3326. Uḍḍhayhate janapado raṭṭhañcāpi vinassati, ehi nalinike gaccha taṃ me brāhmaṇamānaya. 

3326. “Xứ sở bị đốt cháy, và đất nước cũng tiêu hoại. Này Nalinikā, con hãy đến. Con hãy đi và quyến dụ vị Bà-la-môn ấy cho trẫm.”

1. Nhìn kia mặt đất cháy khô cằn,
Quốc độ chìm trong cảnh lụi tàn,
Con hỡi, Na-li, đi đến đó,
Khiến La-môn nọ phải quy hàng.

3327. Nāhaṃ dukkhakkhamā rāja nāhaṃ addhānakovidā, kathaṃ ahaṃ gamissāmi vanaṃ kuñjarasevitaṃ. 

3327. “Thưa phụ vương, con không thể chịu đựng khổ, con không rành rẽ đường xa, làm thế nào con sẽ đi đến khu rừng được loài voi thân cận?”

2. Làm sao con chịu được gian nan,
Khi giữa bầy voi lạc bước đàng
Trong chốn rừng xanh xa vắng ấy,
Làm sao cất bước được bình an?

3328. Phītaṃ janapadaṃ gantvā hatthinā ca rathena ca, dārusaṅghāṭayānena evaṃ gaccha nalinike. 

3328. “Sau khi đi đến đi đến đất nước thịnh vượng bằng voi và bằng cỗ xe, bằng phương tiện bè gỗ, này Nalinikā, con hãy ra đi như vậy.

3. Con hỡi, đi về mỹ lạc cung,
Rồi từ đấy phải vội rời chân
Lên xe gỗ được trang hoàng khéo,
Ngự giá công nương tiến thẳng đường.

3329. Hatthī assā rathā pattī gacchevādāya khattiye, taveva vaṇṇarūpena vasaṃ taṃ ānayissasi.

3329. Con hãy ra đi mang theo tượng binh, mã binh, xa binh, bộ binh, và các vị Sát-đế-lỵ. Con sẽ quyến dụ vị ấy vào tầm ảnh hưởng bằng sắc đẹp và vóc dáng của chính con.”

4. Chiến mã tượng, cùng với bộ binh
Chỉnh tề hàng ngũ hãy bao quanh,
Với mê hồn sắc con cần kíp
Khiến đạo nhân kia quy lụy mình.

3330. Kadalīdhajapaññāṇo ābhujīparivārito, eso padissati rammo isisiṅgassa assamo.

3330. “Khu ẩn cư đáng yêu ấy của Isisiṅga được nhìn thấy với dấu hiệu của những tàu lá chuối, được bao quanh bởi giống cây ābhujī.

5. Nổi bật với hàng chuỗi lá xanh,
Giữa Bhur-ja khóm lắm cây cành,
Nhìn xem, lều của I-si đấy,
Xinh đẹp hiện ra một mái tranh.

3331. Eso aggissa saṅkhāto eso dhūmo padissati, maññe no aggiṃ hāpeti isisiṅgo mahiddhiko.

3331. Làn khói này được nhìn thấy, cái này có thể được xem là ngọn lửa. Tôi nghĩ rằng vị Isisiṅga có đại thần lực hiến tặng ngọn lửa cho chúng ta.”

6. Chắc rằng lắm khói ở đằng kia
Phát xuất từ trong lửa tỏa ra
Được ấp ủ nhờ tay bậc trí
Nổi danh thần lực thật cao xa.

3332. Tañca disvāna āyantiṃ āmuttamaṇikuṇḍalaṃ, isisiṅgo pāvisi bhīto assamaṃ paṇṇachādanaṃ.

3332. Và sau khi nhìn thấy nàng (công chúa) ấy đang đi đến, có bông tai bằng ngọc trai và ngọc ma-ni, vị Isisiṅga, bị kinh hãi, đã đi vào nơi ẩn cư có mái che bằng lá cây.

7. Tô điểm bảo châu, tiến lại gần,
Một nàng kiều nữ sáng huy hoàng,
I-si tội nghiệp liền kinh hoảng
Vội bước vào am, chốn ẩn thân.

3333. Assamassa ca sā dvāre bheṇḍukenassa kīḷati, aṅgvidaṃsayantī āni guyhaṃ pakāsitāni ca.

3333. Và nàng ấy đùa giỡn với quả cầu ở cửa ra vào của nơi ẩn cư, trong khi phô bày ra các phần thân thể, vật kín và các phần lộ liễu.

8. Lúc đứng trước thềm của đạo quân,
Công nương đùa với quả cầu tròn,
Thân hình diễm lệ nàng phô diển
Lồ lộ hiện ra trước mắt chàng.

3334. Tañca disvāna kīḷantiṃ paṇṇasālagato jaṭī, assamā nikkhamitvāna idaṃ vacanamabravi.

3334. Và sau khi nhìn thấy nàng ấy đang đùa giỡn, vị ẩn sĩ tóc bện, ở trong gian nhà mái lá, đã đi ra khỏi nơi ẩn cư và đã nói lời nói này:

9. Chàng thấy nàng đùa thế thật hay,
Tứ trong, chàng vội phóng ra ngay,
Vụt nhanh từ túp lều tranh ấy
Chàng thốt ra lời lẽ thế này:

3335. Ambho ko nāma so rukkho yassa tevaṃgataṃ phalaṃ, dūrepi khittaṃ pacceti na taṃ ohāya gacchati.

3335. “Cậu[1] ơi, cây ấy tên là gì, mà trái của cây ấy di chuyển đến cậu như vậy, dầu được ném ra xa, nó cũng trở về, không lìa bỏ cậu đi luôn?”

[1] Vị ẩn sĩ Isisiṅga được sanh ra và lớn lên ở trong rừng cùng với cha, chưa có cơ hội tiếp xúc với người nữ nên không biết về sự khác biệt về cơ thể của người nam và người nữ, cũng như cách xưng hô phù hợp theo giới tính. Trong câu chuyện này, vị ẩn sĩ gọi nàng công chúa là “bhavaṃ,” với ý nghĩa thông dụng là “ngài, ông” để tỏ sự tôn trọng và chỉ dùng để gọi phái nam. Ở bản dịch này, nàng công chúa sẽ xưng hô là “thiếp và chàng,” còn vị ẩy sĩ sẽ là “tớ và cậu” để nhấn mạnh sự ngây thơ về giới tính của vị này (ND).

10. "Quả cây gì đó,dám thưa ngài?
Dù có tung xa tít tận trời,
Cũng sẽ quay về ngài như vậy,
Chẳng bao giờ quả bặt tăm hơi?

3336. Assamassa mamaṃ brahme samīpe gandhamādane, pabbate tādisā rukkhā yassa tevaṅgataṃ phalaṃ, dūrepi khittaṃ pacceti na maṃ ohāya gacchati.

3336. “Thưa vị Bà-la-môn, có những cây như thế ấy ở núi Gandhamādana tại khu vực lân cận của nơi ẩn cư thuộc về thiếp, trái của nó di chuyển đến thiếp như vậy, dầu được ném ra xa, nó cũng trở về, không lìa bỏ thiếp đi luôn.”

11. Đỉnh Hương sơn nọ, chính quê nhà,
Vốn tự hào khoe chốn tệ gia
Có thật nhiều cây sinh quả ấy,
Dù tung cao vút tận trời xa
Vẫn còn trở lại tay lần nữa,
Chẳng có bao giờ lạc mất ta.

3337. Etu bhavaṃ assamimaṃ adetu pajjañca bhakkhañca paṭiccha dammi, idamāsanaṃ atra bhavaṃ nisīdatu ito bhavaṃ mūlaphalāni khādatu. 

3337. “Này cậu, hãy đi đến nơi ẩn cư này. Hãy dùng (thức ăn có sẵn). Hãy nhận lấy dầu bôi chân và vật nhai, tớ mời. Cậu hãy ngồi xuống chỗ ngồi này ở đây. Này cậu, hãy ăn các loại củ và trái cây từ nơi này. 

12. Xin vào an tọa, hỡi hiền nhân,
Nhận thức ăn và nước rửa chân,
An nghỉ đây, cùng nhau thọ dụng
Chùm dâu, khoai ấy sẵn lòng dâng.

3338. Kinte idaṃ ūrūnamantarasmiṃ supicchitaṃ kaṇharivappakāsati, akkhāhi me pucchito etamatthaṃ kose nu te uttamaṅgaṃ paviṭṭhaṃ.

3338. Cái này của cậu là cái gì, ở giữa hai bắp vế, được xúc chạm nhẹ nhàng, được nhìn thấy như là có màu đen? Được hỏi, xin cậu hãy giải thích cái ấy cho tớ. Có phải cái bửu bối của cậu đã đi vào trong cái vỏ bọc?”

3339. Ahaṃ vane mūlaphalesanaṃ caraṃ āsādayiṃ acchaṃ sughorarūpaṃ, so maṃ patitvā sahasajjhapatto panujja maṃ abbahi uttamaṅgaṃ.

3339. “Trong khi thiếp đang đi tìm kiếm rễ củ và trái cây ở trong rừng, thiếp đã chọc tức con gấu có dáng vóc vô cùng ghê rợn. Con gấu đã rượt đuổi thiếp và đã bắt được thiếp bằng sức mạnh. Nó đã đánh đập thiếp và nhổ lên cái bửu bối (của thiếp).

3340. Svāyaṃ vaṇo khajjati kaṇḍuvāyati sabbañca kālaṃ na labhāmi sātaṃ, paho bhavaṃ kaṇḍumimaṃ vinetuṃ kurutaṃ bhavaṃ yācito brāhmaṇatthaṃ.

3340. Vết thương này đây bị khoét sâu vào và gây ngứa. Thiếp không đạt được sự khoái lạc vào mọi lúc. Chàng ơi, chàng có khả năng diệt trừ chứng ngứa này. Chàng ơi, được yêu cầu, chàng hãy thực hiện mục đích của Bà-la-môn.”

3341. Gambhīrarūpo te vaṇo salohito apūtiko pakkagandho mahā ca, karomi te kiñci kasāyayogaṃ yathā bhavaṃ paramasukhī bhaveyya.

3341. “Vết thương của cậu có vẻ sâu thẳm, có màu đỏ, không có thịt thối, và nặng mùi trái cây chín. Tớ sẽ thực hiện cho cậu việc áp dụng một loại thuốc cao nào đó, này cậu, như thế cậu có thể có được sự thoải mái tối đa.”

3342. Na mantayogā na kasāvayogā na osadhā brahmacārī kamanti, yaṃ te mudu tena vinehi kaṇḍu yathā ahaṃ paramasukhī bhaveyyaṃ.

3342. “Thưa vị có Phạm hạnh, các việc áp dụng về chú thuật, các việc áp dụng về thuốc cao, các loại dược thảo không đi vào được. Chàng hãy diệt trừ chứng ngứa bằng cái vật mềm mại của chàng, như thế thiếp có thể có được sự thoải mái tối đa.”

3343. Ito nu bhoto katamena assamo kacci bhavaṃ abhiramasī araññe, kacci nu te mūlaphalaṃ pahūtaṃ kacci bhavantaṃ na vihiṃsanti vāḷā.

3343. “Từ nơi này, khu ẩn cư của cậu là ở về hướng nào? Này cậu, cậu có thích thú ở trong rừng không? Vậy có phải cậu có nhiều củ và trái cây không? Có phải các loài thú dữ không hãm hại cậu không?”

13. Ngài đã đến đây bởi lối nào?
Hẳn ngài thích ở núi ngàn cao?
Đói lòng ăn trái sim, khoai sắn,
Song thú săn mồi tránh được sao?

3344. Ito ujuṃ uttarāyaṃ disāyaṃ khemā nadī himavantā pabhāti, tassā tīre assamo mayha rammo aho bhavaṃ assamaṃ mayha passe.  

3344. “Từ nơi này, đi thẳng về hướng Bắc, có dòng sông Khemā phát xuất từ dãy núi Hi-mã-lạp. Khu ẩn cư đáng yêu của thiếp ở bên bờ sông ấy. Ôi, chàng ơi, nên nhìn thấy khu ẩn cư của thiếp. 

14. Hướng Bắc vùng đây, suối Thái Hòa
Chảy xuôi từ dãy Tuyết Sơn ra,
Trên bờ, thắng cảnh ôi kỳ thú,
Nhìn thấy ẩn am ấy của ta.

3345. Ambā ca sālā tilakā ca jambuyo uddālakā pāṭaliyo ca phullā, samantato kimpurisābhigītaṃ aho bhavaṃ assamaṃ mayha passe. 

3345. Có các cây xoài, các cây sāla, các cây họ mè, các cây mận đỏ, các cây uddālaka, và các cây hoa kèn được nở rộ, ở khắp nơi có các nhân điểu hát ca. Ôi chàng ơi, nên nhìn thấy khu ẩn cư của thiếp. 

15. Đây xoài, Ti-lak với sà la,
Nở rộ hoa kèn với quế hoa,
Khúc hát yên tỉnh văng vẳng lại,
Thưa ngài nơi ấy thấy nhà ta.

3346. Tālā ca mūlā ca phalā ca mettha vaṇṇena gandhena upetarūpā, taṃ bhūmibhāgehi upetarūpaṃ aho bhavaṃ assamaṃ mayha passe. 

3346. Các cây tāla, các rễ củ, và các trái cây ở nơi ấy của thiếp, có vóc dáng được thành tựu với màu sắc và mùi thơm, nơi ấy có phong cảnh được hình thành với những vùng đất. Ôi chàng ơi, nên nhìn thấy khu ẩn cư của thiếp. 

16. Ta đoán chà là, củ sắn khoai,
Nhìn đây đủ loại trái cây tươi,
Một nơi vui, đẹp và thơm ngát,
Đã lọt phần ta chiếm hết rồi!

3347. Phalā ca mūlā ca pahūtamettha vaṇṇena gandhena rasenupetā, āyanti ca luddakā naṃ padesaṃ mā me tato mūlaphalaṃ ahāsuṃ. 

3347. Các trái cây và các rễ củ là dồi dào ở nơi ấy của thiếp, được thành tựu với màu sắc, với mùi thơm, với hương vị. Và các thợ săn thường đi đến khu vực ấy, mong rằng họ chớ mang đi các rễ củ và trái cây của thiếp khỏi nơi ấy.” 

17. Mọi thứ mơ, dâu, đậu mọc tràn,
Ngọt ngào tươi đẹp ngát hương lan,
Song ta sợ lũ cường gian đến
Sẽ phá nhà ta, chốn lạc an.

3348. Pitā mamaṃ mūlaphalesanaṃ gato idāni āgacchati sāyakāle,ubhova gacchāmase assamaṃ taṃ yāva pitā mūlaphalato etu.

3348. “Cha của tớ đã đi tìm kiếm rễ củ và trái cây, giờ này, sẽ trở về vào lúc xế chiều. Đến lúc cha trở về từ việc kiếm rễ củ và trái cây, cả hai chúng ta có thể đi đến khu ẩn cư ấy.”

18. Thân phụ đi tìm quả thật xa,
Mặt trời khuất bóng, sẽ về nhà,
Khi người trở lại từ rừng ấy,
Ta sẽ cùng đi viếng đại gia.

3349. Aññe bahū isayo sādhurūpā rājīsayo anumagge vasanti, teyeva pucchesi mamassamaṃ taṃ te taṃ nayissanti mamaṃ sakāse.

3349. “Có nhiều vị ẩn sĩ khác có vóc dáng tốt lành, có các vị ẩn sĩ của hoàng gia sống dọc theo đường đi. Chàng hãy hỏi thẳng họ về khu ẩn cư ấy của thiếp; các vị ấy sẽ dẫn chàng đến chỗ ở của thiếp.”

19. Ôi! Ta ngại chẳng ở lâu hơn,
Song tại nơi này, lắm Thánh nhân,
Xin hỏi một ngài đưa đúng lối,
Hân hoan ngài hướng dẫn lên đường.

3350. Na te kaṭṭhāni bhinnāni na te udakamābhataṃ, aggipi te na hāsito kinnu mandova jhāyasi.

3350. “Các thanh củi không được con chẻ, nước không được con xách về, thậm chí ngọn lửa cũng không được con đốt lên, vậy con trầm tư điều gì như là kẻ đần độn vậy?

20. Bổ củi không, nước chẳng gánh về,
Lửa không đốt sáng, nói ta nghe,
Này con sao trẻ người non dạ,
Mơ mộng suốt ngày mãi thế kia?

3351. Bhinnāni kaṭṭhāni huto ca aggi tapanīpi te samitā brahmacārī, pīṭhañca mayhaṃ udakañca hoti ramasi tvaṃ brahmabhūto puratthā.

3351. (Mọi hôm) các thanh củi đã được chẻ, và ngọn lửa đã được đốt lên, sự sưởi ấm đã được con chuẩn bị, này người có Phạm hạnh, ghế của cha (đã được sắp xếp), và nước (rửa chân đã được mang lại), trước đây, con thích thú là người có bản thể cao thượng.

21. Củi rừng vẫn chẻ tự xưa nay,
Lửa đốt, đem nồi nấu đặt ngay,
Sắp sẵn tọa sàng rồi lấy nước,
Con làm bổn phận thật vui vầy.

3352. Abhinnakaṭṭhosi anābhatodako ahāsitaggīsi asiddhabhojano, na me tuvaṃ ālapasī mamajja naṭṭhannu kiṃ cetasikañca dukkhaṃ.  

3352. (Giờ đây) con có củi còn chưa chẻ, có nước chưa được xách về, có ngọn lửa chưa được đốt lên, có thức ăn chưa được hoàn tất. Hôm nay, con không nói chuyện với cha, này con của cha, có phải có cái gì bị mất mát và tâm tư bị đau khổ?”

22. Nay củi không, mà nước cũng không,
Lửa không; thức nấu kiếm hoài công,
Sao con chẳng đón mừng cha nữa,
Con mất gì? Sao phải nhọc lòng?

3353. Idhāgamā jaṭilo brahmacārī sudassaneyyo sutanū vineti, nevātidīgho na panātirasso sukaṇhakaṇhacchadanehi bhoto. 

3353. “Thưa bậc Phạm hạnh, có một đạo sĩ bện tóc đã đi đến đây, cậu ấy không quá cao, vả lại cũng không quá mập, vô cùng xinh xắn, có eo thon, và cuốn hút nhờ vào đầu tóc đen tuyền và y phục màu đen của cậu ấy. 

23. Cha hỡi, hôm nay một thiếu niên,
Xinh trai, sang trọng, dáng ưa nhìn,
Chàng không thấp quá, không cao quá,
Làn tóc đen sao tựa hạt huyền!

3354. Amassujāto apurāṇavaṇṇī ādhārarūpañca panassa kaṇṭhe, dvepassa gaṇḍā ure sujātā suvaṇṇapiṇḍūpanibhā pabhassarā. 

3354. Cậu ấy chưa mọc râu, có dáng vẻ xuất gia không lâu lắm. Hơn nữa, ở cổ của người này có đeo cái vòng trang sức. Người này còn có hai khối nhô lên khéo được sanh ra ở ngực, có ánh sáng rực rỡ gần giống như là khối vàng tinh chất. 

24. Chàng trẻ không râu, má mịn màng,
Sáng ngời trên cổ, ngọc trang hoàng,
Đôi gò bồng đảo phô kiều diễm
Sáng tựa kim cầu rực ánh quang.

3355. Mukhañca tassa bhusadassaneyyaṃ kaṇṇesu lambanti ca kuñcitaggā, te jotare carato māṇavassa suttañca yaṃ saṃyamanaṃ jaṭānaṃ. 

3355. Và khuôn mặt của người này đáng được ngắm nhìn vô cùng, có vòng khuyên treo lủng lẳng ở hai tai, chúng lấp lánh khi chàng trai trẻ bước đi. Và có sợi chỉ để buộc chặt các búi tóc. 

25. Mặt chàng tuyệt đẹp, mỗi bên tai
Có một vành khuyên lủng lẳng cài,
Chiếc mạng trên đầu chàng tỏa sáng
Hào quang, khi chuyển nhẹ đôi hài.

3356. Aññā ca tassa saññamanī catasso nīlā pītā lohitikā ca setā, tā saṃsare carato māṇavassa cirīṭi saṅghāriva pāvusamhi. 

3356. Và cậu ấy còn có bốn vật trang điểm khác nữa, màu xanh, màu vàng, màu đỏ, và màu trắng, chúng phát ra âm thanh khi chàng trai trẻ bước đi, tựa như bầy chim két kêu réo trong mùa mưa. 

26. Chàng trẻ còn mang đủ bội hoàn
Đỏ, xanh trên áo, tóc tai chàng,
Chàng đi mỗi buớc đều rung nhạc,
Ríu rít như chim gặp nước tràn.

3357. Na mekhalaṃ muñjamayaṃ dhareti na santace no pana babbajassa, tā jotare jaghanantare visattā sateritā vijjurivantalikkhe.

3357. Y nội (hạ y)  của cậu này được làm không phải bằng cỏ muñja, không phải bằng vỏ cây, lại càng không phải bằng lau sậy. Được bó sát vào phía trong của phần mông, nó lấp lánh, tựa như tia chớp Sateritā ở không trung. 

27. Chẳng áo vỏ cây, dáng đạo nhân,
Chẳng dây đai cỏ, thắt vào thân,
Lung linh xiêm áo ôm đùi sát,
Như chớp sáng lòe giữa khoảng không.

3358. Akhīlakāni ca avaṇṭakāni heṭṭhā nābhyā kaṭisamohitāni, aghaṭṭitā niccakiliṃ karonti haṃ tāta kiṃ rukkhaphalāni tāni. 

3358. (Người này) có các vật không có gai và không có cuống, được gắn vào ở bên hông, ở bên dưới lỗ rốn. Không bị va chạm, chúng tạo ra tiếng kêu leng keng liên tục. Này cha ơi, chúng là các trái cây của loại cây gì? 

28. Quả cây gì buộc cạnh sườn ai
Mềm mại, không nhành, chẳng có gai
Bên áo kết vào, buông lủng lẳng
Chạm vào nhau lách tách rung hoài.

3359. Jaṭā ca tassa bhusadassaneyyā parosataṃ vellitaggā sugandhā, dvedhāsiro sādhu vibhattarūpo aho nukho mayha tathā jaṭāssu. 

3359. Và búi tóc bện của cậu ấy đáng được ngắm nhìn vô cùng, có hơn một trăm lọn tóc, được cuộn tròn ở chóp, có mùi thơm dịu. Đầu tóc có vẻ đã được phân chia thành hai phần khéo léo. Ôi, ước gì các búi tóc bện của con là như thế.

29. Tóc đầu chàng kết đẹp phi thường
Cuộn tóc hàng trăm, tỏa ngát hương,
Đôi mái tóc này chàng rẽ giữa,
Tóc con cũng ước chải như chàng!

3360. Yadā ca so pakirati tā jaṭāyo vaṇṇena gandhena upetarūpā, nīluppalaṃ vātasameritaṃva tatheva saṃvāti vanassamo ayaṃ.

3360. Và vào lúc cậu ấy xổ tung các búi tóc bện, chúng có vẻ được thành tựu bằng màu sắc và mùi thơm, tựa như đóa sen xanh phảng phất theo làn gió; chốn ẩn cư nơi sơn lâm này thoang thoảng mùi hương giống y như thế. 

30. Tình cờ chàng thả tóc buông dây,
Bao vẻ yêu kiều giữ gió bay,
Sực nức lều ta miền thảo dã
Như mùi sen thoảng gió lung lay!

361. Paṅko ca tassa bhusadassaneyyo netādiso yādiso mayhakāyo, so vāyati erito māḷutena vanaṃ yathā aggagimhe suphullaṃ. 

3361. Và cáu đất của cậu ấy đáng được ngắm nhìn vô cùng, cáu đất ở cơ thể của con không được như thế ấy. Cậu ấy tỏa ra mùi hương thoảng đưa theo chiều gió, giống như khu rừng khéo nở rộ hoa vào đầu mùa hạ. 

31. Người của chàng xinh, ngắm mỏi mòn,
Thân chàng cao thật khác thân con,
Bay mùi thoang thoảng cùng nơi chốn
Như khóm hoa hè nở ngát hương.

3362. Nihanti so rukkhaphalaṃ paṭhabyā sucittarūpaṃ ruciraṃ dassaneyyaṃ, khittañca tassa punareti hatthaṃ haṃ tāta kiṃ rukkhaphalaṃ nu kho taṃ. 

3362. Cậu ấy ném một loại trái cây xuống trên mặt đất, vật ấy có màu sắc đẹp đẽ ở bề ngoài, xinh xắn, đáng được ngắm nhìn, và vật đã được ném đi liền quay trở lại bàn tay của cậu ấy. Này cha ơi, vật ấy là trái cây của loại cây gì? 

32. Trái chàng sáng đẹp có nhiều màu,
Trên đất, dù chàng ném thật cao,
Nó cũng về nơi chàng đứng mãi,
Trái gì, con muốn hỏi cha nào.

3363. Dantā ca tassa bhusadassaneyyā suddhā samā saṅkhavarūpapannā, mano pasādenti vivariyamānā naha nūna so sākamakhādi tehi. 

3363. Và hàm răng của cậu ấy đáng được ngắm nhìn vô cùng, chúng trong sạch, đều đặn, đạt được màu vỏ ốc cao quý, trong khi được bộc lộ, chúng gây được niềm tin ở tâm (người đối diện), có lẽ chàng trai trẻ ấy không nhai rau cải bằng các răng ấy. 

33. Răng chàng đều đặn, trắng trong ngần,
Mọi vẻ yêu kiều sánh bảo trân,
Chàng hé đôi môi: ôi quyến rũ!
Thức chàng ăn khác củ, rau rừng!

3364. Akakkasaṃ agaḷitaṃ muhuṃ muduṃ ujuṃ anuddhataṃ acapalamassa bhāsitaṃ, rudaṃ manuññaṃ karavīkasussaraṃ hadayaṅgamaṃ rañjayateva me mano. 

3364. Lời nói của người này không thô lỗ, không nhát gừng, mau mắn, mềm mỏng, thẳng thắn, không khoa trương, không tráo trở, có âm điệu làm vừa lòng, có thanh âm ngọt ngào như của loài chim karavīka, đi vào trái tim, khiến tâm ý con bị quyến luyến. 

34. Tiếng nói chàng êm dịu, rõ, trong,
Vào tai âm, hưởng tận trong lòng
Xuyên vào tim, thật du dương điệu,
Giai khúc sơn ca chẳng sánh bằng!

3365. Bindussaro nātivissaṭṭhavākyo na nūna sajjhāyamatippayutto, icchāmi kho taṃ punareva daṭṭhuṃ mittaṃ hi me māṇavāhu puratthā. 

3365. Với lời nói được thốt ra không quá lớn, có thanh âm tròn trịa, chắc chắn không sặc mùi kiến thức từ việc học tập. Con thật sự mong muốn gặp lại người ấy thêm lần nữa, chàng trai trẻ chắc hẳn đã là bạn bè của con trước đây. 

35. Giọng kia dịu xuống, lắng thâm trầm,
Con chắc dành ngâm tụng chú thần,
Tuy thế chàng ân cần quyến luyến,
Cùng chàng, con ước kết thân bằng.3366. Susandhi sabbattha vimaṭṭhimaṃ vaṇaṃ
puthū sujātaṃ kharapattasannibhaṃ,
teneva maṃ uttariyāna māṇavo
vivariya ūruṃ jaghanena pīḷayi. 

3366. Vết thương này có sự liền lại khéo léo, mọi nơi đều trơn láng. Là vết thương lớn, khéo được tạo ra, tương tự cánh của đóa hoa sen. Sau khi chinh phục con bằng chính vết thương ấy, chàng trai trẻ đã dùng mông cọ sát vào bắp vế đã được mở rộng.

3367. Tapanti ābhanti virocare ca sateratā vijjurivantalikkhe, bāhā mudū añjanalomasādisā vicitravaṭṭaṅgulikāssa sobhare. 

3367. Hai cánh tay mềm mại như là có lớp lông tơ bằng thuốc mỡ. Các ngón tay của người này tròn trịa, được tô nhiều màu sắc, lấp lánh. Chúng tỏa sáng, phát sáng, và chiếu sáng, tựa như tia chớp Sateritā ở không trung. 

36. Cánh tay chàng ấm, sáng kim ngân
Như chớp bao lần cuộn lấy thân,
Được phủ lông tơ mềm, các ngón
Như san hô đỏ ửng, tròn dần.

3368. Akakkasaṅgo na ca dīghalomo nakhassa dīghā api lohitaggā, mudūhi bāhāhi paḷissajanto kalyāṇarūpo ramayaṃ upaṭṭhahi.  

3368. Tay chân của người này không chai cứng và không có lông dài. Các móng tay chân của người này dài và đầu ngón được tô đỏ. Trong lúc ôm chặt bằng hai cánh tay mềm mại, con người có vóc dáng yêu kiều đã hầu cận con, làm con vui thích. 

37. Tứ chi mềm dịu, tóc buông lơi,
Các móng tay tô đỏ, thật dài,
Với cánh tay mềm ôm siết chặt,
Trai xinh tạo khoái lạc cho đời!

3369. Dumassa tūlūpanibhā pabhassarā suvaṇṇakambūtalavaṭṭasucchavī, hatthā mudū tehi maṃ samphusitvā ito gato te maṃ dahanti tāta. 

3369. Hai tay mềm mại của cậu ấy có ánh sáng rực rỡ, gần giống như bông gòn ở trên cây, có làn da tròn trịa và xinh đẹp như bề mặt của tấm gương bằng vàng. Sau khi xúc chạm với con bằng hai tay, cậu ấy đã ra đi khỏi nơi này, thưa cha, các cảm giác ấy vẫn còn thiêu đốt con.

38. Tay ngà như lụa chiếu huỳnh quang
Như tấm gương vàng phản ánh dương,
Chạm nhẹ làm con bừng rúng động
Chàng đi, lòng đốt nóng như rang.

3370. Naha nūna so khārividhaṃ ahāsi na nūna kaṭṭhāni sayaṃ abhañji, na nūna so hanti dume kuṭhāriyā na pissa hatthesu khīlāni atthi. 

3370. Đương nhiên, cậu ấy chắc chắn đã không lấy đi gùi đồ vật nào, chắc chắn đã không tự mình chẻ các thanh củi, cậu ấy chắc chắn đã không đốn ngã các cây bằng chiếc rìu, và cũng không có các cọc nhọn ở hai tay của người này. 

3371. Accho ca kho tassa vaṇaṃ akāsi so maṃ bravī sukhitaṃ maṃ karohi, tāhaṃ kariṃ tena mamāsi sokhyaṃ so maṃ bravī sukhitosmīti brahme. 

3371. Và con gấu, quả thật, đã gây ra vết thương cho cậu ấy. Cậu ấy đã nói với con rằng: ‘Cậu hãy làm cho tớ được thoải mái.’ Con đã làm cho cậu ấy. Với việc ấy, đã có sự thoải mái cho con. Cậu ấy đã nói với con rằng: ‘Này vị Phạm hạnh, tớ được thoải mái.’

3372. Ayañca te māluvapaṇṇasanthatā vikiṇṇarūpāva mayā ca tena ca, kilantarūpā udake ramitvā punappunaṃ paṇṇakuṭiṃ vajāma. 

3372. Và tấm thảm trải bằng lá dây leo māluva của cha có tình trạng bị vung vãi bởi con và bởi cậu ấy. Đến khi bị kiệt sức, chúng con đã vui đùa ở hồ nước, rồi chúng con trở về lại căn chòi lá. 

39. Tọa sàng bằng lá kết, giày vò
Chứng kiến đùa vui, trẻ lắm trò,
Rồi đến hồ kia con tắm mát,
Xong thèm nghỉ mệt ở trong nhà.

3373. Na majja mantā paṭibhanti tāta na aggihuttaṃ napi yaññatantraṃ, na cāpi te mūlaphalāni bhuñje yāva na passāmi taṃ brahmacāriṃ. 

3373. Thưa cha, hôm nay, với con các chú thuật không còn ứng nghiệm, không có cúng tế thần lửa, cũng không có nghi thức hiến dâng, và con cũng không thể thọ dụng các rễ củ và trái cây của cha nữa, chừng nào con còn chưa nhìn thấy vị Phạm hạnh ấy. 

41. Thánh kinh, con chẳng đọc nay mai,
Chẳng đốt lửa thiêng tế lễ đài,
Con sẽ nhịn ăn dâu, củ, đậu,
Đến khi con gặp lại chàng trai!

3374. Addhā pajānāsi tuvampi tāta yassaṃ disāyaṃ vasate brahmacārī, taṃ maṃ disā pāpaya tāta khippaṃ mā te ahaṃ amariṃ assamamhi. 

3374. Thưa cha, chắc chắn rằng cha cũng nhận biết được vị Phạm hạnh cư ngụ ở vùng đất nào. Thưa cha, cha hãy mau giúp cho con đến được vùng đất ấy.  Chớ để con chết ở khu ẩn cư của cha. 

42. Phụ thân, cho biết, hẳn am tường,
Nơi chốn đạo nhân ỡ cõi trần,
Con muốn phi thân ngay đến đó,
Bằng không, con chết tại tiền đường!

3375. Vicitrapupphaṃ hi vanaṃ sutaṃ mayā dijābhighuṭṭhaṃ dijasaṅghasevitaṃ, taṃ maṃ vanaṃ pāpaya tāta khippaṃ purā te pāṇaṃ vijahāmi assame. 

3375. Bởi vì con đã được nghe nói về khu rừng có hoa muôn sắc, được rộn rịp tiếng hót của loài chim, được lai vãng bởi các bầy chim.Thưa cha, cha hãy mau giúp cho con đến được khu rừng ấy. trước khi con lìa bỏ mạng sống ở khu ẩn cư của cha.” 

43. Nghe rừng chàng nói rực tươi hoa,
Nhộn suốt ngày chim ríu rít ca,
Con muốn phi thân nhanh đến đó,
Bằng không, con chết ngay tại đây mà!

3376. Imasmāhaṃ jotirase vanamhi gandhabbadevaccharasaṅghasevite, isīnamāvāse sanantanamhi netādisaṃ aratiṃ pāpuṇetha.  

3376. “Ở khu rừng có viên ngọc như ý này, nơi được lai vãng bởi hội chúng Càn- thát- bà, chư Thiên, và tiên nữ, trú xứ của các bậc ẩn sĩ từ thời xa xưa, không có đạt đến trạng thái bất an như thế này.

44. Ngôi nhà xưa của các hiền nhân
Ở giữa rừng này ngập ánh quang,
Nơi ẩn của chư Thần, Thánh nữ,
Chẳng hề cảm thấy mất an toàn.

3377. Bhavanti mittāni atho na honti ñātīsu mittesu karonti pemaṃ, ayañca jammo kissa vā niviṭṭho yo neva jānāti kutomhi āgato. 

3377. Chúng sanh trở thành bạn bè, rồi không còn là bạn bè. Chúng sanh thể hiện sự yêu mến ở thân quyến, ở bạn bè. Và đứa trẻ tội nghiệp này tại sao lại bị vương vấn, khi nó còn không biết mình từ đâu đã đi đến nơi này. 

45. Tình bạn phát sinh, sẽ diệt vong;
Mọi người yêu mến đám thân nhân,
Song kẻ đáng thương nào có biết
Nhờ ai, có gốc rễ, tình thân.

3378. Saṃvāsena hi mittāni sandhīyanti punappunaṃ, sveva mitto asaṅgantu asaṃvāsena jīrati. 

3378. Do sự cộng trú mà các bạn bè được gắn bó thêm lên. Chớ để chúng gặp gỡ nhau. Do không có sự cộng trú, chính cái tình bạn ấy sẽ lụi tàn.

46-47. Tình bạn kết nhờ gặp gỡ luôn,
Đoạn giao, tình bạn phải tiêu vong.

3379. Sace tuvaṃ dakkhasi brahmacāriṃ sace tuvaṃ sallapi brahmacārinā, sampannasassaṃ va mahodakena tapoguṇaṃ khippamimaṃ pahassasi. 

3379. Nếu con còn gặp vị hành Phạm hạnh, nếu con còn trò chuyện với vị hành Phạm hạnh, tựa như mùa màng đã đạt được bị cuốn đi bởi cơn lũ lớn, con sẽ mau chóng đánh mất công đức khổ hạnh này. 

Nếu con nhìn lại chàng trai ấy
Như trước, cùng trò chuyện thiết thân,
Như lụt cuốn trôi thóc lúa chín,
Công năng đức hạnh bại vong dần.

3380. Punapi ce dakkhasi brahmacāriṃ punapi ce sallape brahmacārinā, sampannasassaṃ va mahodakena usmāgataṃ khippamimaṃ pahassasi. 

3380. Nếu con cũng còn gặp vị hành Phạm hạnh lần nữa, nếu con cũng còn trò chuyện với vị hành Phạm hạnh lần nữa, tựa như mùa màng đã đạt được bị cuốn đi bởi cơn lũ lớn, con sẽ mau chóng đánh mất năng lực Sa-môn này. 

3381. Bhūtāni hetāni caranti tāta virūparūpena manussaloke, na tāni sevetha naro sapañño āsajja naṃ nassati brahmacārī ”ti. 

3381. Này con, bởi vì các quỷ thần sinh sống ở thế giới loài người với hình dáng biến dạng, con người có trí tuệ không thân cận với chúng, sau khi gần gũi kẻ ấy, người hành Phạm hạnh bị tiêu vong.” 

48. Ma quỷ thường đi khắp thế gian,
Thiên hình giả dạng! Hãy coi chừng!
Hiền nhân chẳng kết giao cùng chúng,
Công hạnh tan hoang nếu chúng gần!

Nalinikājātaka.

***

Bổn Sanh Công Chúa Nalinikā. [526]

***



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada