saggaṃ gamissasi.
3439. Tâu đại vương, hãy hành xử đúng pháp đối với mẹ cha, tâu vị Sát-đế-lỵ. Sau khi hành thiện pháp ở nơi này, tâu bệ hạ, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.
54. Với xuân huyên là đấng song thân,
Xin thực hành chân chánh, Ðại vương,
Nhờ tiến bước lên theo Chánh đạo,
Ðại vương sẽ đạt đến thiên đường.
3440. Dhammaṃ cara mahārāja puttadāresu khattiya, idha dhammaṃ caritvāna rāja saggaṃ gamissasi.
3440. Tâu đại vương, hãy hành xử đúng pháp đối với vợ con, tâu vị Sát-đế-lỵ. Sau khi hành thiện pháp ở nơi này, tâu bệ hạ, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.
55. Với hoàng nam, chánh hậu, cung tần,
Xin thực hành chân chánh Ðại vương,
Nhờ tiến bước lên theo Chánh đạo,
Ðại vương sẽ đạt đến thiên đường.
3441. Dhammaṃ cara mahārāja mittāmaccesu khattiya, idha dhammaṃ caritvāna rāja saggaṃ gamissasi.
3441. Tâu đại vương, hãy hành xử đúng pháp đối với bạn bè và đồng nghiệp, tâu vị Sát-đế-lỵ. Sau khi hành thiện pháp ở nơi này, tâu bệ hạ, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.
56. Với bao bằng hữu, đám triều thần,
Xin thực hành chân chánh, Ðại vương,
Nhờ tiến bước lên theo Chánh đạo,
Ðại vương sẽ đạt đến thiên đường.
3442. Dhammaṃ cara mahārāja vāhanesu balesu ca, idha dhammaṃ caritvāna rāja saggaṃ gamissasi.
3442. Tâu đại vương, hãy hành xử đúng pháp đối với các đội xe và các đoàn quân, tâu vị Sát-đế-lỵ. Sau khi hành thiện pháp ở nơi này, tâu bệ hạ, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.
57. Trong chinh chiến hoặc bước hành trình,
Xin Ðại vương chân chính thực hành,
Nhờ tiến bước lên theo Chánh đạo
Ðại vương sẽ đạt đến thiên đình.
3443. Dhammaṃ cara mahārāja gāmesu nigamesu ca, idha dhammaṃ caritvāna rāja saggaṃ gamissasi.
3443. Tâu đại vương, hãy hành xử đúng pháp đối với các làng mạc và các thị trấn, tâu vị Sát-đế-lỵ. Sau khi hành thiện pháp ở nơi này, tâu bệ hạ, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.
58. Nơi thôn dã hoặc chốn kinh thành,
Xin Ðại vương chân chánh thực hành,
Nhờ tiến bước lên theo Chánh đạo
Ðại vương sẽ đạt đến thiên đình.
3444. Dhammaṃ cara mahārāja raṭṭhesu janapadesu ca, idha dhammaṃ caritvāna rāja saggaṃ gamissasi.
3444. Tâu đại vương, hãy hành xử đúng pháp đối với các quốc độ và các xứ sở, tâu vị Sát-đế-lỵ. Sau khi hành thiện pháp ở nơi này, tâu bệ hạ, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.
59. Mọi miền quốc độ, khắp giang sơn,
Xin thực hành chân chánh, Ðại vương,
Nhờ tiến bước lên theo Chánh đạo
Ðại vương sẽ đạt đến thiên đường.
3445. Dhammaṃ cara mahārāja samaṇabrāhmaṇesu ca, idha dhammaṃ caritvāna rāja saggaṃ gamissasi.
3445. Tâu đại vương, hãy hành xử đúng pháp đối với các vị Sa-môn và Bà-la-môn, tâu vị Sát-đế-lỵ. Sau khi hành thiện pháp ở nơi này, tâu bệ hạ, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.
60. Với La-môn, các bậc Sa-môn,
Xin thực hành chân chánh, Ðại vương,
Nhờ tiến bước lên theo Chánh đạo
Ðại vương sẽ đạt đến thiên đường.
3446. Dhammaṃ cara mahārāja migapakkhīsu khattiya, idha dhammaṃ caritvāna rāja saggaṃ gamissasi.
3446. Tâu đại vương, hãy hành xử đúng pháp đối với các loài thú và chim chóc, tâu vị Sát-đế-lỵ. Sau khi hành thiện pháp ở nơi này, tâu bệ hạ, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.
61. Với loài súc vật, các chim muông,
Xin thực hành chân chánh, Ðại vương,
Nhờ tiến bước lên theo Chánh đạo,
Ðại vương sẽ đạt đến thiên dường.
3447. Dhammaṃ cara mahārāja dhammo ciṇṇo sukhāvaho, idha dhammaṃ caritvāna rāja saggaṃ gamissasi.
3447. Tâu đại vương, hãy hành xử đúng pháp. Thiện pháp được thực hành là nguồn dem lại sự an lạc, tâu vị Sát-đế-lỵ. Sau khi hành thiện pháp ở nơi này, tâu bệ hạ, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.
62. Thực hành chân chánh, tấu quân vương,
Do đấy, nguồn ân phước tưới tràn,
Nhờ tiến bước theo đời Chánh hạnh,
Ðại vương sẽ đạt đến thiên đàng.
3448. Dhammaṃ cara mahārāja saindā devā sabrahmakā, suciṇṇena divaṃ pattā mā dhammaṃ rāja pamādo ”ti.
3448. Tâu đại vương, hãy hành xử đúng pháp. Chư Thiên, với Thiên chủ Đế Thích, với các Phạm Thiên, đã đạt được Thiên cung do đã khéo thực thành. Tâu bệ hạ, chớ có sự xao lãng thiện pháp.”
63. Chính nhờ tỉnh giác, tấu Quân vương,
Thiện đạo tiến lên vững bước luôn,
Giáo sĩ, chư Thiên và Ðế Thích
Từ xưa đã đạt đến thiên đường.
Ummādantījātkaṃ.
***
Bổn Sanh Mỹ Nhân Ummādantī. [527]
***
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada