4196. Kasmā tuvaṃ rasaka edisāni karosi kammāni sudāruṇāni, hanāsi itthī purise ca mūḷho maṃsassa hetu ādu dhanassa kāraṇā.
4196. “Này đầu bếp, tại sao ngươi lại làm những hành động vô cùng tàn bạo như thế này? Ngươi giết những người đàn bà và đàn ông do ngươi bị mê muội, vì nguyên nhân miếng thịt hay là vì lý do tài sản?”
1. Hỡi người sành các món cao lương,
Ðòi hỏi gì sao thật khẩn trương
Ðã giục ngươi làm điều khủng khiếp?
Chỉ vì thực phẩm hoặc tiền vàng
Ngươi tàn sát những người này vậy,
Hỡi kẻ khốn kia lạc bước đàng?
4197. Na attahetu na dhanassa kāraṇā na puttadārassa sahāyañātinaṃ, bhattā ca me bhagavā bhūmipālo so khādatī maṃsaṃ bhadante edisaṃ.
4197. “Không vì nguyên nhân miếng thịt, không vì lý do tài sản, không vì lý do vợ, con, bạn bè, hay thân quyến, chủ nhân của tôi là đấng hộ quốc có quyền uy, vị ấy ăn thịt như thế này, thưa ngài.”
2. Chẳng vì thê tử hoặc thân bằng,
Quyến thuộc, bản thân hoặc bạc vàng,
Thần giết bà này vì Chúa thượng,
Vì vua ngự trị cả giang san
Vẫn ăn thịt ấy, thần gây tội
Chính là do lệnh của vua ban.
4198. Sace tuvaṃ bhatturatthe payutto karosi kammāni sudāruṇāni, pāto va antepuraṃ pāpuṇitvā lapeyyāsi me rājino sammukhe taṃ.
4198. “Nếu bị gắn bó với lợi ích của chủ nhân mà ngươi làm những hành động vô cùng tàn bạo như thế này, vào sáng sớm mai, sau khi đi đến hoàng cung, ngươi có thể nói với ta điều ấy trước mặt đức vua.”
3. Nếu do mua chuộc để chìu lòng
Thèm khát tham tàn của Chúa công,
Ngươi đã phạm hành vi khủng khiếp,
Vậy ngày mai đến lúc hừng đông,
Chúng ta tìm Chúa công tham kiến,
Ðưa cáo trạng ra trước mặt rồng.
4199. Tathā karissāmi ahaṃ bhadante yameva tvaṃ bhāsasi kāḷahatthi, pāto va antepuraṃ pāpuṇitvā vakkhāmi te rājino sammukhe taṃ.
4199. “Thưa ngài, tôi sẽ làm như thế ấy, đúng với điều mà ngài nói, thưa tướng quân Kāḷahatthi. vào sáng sớm mai, sau khi đi đến hoàng cung, tôi sẽ nói với ngài điều ấy trước mặt đức vua.”
4. Kà-la đại tướng đáng tôn sùng,
Thần sẽ tuân lời của tướng công,
Ðến rạng đông thần tìm Chúa thượng
Và đưa cáo trạng trước sân rồng.
4200. Tato ratyā vivasane suriyassuggamanaṃ pati, kāḷo rasakamādāya rājānaṃ upasaṅkami, upasaṅkamitvā rājānaṃ idaṃ vacanamabruvī.
5. Vầng nhật vừa lên, mới rạng đông,
Ðem theo đầu bếp đến sân rồng,
Kà-la tiến lại gần thiên tử,
Tâu những lời này với chúa công:
4201. Saccaṃ kira mahārāja rasako pesito tayā, hanāti itthī purise tuvaṃ maṃsāni khādasi.
6."Hỏa đầu quân, có đúng vậy chăng
Ðưa lệnh vua ra tận phố phường,
Tàn sát nam nhi cùng phụ nữ,
Ðể dâng chúa thượng món cao lương.
4202. Evamevaṃ tathā kāḷa rasako pesito mayā, mama atthaṃ karontassa kimetaṃ paribhāsasi.
7."Ðiều này thật đúng đấy, Kà-la,
Việc ấy được làm bởi lệnh ta,
Sao khiển trách tên đầu bếp nọ,
Vì làm theo lệnh của ta mà?".
4203. Ānando sabbamacchānaṃ khāditvā rasagiddhimā, parikkhīṇāya parisāya attānaṃ khādiyā mato.
4203. “Con cá Ānanda, có sự thèm khát mùi vị của mọi loài cá, đã ăn thịt các con cá. Khi loài cá bị cạn kiệt hoàn toàn, nó đã ăn chính mình và chết đi.
8. A-nan ăn cá biết bao loài,
Lúc đám tùy tùng trốn thoát rồi,
Nó cắn đuôi mình nhai ngấu nghiến
Ðến khi thủy quái phải lìa đời.
4204. Evaṃ pamatto rasagārave rato bālo yadi āyatiṃ nāvabujjhati, vidhamma putte caji ñātake ca parivattiya attānameva khādati.
9. Nô lệ dục tham, chẳng biết gì
Thú vui nào khác, kẻ ngu si
Ðui mù, phóng dật, gây đau khổ
Hủy diệt họ hàng, cả thiếu nhi,
Rồi biến thân thành mồi béo bở
Cho lòng tham quái ác ly kỳ.
4205. Idaṃ te sutvāna vihetu chando mā bhakkhasi rāja manussamaṃsaṃ, mā tvaṃ imaṃ kevalaṃ vārijova dipadādhipa suññamakāsi raṭṭhaṃ.
4205. Sau khi nghe ví dụ này của thần, tâu bệ hạ, xin bệ hạ chớ thọ thực thịt người bởi lòng mong muốn không có nguyên nhân. Tựa như con cá Ānanda (đã khiến cho đại dương trở nên trống vắng), tâu vị lãnh tụ của loài hai chân, xin bệ hạ chớ làm cho đất nước trở thành trống không.”
10. Nghe lời thần nói, tấu Quân vương,
Món thịt người, xin chúa chờ ăn,
Việc ác kiêng làm, e ngại phải
Cùng chung số phận thật kinh hoàng
Của con thủy quái và đành để
Ðất nước Chúa công phải mạt tàn.
4206. Sujāto nāma nāmena oraso tassa atrajo, jambupesiṃ aladdhāna mato so tassa saṅkhaye.
11. Nam nhi thừa kế Su-jà-ta
Ðòi quả hồng đào, cứ hét la,
Cậu bé buồn phiền vì mất chúng,
Phải đành thiệt mạng, hóa ra ma.
4207. Evameva ahaṃ kāḷa bhutvā bhakkhaṃ rasuttamaṃ, aladdhā mānusaṃ maṃsaṃ maññe hessāmi jīvitaṃ.
4207. Tương tự y như vậy, này tướng quân Kāḷa, sau khi ăn món ăn có hương vị tối thượng, trẫm nghĩ rằng, không đạt được thịt người, trẫm sẽ từ bỏ mạng sống.”
12. Vậy xưa nay trẫm vẫn ăn luôn
Những món, Kà-la hỡi, cực sang,
Thiếu món thịt người, e có lẽ
Không còn đời sống để lo toan.
4208. Māṇava abhirūposi kule jātosi sotthiye, na tvaṃ arahasi tāta abhakkhaṃ bhakkhayetave.
4208. “‘Này Bà-la-môn trai trẻ, con có dáng vóc xinh đẹp, con được sinh ra ở gia tộc hưng thịnh. Này con yêu, con không thích hợp để thọ dụng vật không đáng thọ dụng.’13. Nam tử La-môn tộc quý cao,
Là trai khả ái, lại thanh tao,
Con đừng uống vật đầy ghê tởm
Không một La-môn hưởng thụ nào.
Sau những lời này, ông lại bảo:
4209. Rasānamaññataraṃ etaṃ yasmā maṃ tvaṃ nivāraye, sohaṃ tattha gamissāmi yattha lacchāmi edisaṃ.
4209. ‘Bởi vì cha ngăn cấm con về rượu, vật có một hương vị nào đó trong bảy loại hương vị, con đây sẽ đi đến nơi nào con sẽ đạt được vật như thế ấy.
14. Bởi vì cha muốn cản ngăn con,
Uống thứ này hương vị tuyệt ngon,
Con sẽ đi xa bất kể số,
Tìm nơi đâu rượu vẫn trường tồn!
4210. So vāhaṃ nippatissāmi na te vacchāmi santike, yassa me dassanena tvaṃ nābhinandasi brāhmaṇa.
4210. Chính con đây sẽ ra đi, con sẽ không sống bên cạnh cha. Thưa vị Bà-la-môn, do việc nhìn thấy con đây, cha không vui thích.’
15. Con sẽ ra đi vội bước chân,
Chẳng còn ở lại với song thân,
Vì nay thấy mặt con, e hẳn
Cha ghét con cay đắng bội phần!
4211. Addhā aññepi dāyāde putte lacchāma māṇava, tvañca jamma vinassassu yattha pattaṃ na taṃ suṇe.
4211. ‘Này Bà-la-môn trai trẻ, đương nhiên cha sẽ đạt được những đứa con trai khác làm kẻ thừa kế. Còn ngươi, này kẻ hèn hạ, ngươi hãy biến mất đi. Ngươi đi đến nơi nào, ta sẽ không nghe ngóng về ngươi ở nơi ấy nữa.’
16. Ta sẽ tìm vài cậu thiếu niên
Ðể cho thừa kế mọi kim tiền,
Cút đi, đồ khốn, nơi ta chẳng
Nghe thấy tên ngươi đáng rủa nguyền!
4212. Evameva tuvaṃ rāja dipadinda suṇohi me, pabbājessanti taṃ raṭṭhā soṇḍaṃ māṇavakaṃ yathā.
17. Vậy lắng nghe này, tấu Ðại vương,
Tuân theo lời dặn của ngu thần,
Nếu không sẽ giống chàng say rượu
Ngài bị đuổi ra khỏi thổ cương.
4213. Sujāto nāma nāmena bhāvitattāna sāvako, accharaṃ kāmayantova na so bhuñji na so pivi.
18. Ðồ đệ của chư Ðại Thánh hiền,
Su-jà ta, cổ tích lưu truyền,
Nhịn luôn thực phẩm cùng đồ uống,
Vì đã đắm say một nữ tiên.
4214. Kusagge udakamādāya samudde udakaṃ mine, evaṃ mānusakā kāmā dibbakāmāna santike.
19. Như đầu ngọn cỏ đọng hơi sương
So với mọi nguồn nước đại dương,
Cũng vậy tình người đem sánh với
Ái tình dâng tặng một tiên nương.
4215. Evameva ahaṃ kāḷa bhutvā bhakkhaṃ rasuttamaṃ, aladdhā mānusaṃ maṃsaṃ maññe hessāmi jīvitaṃ.
4215. Tương tự y như thế, này tướng quân Kāḷa, sau khi ăn món ăn có hương vị tối thượng, trẫm nghĩ rằng, không đạt được thịt người, trẫm sẽ từ bỏ mạng sống.”
20. Vậy xưa nay trẫm vẫn ăn luôn
Những món, Kà-la hỡi, cực sang,
Thiếu món thịt người, e có lý
Không còn đời sống để lo toan.
4216. Yathāpi te dhataraṭṭhā haṃsā vehāsayaṃ gamā, avutti paribhogena sabbe abbhatthataṃ gatā.
21. Như các thiên nga có sắc vàng
Du hành qua giữa cõi không gian,
Thảy đều phải chết vì sinh sống
Bằng thực phẩm kia trái lẽ thường.
4217. Evameva tuvaṃ rāja dipadinda suṇohi me, abhakkhaṃ rāja bhakkhesi tasmā pabbājayanti taṃ.
22. Cũng vậy, xin ngài hỡi Ðại vương,
Lắng nghe thần nói thật tinh tường;
Vì ăn thực phẩm này phi pháp
Dân sẽ đuổi ngài khỏi thổ cương.
4218. Tiṭṭhāhīti mayā vutto so tvaṃ gacchasi pammukho, aṭṭhito tvaṃ ṭhitomhīti lapasi brahmacārinī, idaṃ te samaṇa ayuttaṃ asiñca me maññasi kaṅkapattaṃ.
4218. “Đã được trẫm bảo: ‘Hãy đứng lại,’ ngài đây vẫn đi tới, mặt nhìn hướng khác. Này vị hành Phạm hạnh, ngài không đứng yên, nhưng lại nói: ‘Ta đang đứng.’ Này vị Sa-môn, điều này không thích hợp đối với ngài. Và ngài nghĩ rằng thanh gươm của trẫm là cọng lông chim diệc hay sao?”
23. Mặc dù ta bảo đứng yên ngay,
Ngài vẫn phóng mình tựa gió bay,
Ngài lại thét: "Này! Ta đứng đó!"
Chắc là ngài nói dối ta đây.
Chuyện này quả thật không phù hợp.
Ẩn sĩ ôi! Mang lấy kiếm này,
Ngài phải giả làm tên bất hại
Ðiểm lông chim hạc trắng, con mây.
4219. Ṭhitohamasmi sadhammesu rāja na nāmagottaṃ parivattayāmi, corañca loke aṭṭhitaṃ vadanti āpāyikaṃ nerayikaṃ ito cutaṃ.
24. Ta vẫn lòng theo đạo chánh chân,
Chẳng thay tên họ hoặc thân nhân,
Cường gian đây sống đời phù phiếm,
Phút chốc đọa vào ngục khổ thân.
4220. Sace tuvaṃ saddahasi rāja sutaṃ gaṇhāhi khattiya, tena yaññaṃ yajitvāna evaṃ saggaṃ gamissasi.
25. Can đảm lên đi, hỡi Chúa công,
Bắt So-ma vĩ đại anh hùng,
Ðem về đây để ngài dâng lễ
Sẽ đạt thiên đường, có biết không?
4221. Kasmiṃ nu raṭṭhe tava jātabhūmi atha kena atthena idhānupatto, akkhāhi me brāhmaṇa etamatthaṃ kimacchasi demi tayajja patthitaṃ.
26. Trẫm hỏi ngài sinh ở xứ nào,
Ðến đây, Ðạo sĩ hỡi, vì sao?
Nói rồi, nay trẫm liền ban tặng
Bất cứ điều chi đấy nguyện cầu.
4222. Gāthā catasso dharaṇīmahissara sugambhiratthā varasāgarūpamā, taveva atthāya idhāgatosmi suṇohi gāthā paramatthasaṃhitā.
27. Bốn vần thi kệ, tấu Quân vương,
Ý nghĩa sâu xa tựa hải dương,
Mang đến đây, xin nghe thật kỹ
Cao siêu huyền bí thảy am tường.
4223. Na ve rudanti matimanto sapaññā bahussutā ye bahuṭhāna cintino, dīpaṃ hi etaṃ paramaṃ narānaṃ yaṃ paṇḍitā sokanudā bhavanti.
4223. “Những người trí thức, có trí tuệ, có kiến thức, có nhiều sự suy xét về nguyên nhân, chắc chắn không than khóc, bởi vì sự sáng suốt ấy là hòn đảo (nương tựa) tối cao của những người nam, và các bậc sáng suốt là những người xua đi nỗi sầu muộn (cho những chúng sanh có sự sầu muộn).
28. Những bậc uyên thâm, các trí nhân
Tư duy cao cả phát sinh luôn,
Chẳng bao giờ khóc, tìm an trú
Bậc Thánh xua tan nỗi khổ buồn.
4224. Attānaṃ ñātī uda puttadāraṃ dhaññaṃ dhanaṃ rajataṃ jātarūpaṃ, kimo nu tvaṃ sutasomānutappe koravyaseṭṭha vacanaṃ suṇoma te.
4224. Này đại vương Sutasoma, vậy bệ hạcó thể hối tiếc về điều gì, về bản thân, thân quyến, hay là vợ con, về lúa gạo, tài sản, bạc, hay vàng? Này vị đứng đầu của cư dân Kuru, chúng tôi lắng nghe lời nói của bệ hạ.”
29. Có phải vợ con hoặc họ hàng,
Bản thân, kho thóc, bạc hay vàng,
Ðã làm lệ chảy, So-ma hỡi,
Ðại đế Ku-ru, đáp rõ ràng.
4225. Nevāhamattānam anutthunāmi na puttadāraṃ na dhanaṃ na raṭṭhaṃ, satañca dhammo carito purāṇo taṃ saṅgaraṃ brāhmaṇassānutappe.
30. Không khóc gì cho chính bản thân,
Vợ con, đất nước hoặc kho tàng,
Thánh hạnh ngày xưa ta vẫn giữ,
Khóc vì lời hứa chẳng chu toàn.
4226. Kato mayā saṅgaro brāhmaṇena raṭṭhe sake issariye ṭhitena, taṃ saṅgāraṃ brāhmaṇassappadāya saccānurakkhī punarāvajissaṃ.
31. Trước một La-môn, đã hứa lời,
Khi ta trị nước với quyền oai,
Lời kia ta ước mong gìn giữ
Danh dự cứu xong, trở lại ngài!
4227. Nevāhametaṃ abhisaddahāmi sukhī naro maccumukhā pamutto, amittahatthaṃ punarāvajeyya koravyaseṭṭha nahi maṃ upesi.
32. Ta chẳng tin rằng có thế nhân
Vận may thoát móng tử ma thần,
Trở về nộp mạng cho cừu địch,
Nếu để ngài đi, chẳng phục hoàn.
4228. Mutto tuvaṃ porisādassa hatthā gantvā sakaṃ mandiraṃ kāmakāmī, madhurampiyaṃ jīvitaṃ laddha rāja kuto tuvaṃ ehisi me sakāsaṃ.
33. Thoát kè sát nhân ác, trở về
Hoàng cung, mộng ước đẹp tràn trề,
Cuộc đời thân thiết đầy lôi cuốn
Hồi phục cho ngài phải đắm mê.
Vì lý do gì trên thế giới
Mà ngài trở lại với ta hề?
4229. Mataṃ vareyya parisuddhasīlo na hi jīvitaṃ garahito pāpadhammo, na hi taṃ naraṃ tāyate duggatīhi yassāpi hetu alikaṃ bhaṇeyya.
34. Vô tội, con người thích chết hơn
Sống mang đầy tội đáng khinh nhờn,
Nếu vì cứu mạng, buông lời dối
Người chẳng thoát đâu ngục khổ buồn.
4230. Sacepi vāto girimāvaheyya cando ca suriyo ca chamā pateyyuṃ, sabbāva najjo paṭisotaṃ vajeyyuṃ na tvevahaṃ rāja musā bhaṇeyyaṃ.
35. Gió có thể lay chuyển núi cao,
Trời, trăng rụng xuống cõi trần lao,
Thưa ngài, và mọi dòng sông cạn,
Nhưng vọng ngôn, ta chẳng phạm vào.
4231. Nabhaṃ phaleyya udadhī visusse saṃvatteyya bhūtadharā vasundharā, siluccayo neru samūlamuppate natvevahaṃ rāja musā bhaṇeyyaṃ.
4232. Asiñca sattiñca parāmasāmi sapathampi te samma ahaṃ karomi, tayā pamutto anaṇo bhavitvā saccānurakkhī punarāvajissaṃ.
36. Này! Khi ta chạm kiếm, đao này,
Thề nguyện trang nghiêm trước mặt ngài,
Hãy thả ta và ta thoát nợ,
Cứu xong danh dự, trở về đây.
4233. Yo te kato saṅgaro brāhmaṇena raṭṭhe sake issariye ṭhitena, taṃ saṅgaraṃ brāhmaṇassappadāya saccānurakkhī punarāvajassu.
37. Trước một La-môn, đã hứa lời,
Khi ngài trị nước với quyền oai,
Lời kia, ta phải bắt ngài giữ,
Danh dự cứu rồi, trở lại thôi.
4234. Yo me kato saṅgaro brāhmaṇena raṭṭhe sake issariye ṭhitena, taṃ saṅgaraṃ brāhmaṇassappadāya saccānurakkhī punarāvajissaṃ.
38. Trước một La-môn đã hứa lời,
Khi ta trị nước với quyền oai,
Lời kia ta ước mong gìn giữ,
Danh dự cứu xong, trở lại ngài.
4235. Mutto ca so porisādassa hatthā gantvāna taṃ brāhmaṇaṃ etadavoca, suṇomi gāthāyo satārahāyo yā me sutā assu hitāya brahme.
4235. Và vị ấy đã được thoát khỏi vòng tay của kẻ ăn thịt người. Đức vua Sutasoma, sau khi đi đến gặp vị Bà-la-môn ấy, đã nói điều này: ‘Hãy cho trẫm nghe các kệ ngôn đáng giá một trăm tiền, này vị Bà-la-môn, các điều được trẫm nghe có thể đem lại lợi ích cho trẫm.’
39. Thoát tay tàn bạo, giết nhân dân,
Ðến Ðạo sĩ, người bạn thiết thân,
Ngài bảo: "Chúng ta đều ước muốn
Nghe bài thi kệ giá trăm đồng,
Nếu ngài chiếu cố ban lời dạy,
Lợi lạc chúng ta được hưởng phần".
4236. Sakideva sutasoma sabbhi hoti samāgamo, sā naṃ saṅgati pāleti nāsabbhi bahusaṅgamo.
4236. “Thưa ngài Sutasoma, việc gặp gỡ với những người tốt dầu chi một lần, sự hội ngộ ấy hộ trì vị ấy. Không gặp gỡ nhiều với những kẻ xấu.
40. Hãy hòa hợp với Thánh hiền nhân,
Này hỡi So-ma, chỉ một lần,
Và chớ bao giờ thân kẻ ác,
Bình an tràn ngập khắp toàn thân.
4237. Sabbhireva samāsetha sabbhi kubbetha santhavaṃ, sataṃ saddhammamaññāya seyyo hoti na pāpiyo.
4237. Bệ hạ hãy thân cận chỉ với những người tốt. Bệ hạ hãy thực hiện sự thân thiết với những người tốt. Người hiểu rõ chánh pháp của các bậc thiện nhân trở nên tốt hơn, không trở thành xấu hơn.
41. Thường xuyên giao kết với hiền nhân,
Chỉ nhận hiền nhân chính bạn thân,
Học chánh lý từ bao bậc Thánh,
Mỗi ngày tu tập tốt thêm dần.
4238. Jīranti ve rājarathā sucittā atho sarīrampi jaraṃ upeti, satañca dhammo na jaraṃ upeti santo have sabbhi pavedayanti.
4238. Thật vậy, các cỗ vương xa khéo được tô điểm cũng trở thành cũ kỹ, thậm chí thân xác này cũng đi đến sự già nua, nhưng pháp của các bậc thiện nhân không đi đến sự lão hóa, các bậc thiện nhân quả thật tuyên thuyết về điều tốt lành.
42. Như các xe vua khéo điểm trang
Cũng thành mờ nhạt, sẽ tan hoang,
Thân ta yếu đuối càng mòn mỏi,
Và phải chịu nhanh chóng lụi tàn.
Song Ðạo Thánh hiền nhân vĩnh cửu,
Chẳng hề tàn tạ với thời gian,
Thiên nhân tuyên thuyết cùng người thiện
Qua các thời chưa được bảo ban.
4239. Nabhañca dūre paṭhavī ca dūre pāraṃ samuddassa tadāhu dūre, tato have dūrataraṃ vadanti satañca dhammaṃ asatañca rāja.
4239. Bầu trời là xa vời, và trái đất là xa vời, bờ kia của biển cả là xa vời, các vị đã nói điều ấy. Thật vậy, các vị nói về điều còn xa vời hơn thế nữa, về pháp của các bậc thiện nhân và của những kẻ xấu xa, tâu bệ hạ.”
43. Bầu trời giăng rộng rãi bao la,
Quả đất trải dài ở dưới ta,
Lãnh thổ bên kia bờ đại hải,
Chúng ta đều biết thật là xa.
Song còn vĩ đại hơn muôn vật,
Tầm mức ấy càng tỏa rộng ra
Là Ðạo lý về điều thiện, ác
Người hiền, kẻ ác dạy cho ta.
4240. Sahassiyo imā gāthā na imā gāthā satārahā, cattāri tvaṃ sahassāni khippaṃ gaṇhāhi brāhmaṇa.
4240. “Các câu kệ này là tiền ngàn, các câu kệ này không phải giá tiền trăm. Này vị Bà-la-môn, ông hãy mau nhận lấy bốn ngàn.”
44. Các kệ này không chỉ bốn trăm,
Ðúng hơn, phải nói giá hàng ngàn,
Bốn ngàn đây, Ðạo Sư, cầm lấy,
Ðem chúng đi ngay, hãy vội vàng.
4241. Āsītiyā nāvutiyā ca gāthā satārahā cāpi bhaveyyu gāthā, paccattameva sutasoma jānahi sahassiyo nāma kudhatthi gāthā.
45. Kệ thường mỗi khúc tám mươi đồng,
Hoặc đến một trăm, giá tận cùng,
Song hởi So-ma, nên tự chủ,
Một ngàn là giá kệ chưa từng!
4242. Icchāmi vohaṃ sutavuddhimattano santo ca maṃ sappurisā bhajeyyuṃ, ahaṃ savantīhi mahodadhīva nahi tāta tappāmi subhāsitena.
4242. “Con mong muốn sự tiến bộ về kiến thức cho bản thân, và các bậc thiện nhân, những người tốt lành, có thể chia sớt cho con. Con tựa như đại dương (không bị tràn đầy) với những dòng sông, thưa cha, bởi vì con không nhàm chán đối với thiện ngôn.
46. Con mong Thánh kiến cứ tăng dần,
Bầu bạn thiết thân với Thánh nhân,
Chẳng có sông nào đầy biển cả,
Thiện ngôn con học mãi không cùng.
4243. Aggi yathā tiṇakaṭṭhaṃ ḍahanto na tappatī sāgaro vā nadīhi, evampi te paṇḍitā rājaseṭṭha sutvā na tappanti subhāsitena.
47. Như lửa khát khao réo củi rơm,
Biển đòi sông, lạch đổ nhiều hơn,
Hiền nhân cũng vậy, tâu Hoàng thượng,
Khao khát nghe lời nói thiện chơn.
4244. Sakassa dāsassa yadā suṇomi gāthā ahaṃ atthavatī janinda, tameva sakkacca nisāmayāmi nahi tāta dhammesu mamatthi titti.
48. Từ miệng nô tỳ, nếu được nghe
Tối cao ý nghĩa kệ tràn trề,
Lời kia con nhận đầy cung kính,
Ðạo lý thiện chân thỏa chẳng hề.
4245. Idante raṭṭhaṃ sadhanaṃ sayoggaṃ sakāyuraṃ sabbakāmūpapannaṃ, kiṃ kāmahetu paribhāsase maṃ gacchāmahaṃ porisādassa kante.
49. Ðất nước của cha lắm bạc vàng,
Cân đai, quốc phục, lạc vô ngàn,
Sao còn khiển trách khi con bỏ
Dục lạc, chết vào tay sát nhân?
4246. Attānurakkhāya bhavanti hete hatthārohā rathikā pattikā ca, assārohā ye ca dhanuggahāse senaṃ payuñjāma hanāma sattuṃ.
4246. “Bởi vì, những người này là để bảo vệ bản thân: các tượng binh, các xa binh, và các bộ binh, các kỵ mã, và các cung thủ. Chúng ta hãy sử dụng quân đội, chúng ta hãy giết chết kẻ thù.”
50. Dũng sĩ đến đây bảo vệ ta!
Kẻ thì cỡi tượng, kẻ lên xa,
Bộ binh, kỵ mã đầy cung tiễn,
Thống lãnh đạo quân, giết địch nhà!
4247. Sudukkaraṃ porisādo akāsi jīvaṃ gahetvāna avissajī maṃ, taṃ tādisaṃ pubbakiccaṃ saranto dubbhe ahaṃ tassa kathaṃ janinda.
51. Hành động cừu nhân ăn thịt người
Bắt con, rồi thả, thật cao vời,
Khắc ghi thuở trước tình bằng hữu,
Ðã hứa, làm sao con nuốt lời?
4248. Vanditvā so pitaraṃ mātarañca anusāsitvā negamañca balañca, saccavādī saccānurakkhamāno agamāsi so yena so porisādo.
52. Lời khéo khuyên, từ biệt lão thân,
Chân thành nhắn nhủ cả quân, dân,
Giữ lời thệ ước, không lừa dối,
Vội trở về bên kẻ sát nhân.
4249. Kato mayā saṅgaro brāhmaṇena raṭṭhe sake issariye ṭhitena, taṃ saṅgaraṃ brāhmaṇassappadāya saccānurakkhī punarāgatosmi. yajassu yaññaṃ khāda maṃ porisāda.
53. Trước một La-môn đã hứa lời,
Khi ta trị nước với quyền oai,
Nay ta đã trọn lời thề ước,
Danh dự cứu xong, trở lại rồi.
Vậy hãy giết ta và tế lễ
Dâng thần cây gỗ của nhà ngài,
Hay là thỏa mãn lòng tham muốn
Ðộc ác bạo hung với thịt người!
4250. Na hāyate khādituṃ mayhaṃ pacchā citakā ayaṃ tāva sadhūmikā ca, niddhūmake pacitaṃ sādhu pakkaṃ suṇāmi gāthāyo satārahāyo.
54. Dù ta trì hoãn một hai ngày,
Lửa vẫn còn làm khói tỏa bay,
Chẳng mất quyền ăn mồi thịt ấy,
Thịt quay than nóng thật ngon thay!
Các vần kệ giá trăm đồng chẵn
Ngài hãy mau lên, đọc kệ ngay!
4251. Adhammiko tvaṃ porisādakāsi raṭṭhā ca bhaṭṭho udarassa hetu, dhammañcimā abhivadanti gāthā dhammo adhammo ca kuhiṃ sameti.
55. Kẻ ăn đồng loại, bạo tàn thay,
Thèm thịt, đã rơi khỏi chiếc ngai,
Vần kệ dạy cho ta Chánh lý,
Chánh, Tà phải kết hợp sau đây?
4252. Adhammikassa luddassa niccaṃ lohitapāṇino, natthi saccaṃ kuto dhammo kiṃ sutena karissasi.
56. Với kẻ cướp hung ác bạo tàn,
Bàn tay đã nhúng máu đầy tràn,
Lợi gì Thánh kiến này đem đến,
Phát xuất từ đâu lẽ Chánh Chân
4253. Yo maṃsahetu migavaṃ careyya yo vā hane purisaṃ attahetu, ubhopi te pecca samā bhavanti kasmā no adhammikaṃ brūhi maṃ tvaṃ.
57. Kẻ nọ đi săn bắt thú rừng
Ðể làm thành món thịt thơm lừng,
Và người kia giết người đồng loại
Lấy thịt bà con để nấu ăn,
Khi chết, cả hai đồng tội lỗi,
Sao riêng ta bị trách cùng hung?
4254. Pañca pañca nakhā bhakkhā khattiyena pajānatā, abhakkhaṃ rāja bhakkhesi tasmā adhammiko tuvaṃ.
4254. “Không được ăn mười loại thịt, đã được vị Sát- đế- lỵ biết đến. Này vị chúa tể, ngươi ăn loại thịt không nên ăn; vì thế, ngươi là kẻ phi pháp.”
58. Trong ngũ thú, loài có móng, răng,
Khôn ngoan, vương tử cứ dùng ăn,
Còn ngài ăn thịt đà kiêng kỵ,
Này Ðại vương ôi, thật bạo hung!
4255. Mutto tuvaṃ porisādassa hatthā gantvā sakaṃ mandiraṃ kāmakāmī, amittahatthaṃ punarāgatosi na khatta dhamme kusalosi rāja.
4255. “Bệ hạ đã được thoát khỏi vòng tay của kẻ ăn thịt người, sau khi đi đến cung điện của mình, là người có sự ham muốn các dục, bệ hạ còn quay trở lại trong vòng tay của kẻ thù. Tâu bệ hạ, bệ hạ không thiện xảo về pháp của vị Sát- đế- lỵ.”
59. Thoát kẻ bạo hung nuốt thịt người,
Về cung, đầy mộng ước xinh tươi,
Sao còn nộp mạng cho cừu địch,
Ngài chắc tinh thông đạo lý trời?
4256. Ye khattadhamme kusalā bhavanti pāyena te nerayikā bhavanti, tasmā ahaṃ khattadhammaṃ pahāya saccānurakkhī punarāgatosmi yajassu yaññaṃ khāda maṃ porisāda.
4256. “Những người nào thiện xảo về pháp của vị Sát- đế- lỵ, phần đông những người ấy trở thành những kẻ sanh vào địa ngục. Vì thế, trẫm từ bỏ pháp của vị Sát- đế- lỵ. Là người gìn giữ sự chân thật, trẫm đã tự mình quay trở lại. Này kẻ ăn thịt người, hãy dâng cúng lễ tế thần, hãy ăn thịt trẫm.”
60. Ai thông đạo Khat-ti-ya vầy,
Ðều xuống ngục sâu sống đọa đày,
Ta vốn ghét căm truyền thống ấy,
Theo lời đã hứa, trở về đây.
Hãy làm tế lễ và ăn thịt
Ta trọn, Ðại vương khủng khiếp này.
4257. Pāsādavāsā paṭhavīgavāssaṃ kāmitthiyo kāsikacandanañca, sabbaṃ tahiṃ labhasi sāmitāya saccena kiṃ passasi ānisaṃsaṃ.
4257. “Với các tòa lâu đài là chỗ trú ngụ, với đất đai, bò, ngựa, với các nữ nhân là nguồn của dục vọng, với vải Kāsi, và trầm hương, bệ hạ đạt được mọi thứ ở nơi ấy với tư cách chủ nhân, bệ hạ nhìn thấy lợi ích gì với sự chân thật?”
61. Ðất rộng, cung đình, bò, ngựa, trâu,
Hương thơm, áo đẹp, lắm nàng hầu,
Ðại vương đầy đủ bao điều ấy,
Chánh pháp ngài tìm hạnh phúc đâu?4
258. Ye keci me atthi rasā pathavyā saccaṃ tesaṃ sādutaraṃ rasānaṃ, sacce ṭhitā samaṇabrāhmaṇā ca taranti jātimaraṇassa pāraṃ.
4258. “Bất cứ những hương vị nào có cho trẫm ở trên trái đất, trong số các hương vị ấy, sự chân thật là ngọt ngào hơn cả. Và đứng vững ở sự chân thật, các vị Sa-môn và Bà-la-môn vượt qua bờ kia của sanh và tử.”
62. Mọi lạc thú mà cõi thế gian
Tặng ta, chẳng có thú nào hơn
Niềm vui Chánh pháp ta tìm thấy:
Ẩn sĩ, La-môn vẫn trú an
Trong đạo Chánh chân và giải thoát
Tử sinh, bờ nọ đến an toàn.
4259. Mutto tuvaṃ porisādassa hatthā gantvā sakaṃ mandiraṃ kāmakāmī, amittahatthaṃ punarāgatosi naha nūna te maraṇabhayaṃ janinda alīnacitto casi saccavādī.
4259. “Bệ hạ đã được thoát khỏi vòng tay của kẻ ăn thịt người, sau khi đi đến cung điện của mình, là người có sự ham muốn các dục, bệ hạ còn quay trở lại trong vòng tay của kẻ thù, tâu vị chúa của loài người, chắc hẳn bệ hạ không có sự sợ hãi cái chết, và bệ hạ có tâm không nhút nhát, có lời nói chân thật.”
63. Thoát kẻ bạo hung nuốt thịt người
Về cung, tràn mộng ước xin tươi,
Sao còn trở lại thăm thù địch?
Vương tử chắc không sợ chết rồi,
Ðể giữ trọn lời ngài đã hứa,
Bỏ qua dục lạc ở trên đời.
4260. Katā me kaḷyāṇā anekarūpā yaññā yiṭṭhā ye vipulā pasatthā, visodhito paralokassa maggo dhamme ṭhito ko maraṇassa bhāye.
4260. “Các hành động tốt lành với nhiều hình thức đã được trẫm làm, các lễ tế thần đã được trẫm dâng cúng là to lớn, đã được ca ngợi, con đường đi đến thế giới khác đã được sạch sẽ, đã đứng vững ở sự chân thật, ai có thể sợ hãi đối với cái chết?
64. Ta phát nguyện làm muôn ngàn công đức,
Lễ dồi dào được danh tiếng lừng vang,
Ðến đời sau, ta giữ thẳng con đường,
Ai sợ chết khi trú an Chánh pháp?
4261. Katā me kalyāṇā anekarūpā yaññā yiṭṭhā ye vipulā pasatthā, anānutappaṃ paralokaṃ gamissaṃ yajassu yaññaṃ khāda maṃ porisāda.
65. Ta phát nguyện làm muôn ngàn công đức,
Lễ dồi dào được danh vọng vẻ vang,
Không ăn năn, ta tiến đến thiên đàng,
Hãy tế lễ và xé mồi ăn thịt.
4262. Pitā ca mātā ca upaṭṭhitā me dhammena me issariyaṃ pasatthaṃ, visodhito paralokassa maggo dhamme ṭhito ko maraṇassa bhāye.
66. Song thân, ta đã thương yêu khắng khít,
Ta được khen cai trị tuyệt công bình,
Ðến đời sau ta chọn lối quang vinh,
Ai sợ chết khi trú an Ðạo giáo?
4263. Pitā ca mātā ca upaṭṭhitā me dhammena me issariyaṃ pasatthaṃ, anānutappaṃ paralokaṃ gamissaṃ yajassu yaññaṃ khāda maṃ porisāda.
67. Song thân, ta đã phụng thờ chu đáo,
Ta được khen cai trị tuyệt công bình,
Không ăn năn, ta tiến đến thiên đình,
Hãy tế lễ và xé mồi ngon ngọt.
4264. Ñātīsu mittesu katā me kārā dhammena me issariyaṃ pasatthaṃ, visodhito paralokassa maggo dhamme ṭhito ko maraṇassa bhāye.
4265. Ñātīsu mittesu katā me kārā dhammena me issariyaṃ pasatthaṃ, anānutappaṃ paralokaṃ gamissaṃ yajassu yaññaṃ khāda maṃ porisāda.
68. Ta phục vụ đám thân bằng quyến thuộc,
Cai trị công bình được mọi người khen,
Không ăn năn, ta chọn lối thăng thiên,
Hãy tế lễ và xé mồi ăn gấp.
4266. Dinnaṃ me dānaṃ bahudhā bahunnaṃ santappitā samaṇabrāhmaṇā ca, visodhito paralokasa maggo dhamme ṭhito ko maraṇassa bhāye.
69. Biết bao người, ta cúng dường cung cấp:
Bà-la-môn, đạo sĩ, thảy hân hoan
Ðến đời sau, ta chọn lối thiên đàng,
Ai sợ chết khi trú an Chánh pháp?
4267. Dinnaṃ me dānaṃ bahudhā bahunnaṃ santappitā samaṇabrāhmaṇā ca, anānutappaṃ paralokaṃ gamissaṃ yajassu yaññaṃ khāda maṃ porisāda.
70. Biết bao người, ta cúng dường cung cấp,
Bà-la-môn, đạo sĩ, thảy hân hoan,
Không ăn năn, ta tiến tới thiên đàng,
Hãy tế lễ và xé mồi ăn thịt.
4268. Visaṃ pajānaṃ puriso adeyya āsīvisaṃ jalitaṃ uggatejaṃ, muddhāpi tassa vipateyya sattadhā yo tādisaṃ saccavādiṃ adeyya.
4268. “Giống như người nhận biết chất độc hại mà vẫn ăn vào, hoặc nhận biết con rắn độc có uy lực hung bạo tựa như ngọn lửa cháy rực, mà vẫn nắm giữ, (tương tự y như vậy) kẻ nào ăn thịt người có lời nói chân thật như bệ hạ, thậm chí cái đầu của kẻ ấy cũng có thể vỡ tan thành bảy mảnh.
71. Thuốc độc kẻ nào uống chủ tâm,
Ðộc xà hung bạo, lấy tay cầm,
Tan thành bảy mảnh ngay đầu nó,
Người chẳng dối lời, lại dám ăn!
4269. Sutvā dhammaṃ vijānanti narā kalyāṇapāpakaṃ, api gāthā suṇitvāna dhamme me ramatī mano.
72. Những người nghe giáo lý như chân,
Thiện, ác sẽ mau chóng biệt phân,
Có lẽ nếu nghe vần kệ ấy,
Tâm ta sẽ hỷ lạc vô ngần.
4270. Sakideva sutasoma sabbhi hoti samāgamo, sā naṃ saṅgati pāleti nāsabbhi bahu saṅgamo.
73. Hãy hòa hợp với Thánh hiền nhân,
Này hỡi So-ma, chỉ một lần,
Và chớ bao giờ thân kẻ ác,
Bình an tràn ngập khắp toàn thân.
4271. Sabbhireva samāsetha sabbhi kubbetha santhavaṃ, sataṃ saddhammamaññāya seyyo hoti na pāpiyo.
74. Thường xuyên giao kết với hiền nhân,
Chỉ nhận hiền nhân chính bạn thân,
Học chánh lý từ bao bậc Thánh,
Mỗi ngày tu tập tốt thêm dần.
4272. Jīranti ve rājarathā sucittā atho sarīrampi jaraṃ upeti, satañca dhammo na jaraṃ upeti
santo have sabbhi pavedayanti.
75. Như các xe vua khéo điểm trang
Cũng thành mờ nhạt, sẽ tan hoang,
Thân ta yếu đuối càng mòn mỏi,
Và phải chịu nhanh chóng lụi tàn.
Song Ðạo Thánh hiền nhân vĩnh cửu,
Chẳng hề tàn tạ với thời gian,
Thiên nhân tuyên thuyết cùng người thiện
Qua các thời chưa được bảo ban.
4273. Nabhañca dūre paṭhavī ca dūre pāraṃ samuddassa tadāhu dūre, tato have dūrataraṃ vadanti satañca dhammaṃ asatañca rāja.
76. Bầu trời giăng rộng rãi bao la,
Quả đất trải dài ở dưới ta,
Lãnh thổ bên kia bờ đại hải
Chúng ta đều biết thật là xa.
Song còn vĩ đại hơn muôn vật,
Tầm mức ấy càng tỏa rộng ra
Là Ðạo lý về điều thiện, ác
Người hiền, kẻ ác dạy cho ta.
4274. Gāthā imā atthavatī suvyañjanā subhāsitā tuyhaṃ janinda sutvā, ānandi citto sumano patīto cattāri te samma vare dadāmi.
77. Ý nghĩa chứa chan, giọng sáng trong,
Lọt tai, vương tử, các chân ngôn,
Tâm ta hoan hỷ, ta thích thú,
Muốn tặng bạn hiền bốn đặc ân.
4275. Yo nattano maraṇaṃ bujjhasi tvaṃ hitāhitaṃ vinipātañca saggaṃ, giddho rase duccarite niviṭṭho kiṃ tvaṃ varaṃ dassasi pāpadhamma.
78. Người chẳng biết gì phận bản thân,
Ðiều lành, điều ác chẳng hề phân,
Chẳng phân địa ngục cùng thiên giới,
Nô lệ cho lòng dục hám ăn,
Sao kẻ đê hèn như bạn vậy
Biết ban ân huệ đến tha nhân?
4276. Ahañca taṃ dehi varanti vajjaṃ tvañcāpi datvāna avākareyya, sandiṭṭhikaṃ kalahamimaṃ vivādaṃ ko paṇḍito jānamupabbajeyya.
79. Nếu bảo:"Cho ta ân huệ này",
Rồi ngài lấy lại lời thề ngay,
Ai khôn ngoan muốn đành lòng chịu
Liều lĩnh phân tranh vậy hỡi ngài?
4277. Na taṃ varaṃ arahati jantu dātuṃ yaṃ vāpi datvāna avākareyya, varassu samma avikampamāno pāṇaṃ cajitvānapi dassameva.
80. Chẳng ai đòi tặng một hồng ân,
Rồi lại nuốt lời hứa, giả nhân,
Bạo dạn chọn hồng ân, hỡi bạn,
Dù ta mất mạng, vẫn ban phần.
4278. Ariyassa ariyena sameti sakkhi paññassa paññāṇavatā sameti, passeyya taṃ vassasataṃ arogaṃ etaṃ varānaṃ paṭhamaṃ varāmi.
4278. “Tình thân hữu được hội tụ giữa người thánh thiện với người thánh thiện, được hội tụ giữa người có trí tuệ với người có trí tuệ, (ước gì) có thể nhìn thấy ngươi một trăm tuổi, không bệnh tật; trẫm chọn điều này là điều thứ nhất trong bốn điều ân huệ.”
81. Ai kẻ sống cùng một Thánh nhân,
Thường xuyên đối diện với đồng tâm,
Vậy là người trí luôn tin chắc
Làm đẹp ý lòng bậc trí chân
Ta nguyện cầu ngài luôn tráng kiện,
Sống lâu đến cả một trăm năm,
Ðây lời cầu nguyện đầu tiên vậy,
Ta muốn ngài ban tặng đặc ân.
4279. Ariyassa ariyena sameti sakkhi paññassa paññāṇavatā sameti, passapi maṃ vassasataṃ arogaṃ etaṃ varānaṃ paṭhamaṃ dadāmi.
4279. “Tình thân hữu được hội tụ giữa người thánh thiện với người thánh thiện, được hội tụ giữa người có trí tuệ với người có trí tuệ, bệ hạ hãy nhìn thấy ta một trăm tuổi, không bệnh tật; ta ban cho điều này là điều thứ nhất trong bốn điều ân huệ.”
82. Ai kẻ sống cùng một Thánh nhân,
Thường xuyên đối diện với đồng tâm,
Vậy là người trí luôn tin chắc
Làm đẹp ý lòng bậc trí chân.
Ngài nguyện cầu ta luôn tráng kiện
Sống lâu đến cả một trăm năm,
Trước lời cầu nguyện đầu tiên ấy
Hoan hỷ ta ban tặng đặc ân.
4280. Ye khattiyāse idha bhūmipālā muddhābhisittā katanāmadheyyā, na tādise bhūmipatī adesi etaṃ varānaṃ dutiyaṃ varāmi.
4280. “Những vị Sát-đế-lỵ nào là các bậc hộ trì lãnh thổ ở nơi này, đã được làm lễ phong vương, đã được đặt danh hiệu, ngươi chớ ăn thịt các vị lãnh chúa như thế ấy; trẫm chọn điều này là điều thứ nhì trong bốn điều ân huệ.”
83. Các vua bị bắt dưới tay ngài
Nhiều nước phong vương, quán đảnh rồi,
Những vị vua hùng trên cõi đất
Chớ nên ăn thịt, Ðại vương ôi!
Ðây là điều kế ta cầu khẩn
Như một lời nguyền ước thứ hai.
4281. Ye khattiyāse idha bhūmipālā muddhābhisittā katanāmadheyyā, na tādise bhūmipatī ademi etaṃ varānaṃ dutiyaṃ dadāmi.
4281. “Những vị Sát-đế-lỵ nào là các bậc hộ trì lãnh thổ ở nơi này, đã được làm lễ phong vương, đã được đặt danh hiệu, ta sẽ không ăn thịt các vị lãnh chúa như thế ấy; ta ban cho điều này là điều thứ nhì trong bốn điều ân huệ.”
84. Các vua bị bắt dưới tay ta
Nhiều nước phong vương, quán đảnh xưa,
Những vua hùng mạnh, ta thề nguyện,
Ta sẽ không ăn thịt nữa mà.
Ước thứ hai này ta cũng tặng
Thể theo lời bạn nguyện cầu ta.
4282. Parosataṃ khattiyā te gahītā talāvutā assumukhā rudantā, sake te raṭṭhe paṭipādayāhi etaṃ varānaṃ tatiyaṃ varāmi.
4282. “Hơn một trăm vị Sát-đế-lỵ đã bị ngươi bắt giữ, bị đâm xuyên lòng bàn tay, có khuôn mặt đẫm nước mắt, đang khóc lóc. Ngươi hãy đưa họ về lại đất nước của họ; trẫm chọn điều này là điều thứ ba trong bốn điều ân huệ.”
85. Hơn trăm vua ấy bị ngài giam
Ðều bị trói tay, lại khóc than,
Xin trả mỗi người về cố quốc,
Ðệ tam ân huệ, ước ngài ban.
4283. Parosataṃ khattiyā me gahītā talāvutā assumukhā rudantā, sakena raṭṭhena paṭipādayāmi te etaṃ varānaṃ tatiyaṃ dadāmi.
4283. “Hơn một trăm vị Sát-đế-lỵ đã bị ta bắt giữ, bị đâm xuyên lòng bàn tay, có khuôn mặt đẫm nước mắt, đang khóc lóc. Ta sẽ đưa họ về lại đất nước của họ; ta ban cho điều này là điều thứ ba trong bốn điều ân huệ.”
86. Hơn trăm vua ấy bị ta giam,
Ðều bị trói tay, lại khóc than,
Ta sẽ phục hồi về cố quốc,
Ðệ tam ân huệ được ta ban.
4284. Chiddante raṭṭhaṃ byadhitaṃ bhayāhi puthū narā leṇamanuppaviṭṭhā, manussamaṃsaṃ viramehi rāja. etaṃ varānaṃ catutthaṃ varāmi.
4284. “Đất nước của ngươi bị tan hoang, bị đè nặng bởi các nỗi sợ hãi, số đông người bỏ trốn vào hang động. Này vị chúa tể, ngươi hãy chừa bỏ thịt người trẫm chọn điều này là điều thứ tư trong bốn điều ân huệ.”
87. Vương quốc hãi kinh, hóa dại cuồng,
Trốn ngài, dân chúng ẩn trong hang,
Thịt người, Chúa thượng, xin kiêng ky,
Ấy nguyện thứ tư, ước được ban.
4285. Addhā hi so bhakkho mamaṃ manāpo etassa hetumhi vanaṃ paviṭṭho, sohaṃ kathaṃ etto upārameyyaṃ aññaṃ varānaṃ catutthaṃ varassu.
4285. “Món ăn ấy thật sự được thích ý đối với ta. Vì nguyên nhân của việc này mà ta đi vào sống trong rừng. Làm thế nào ta đây có thể kiêng cử vật này? Bệ hạ hãy chọn điều khác là điều thứ tư trong bốn điều ân huệ.”
88. Ta thấy món này, hợp vị ta,
Nếu ta ẩn náu chốn rừng già,
Làm sao lạc thú ta kiêng kỵ,
Nguyện ước thứ tư, chọn lại mà!
4286. Na ve piyaṃ meti janinda tādiso attaṃ niraṃkatvā piyāni sevati, attāva seyyo paramāva seyyo labbhā piyā ocitatthena pacchā.
4286. “Này vị chúa của loài người, người như ngươi quả thật không nên nghĩ rằng: ‘Là vật yêu quý của ta,’ rồi quên đi bản thân và phụng sự các vật yêu quý. Chính bản thân là tốt hơn, cao cả hơn vật yêu quý. Các vật yêu quý có thể đạt được sau này nhờ vào phước thiện đã được tích lũy.”
89. Vua chúa như ngài chẳng được chơi,
Hy sinh cuộc sống chỉ vì vui.
Hãy tìm ý nghĩa cao siêu nhất
Cuộc sống tặng ban quý tuyệt vời
Lạc thú vị lai đời kế tiếp
Rồi ngài hưởng phước đức này thôi.
4287. Piyaṃ me mānusaṃ maṃsaṃ sutasoma vijānahi, namhi sakko nivāretuṃ aññaṃ tuvaṃ samma varaṃ varassu.
90. Ngài biết ta yêu thích thịt người,
Su-ta Ðại Sĩ, thế này thôi,
Ta không bỏ nó bao giờ nữa,
Suy nghĩ, chọn điều khác, bạn ôi!
4288. Yo ve piyaṃ meti piyānukaṅkhī attaṃ niraṃkatvā piyāni sevati, soṇḍova pītvāna visassa thālaṃ teneva so hoti dukhī parattha.
91. Người nào luôn hưởng thú vui chơi,
Hủy diệt cuộc đời để được vui,
Như kẻ say dùng liều thuốc độc,
Về sau phải chịu khổ không nguôi.
4289. Yo cīdha saṅkhāya piyāni hitvā kicchenapi sevati ariyadhammaṃ, dukkhitova pītvāna yathosadhāni teneva so hoti sukhī parattha.
4289. Và người nào, sau khi suy xét về điều này, rồi từ bỏ các vật yêu quý, và còn phụng sự Thánh pháp bằng những việc cần phải làm, tựa như người bị khổ đau đã được uống các loại thuốc chữa bệnh, chính vì điều ấy, kẻ ấy được an lạc vào thời gian sau đó.”
92. Người quyết tâm chừa lạc thú đời,
Con đường phận sự khó theo hoài,
Như người đau uống liều điều trị,
Sống lại đời sau cực lạc thôi.
4290. Ohāyahaṃ pitaraṃ mātarañca manāpike kāmaguṇe ca pañca, etassa hetumhi vanaṃ paviṭṭho tante varaṃ kintimahaṃ dadāmi.
4290. “Sau khi bỏ bê người cha và người mẹ, và năm loại dục làm cho thích thú, vì nguyên nhân của việc này mà ta đi vào sống trong rừng, làm thế nào ta lại ban cho bệ hạ ân huệ ấy?”
93. Ngũ lạc phát sinh tự giác quan,
Ta đều từ bỏ cả song thân,
Ta vào rừng ở vì nhân ấy,
Lời bạn ước sao có thể ban?
4291. Na paṇḍitā dviguṇaṃ āhu vākyaṃ saccappaṭiññāva bhavanti santo, varassu samma iti maṃ avoca iccabravī tvaṃ na hi te sameti.
4291. “Các bậc sáng suốt đã không nói lời nói theo hai cách, các bậc thiện nhân có lời hứa hẹn với sự chân thật. Ngươi đã nói với trẫm rằng: ‘Này bạn tốt, bệ hạ hãy chọn lấy,’ ngươi đã nói như thế, nhưng lời nói không đồng hành với ngươi.”
94. Trí nhân không thể nói hai lời,
Ta biết thiện nhân đúng ước thôi:
"Hiền hữu chọn đi vài nguyện ước"
Là điều ngài đã bảo ta rồi,
Giờ đây những chuyện ngài đang nói
Khó hợp điều này, Chúa thượng ôi!
4292. Apuññalābhaṃ ayasaṃ akittiṃ pāpaṃ bahuṃ duccaritaṃ kilesaṃ, manussamaṃsassa kate upāgā tante varaṃ kintimahaṃ dadeyyaṃ.
4292. “Sự nhận lãnh điều vô phước, sự mất danh vọng, mất tiếng tăm, điều tội lỗi, nhiều việc làm xấu xa, sự ô uế, vì nguyên nhân thịt người, ta đã đi đến (tình trạng như thế), làm thế nào ta có thể ban cho bệ hạ ân huệ ấy?”
95. Tổn đức, ô danh, khổ nhục tràn,
Tham lam, tà hạnh, tội muôn vàn,
Ta đều phạm, để ăn đồng loại,
Lời bạn ước, sao ta phải ban?
4293. Na taṃ varaṃ arahati jantu dātuṃ yaṃ vāpi datvāna avākareyya, varassu samma avikampamāno pāṇaṃ cajitvānapi dassameva.
96. "Không ai đòi tự nguyện ban ân,
Rồi lấy lại lời, kẻ giả nhân,
Bạo dạn chọn ân này, bạn hỡi,
Dù ta mất mạng, cũng ban phần.
4294. Pāṇaṃ cajanti santo nāpi dhammaṃ saccappaṭiññā ca bhavanti santo, datvā varaṃ khippamavākarohi etena sampajja surājaseṭṭha.
4294. Các bậc thiện nhân buông bỏ mạng sống, chứ thiện pháp thì không, các bậc thiện nhân có lời hứa hẹn với sự chân thật. sau khi ban cho điều ân huệ, ngươi hãy mau chóng thực thi, này chúa thượng tốt lành, ngươi hãy hoàn thành điều này.
97. Thiện nhân đành mất cả dòng đời
Song giữ lời xưa, dẫu thiệt thòi,
Chúa thượng, nếu ngài ban ước nguyện,
Làm ngay chuyện ấy trọn công ngài.
4295. Dhanaṃ caje yo pana aṅgahetu aṅgaṃ caje jīvitaṃ rakkhamāno, aṅgaṃ dhanaṃ jīvitaṃ cāpi sabbaṃ caje naro dhammamanussaranto.
4295. Hơn nữa, người nào từ bỏ tài sản vì lý do (bảo vệ) tay chân, thì nên từ bỏ tay chân trong khi bảo vệ mạng sống, trong khi suy niệm về thiện pháp, người ấy nên từ bỏ tay chân, tài sản, và mạng sống, thậm chí tất cả.
98. Ai đem tài sản cứu tay chân,
Sẽ bỏ tay chân cứu lấy thân,
Tài sản, tứ chi, thân sẽ mất,
Chỉ còn Chân lý khẩn cầu ân.
4296. Yassā hi dhammaṃ puriso vijaññā ye cassa kaṅkhaṃ vinayanti santo, taṃ hissa dīpañca parāyaṇañca na tena mittiṃ jarayetha pañño.
4296. Nhờ vào vị nào mà một người có thể nhận thức được lẽ phải, và các bậc thiện nhân dẹp bỏ mối nghi ngờ đối với người này, chính vị ấy là hòn đảo và là nơi nương tựa của người này; người có sự hiểu biết không nên hủy hoại tình bạn với vị ấy.”
99. Miệng kẻ nào minh chứng Thật chân,
Ðoạn nghi nhờ các bậc hiền nhân,
Kẻ ấy chính là nơi ẩn trú,
Chính là điểm tựa, chốn nương thân.
Lòng hiền nhân mến thương người ấy
Sẽ chẳng bao giờ phải diệt vong.
4297. Addhā hi so bhakkho mamaṃ manāpo etassa hetumhi vanaṃ paviṭṭho, saceva maṃ yācasi etamatthaṃ etampi te samma varaṃ dadāmi.
100. Thực phẩm ngọt ngon, thú vị thay,
Vì duyên cớ ấy, ẩn rừng cây,
Nhưng nay bạn bảo ta làm vậy,
Ta tặng bạn - thầy ân huệ đây.
4298. Satthā ca me hosi sakhā ca mesi vacanampi te samma ahaṃ akāsiṃ, tuvampi me samma karohi vākyaṃ ubhopi gantvāna pamocayāma.
101. Ngài là thầy giáo của riêng ta,
Cùng với bạn thân, chỉ một mà.
Hãy ngắm, thưa ngài, lời bạn bảo
Ta vừa mới thực hiện bây giờ.
Lượt ngài thực hiện lời ta bảo:
Ta sẽ đi cùng thả các vua.
4299. Satthā ca te homi sakhā ca tyamhi vacanampi me samma tuvaṃ akāsi, ahampi te samma karomi vākyaṃ ubhopi gantvāna pamocayāma.
102. Ta là thầy giáo của ngày xưa
Cùng với bạn thân, chỉ một mà.
Quả thật, thưa ngài, lời dạy bảo
Ngài vừa mới thực hiện bây giờ.
Lượt ta thực hiện lời ngài bảo:
Ta sẽ cùng đi thả các vua.
4300. Kammāsapādena viheṭhitattha talāvutā assumukhā rudantā, na jātu dubbhetha imassa rañño saccappaṭiññaṃ me paṭissuṇātha.
4300. “Do vị Kammāsapāda (này), các ngài đã bị quấy nhiễu, bị đâm xuyên lòng bàn tay, có khuôn mặt đẫm nước mắt, đang khóc lóc. các ngài dứt khoát không được gây hấn với vị chúa tể này, Các ngài hãy tuyên bố với trẫm lời hứa hẹn với sự chân thật.”
103. Các ngài bị trói trên cây này,
Nước mắt chảy tuôn đã ngập đầy,
Vì ác quỷ này làm hại vậy,
Song ta vẫn muốn các ngài hay
Một lời ước hẹn cùng vua ấy
Chẳng có bao giờ đụng ngón tay.
4301. Kammāsapādena viheṭhitamhā talāvutā assumukhā rudantā, na jātu dubbhema imassa rañño saccappaṭiññante paṭissuṇāma.
4301. “Do vị Kammāsapāda (này), chúng tôi đã bị quấy nhiễu, bị đâm xuyên lòng bàn tay, có khuôn mặt đẫm nước mắt, đang khóc lóc. Chúng tôi dứt khoát không gây hấn với vị chúa tể này. Chúng tôi tuyên bố với bệ hạ lời hứa hẹn với sự chân thật.”
104. Khóc than vì bị trói trên cây,
Ác quỷ hại người, đáng ghét thay,
Tuy thế, chúng ta long trọng hứa:
Nếu còn sống, chẳng hại người này.
4302. Yathā pitā vā athavāpi mātā anukampakā atthakāmā pajānaṃ, evameva vo hotu ayañca rājā tumhe ca vo hotha yatheva puttā.
4302. “Giống như người cha, hoặc thậm chí là người mẹ, là bậc có lòng thương tưởng, mong mỏi điều lợi ích cho các con, vị chúa tể này hãy tỏ ra tương tự y như vậy đối với các ngài, và các ngài hãy tỏ ra giống y như những người con.”
105. Như với bầy con, bậc mẹ cha
Tỏ tình yêu thắm thiết, bao la,
Ước mong vua ấy luôn minh chứng
Là một người cha đúng nghĩa mà.
Mong ước các ngài như lũ trẻ
Thương yêu vua ấy thật sâu xa.
4303. Yathā pitā vā athavāpi mātā anukampakā atthakāmā pajānaṃ, evameva no hotu ayañca rājā mayampi hessāma yatheva puttā.
4303. “Giống như người cha, hoặc thậm chí là người mẹ, là bậc có lòng thương tưởng, mong mỏi điều lợi ích cho các con, vị chúa tể này hãy tỏ ra tương tự y như vậy đối với chúng tôi, và chúng tôi cũng sẽ tỏ ra giống y như là những người con.”
106. Như với bầy con, bậc mẹ cha
Tỏ tình yêu thắm thiết, bao la,
Ước mong vua ấy luôn minh chứng
Là một người cha đúng nghĩa mà.
Mong ước chúng ta như lũ trẻ
Thương yêu vua ấy thật sâu xa.
4304. Catuppadaṃ sakuṇañcāpi maṃsaṃ sūdehi randhaṃ sukataṃ suniṭṭhitaṃ, sudhaṃva indo paribhuñjiyāna hitvā katheko ramasī araññe.
107. Thú vật, chim muông, đủ mọi nơi,
Ngày xưa thịt của chúng ngài xơi
Do đầu bếp khéo tài đun nấu,
Thật đúng cao lương vị tuyệt vời
Tạo nỗi hân hoan như Đế Thích
Hưởng bao tiên thực ở trên trời.
Tại sao ngài bỏ rơi tất cả,
Tìm lạc thú rừng vắng lẻ loi?
4305. Tā khattiyā vellivilākamajjhā alaṅkatā samparivārayitvā, indaṃva devesu pamodayiṃsu hitvā katheko ramasī araññe.
108. Cung nữ cao sang, dáng mảnh mai,
Xiêm y lộng lẫy khoác hình hài,
Chung quanh Chúa thượng ngày xưa ấy,
Cả đám vây quanh chật ních người,
Như Ðế Thích trong Thiên chúng nọ,
Ngài đi, lòng hạnh phúc vui tươi,
Sao ngài lìa bỏ đời như vậy,
Tìm lạc thú rừng vắng lẻ loi?
4306. Tambūpadhāne bahugoṇakamhi sucimhi sabbassayanamhi saññate, sayanassa majjhamhi sukhaṃ sayitvā hitvā katheko ramasī araññe.
109. Giữa vương sàng rộng rãi mênh mông,
Ngài ngự, ngày xưa, hỡi Chúa công,
Nhiều lớp chăn màn lông thú quý,
Chất lên cao phủ cả mình rồng,
Dưới đầu ngài gối màu hồng thắm,
Giường nệm sạch tinh, trắng tựa bông,
Sao lại giã từ tất cả vậy,
Tìm vui đơn độc ở trong rừng?
4307. Pāṇissaraṃ kumbhathūnaṃ nisīthe athopi ve nippurisampi turiyaṃ, bahuṃ sugītañca suvāditañca hitvā katheko ramasī araññe.
4307. Rồi tiếng âm nhạc, tiếng trống vào lúc nửa đêm thêm vào dàn nhạc hòa tấu không có nam nhân, với nhiều bài ca hay và điệu tấu nhạc khéo léo, tại sao một người (như ngươi) lại từ bỏ và thích thú ở trong rừng?
110. Nơi kia nhiều lúc giữa đêm thanh,
Ngài vẫn thường nghe tiếng trống canh,
Và những âm thanh siêu thế tục
Vẫn thường vang dội đến tai mình,
Lời ca, tiếng nhạc đồng hòa điệu,
Khơi dậy tâm tư rộn rã tình.
Sao lại giã từ tất cả vậy,
Tìm vui đơn độc giữa rừng xanh
4308. Uyyānasampannaṃ pahūtamālyaṃ migācirūpena puraṃ surammaṃ, hayehi nāgehi rathehupetaṃ hitvā katheko ramasī araññe.
111. Ngài có hoa viên đẹp đắm say,
Nơi kia phong phú cỏ hoa đầy,
Mi-gà vốn đã từng danh tiếng
Là chốn ngự viên, đô thị này,
Xa pháo dập dìu vô số kể,
Ngựa, voi lũ lượt đứng từng bầy,
Sao ngài lại bỏ rơi tất cả,
Tìm thú rừng hoang cô độc vầy.
4309. Kāḷapakkhe yathā cando hāyateva suve suve, kāḷapakkhūpamo rāja asataṃ hoti samāgamo.
4309. “Giống như vào nửa tháng thuộc hạ huyền, mặt trăng bị khuyết dần từng ngày một, tâu bệ hạ, việc gặp gỡ với những kẻ xấu là tương tự như nửa tháng thuộc hạ huyền.
112. Giống như trong nửa tháng đêm đen,
Mặt nguyệt mỗi ngày một khuyết thêm,
Cũng vậy kết giao cùng kẻ ác
Chịu bao hủy hoại, hỡi vua hiền!
4310. Yathā rasakamāgamma sūdakaṃ purisādhamaṃ, akāsiṃ pāpakaṃ kammaṃ yena gacchāmi duggatiṃ.
4310. Giống như sau khi đi đến với gã đầu bếp, kẻ nấu ăn, hạng người hạ liệt, ta đã tạo ra nghiệp ác, vì việc ấy ta sẽ đi đến cảnh giới khổ đau.
113. Như ta kết bạn hỏa đầu quân,
Kẻ tối liệt trong bọn hạ tầng,
Ta đã phạm vào bao ác nghiệp
Kịp thời xuống địa ngục đày thân.
4311. Sukkapakkhe yathā cando vaḍḍhateva suve suve, sukkapakkhūpamo rāja sataṃ hoti samāgamo.
4311. Giống như vào nửa tháng thuộc thượng huyền, mặt trăng tăng trưởng từng ngày một, tâu bệ hạ, việc gặp gỡ với những người tốt là tương tự như nửa tháng thuộc thượng huyền.
114. Ví như trong nửa tháng trời quang,
Mặt nguyệt ngày thêm một sáng dần,
Cũng vậy, kết giao cùng bậc thiện,
Ðại vương ôi, sẽ chẳng suy tàn.
4312. Yathāhaṃ tava māgamma sutasoma vijānahi, kāhāmi kusalaṃ kammaṃ yena gacchāmi suggatiṃ.
4312. Giống như ta sau khi đi đến với bệ hạ, thưa ngài Sutasoma, bệ hạ hãy nhận biết rằng ta sẽ tạo ra nghiệp thiện, nhờ thế ta sẽ đi đến cảnh giới an vui.
115. Như với bạn, ta được kết đôi,
Này Su-ta, phải biết ngay thôi:
Sau khi thành tựu điều chân chánh,
Tất cả an vui đến cõi trời.
4313. Thale yathā vāri janinda vaṭṭaṃ anaddhaneyyaṃ aciraṭṭhitīkaṃ, evampi ce hoti asataṃ samāgamo anaddhaneyyo udakaṃ thaleva.
4313. Giống như nước luân chuyển ở đất gò, tâu vị chúa của loài người, không thể duy trì thời gian dài, không tồn tại lâu, cũng như vậy, nếu là việc gặp gỡ với những kẻ xấu, thì không thể duy trì thời gian dài, tựa như nước ở đất gò.
116. Như lũ lụt tràn mặt đất khô,
Thấy thường tạm bợ, chóng trôi qua,
Cũng vầy kết bạn cùng người ác
Là việc phù du, nước nổi mà.
4314. Sare yathā vāri janinda vaṭṭaṃ ciraṭṭhitīkaṃ naraviriyaseṭṭha, evampi ve hoti sataṃ samāgamo ciraṭṭhitīko udakaṃ sareva.
4314. Giống như nước luân chuyển ở trong hồ, tâu vị chúa của loài người, được tồn tại lâu dài, tâu vị tinh tấn hạng nhất của loài người, cũng như vậy, nếu là việc gặp gỡ với những người tốt, thì được tồn tại lâu dài, tựa như nước ở trong hồ
117. Song nước lụt tràn khắp hải dương
Thấy bền lâu ấy chuyện bình thường
Cũng như giao kết cùng người thiện,
Là chuyện lâu dài, hỡi Ðại vương.
4315. Avyāyiko hoti sataṃ samāgamo yāvampi tiṭṭheyya tatheva hoti, khippaṃ hi veti asataṃ samāgamo tasmā sataṃ dhammo asabbhi ārakā.
4315. Việc gặp gỡ với những người tốt là không bị hư hoại, có thể tồn tại cho đến hết mạng sống, và giữ nguyên như thế. Còn việc gặp gỡ với những kẻ xấu tàn tạ thật nhanh chóng, vì thế, bản chất của những người tốt là xa lạ với những kẻ xấu.”
118. Giao kết thiện nhân chẳng chóng qua,
Tình huynh đệ vững suốt đời ta,
Kết giao kẻ ác mau tàn lụi,
Kẻ ác thường đi lạc hướng tà.
4316. Na so rājā yo ajeyyaṃ jināti na so sakhā yo sakhāraṃ jināti, na sā bhariyā yā patino vibheti na te puttā ye na bharanti jiṇṇaṃ.
119. Không vua nào được quyền chinh phục
Người chẳng nên xâm phạm suốt đời;
Không bạn nào nên lừa dối bạn
Bằng hành vi bội bạc tình người.
120. Nàng nào có ý sợ phu quân,
Ta bảo chẳng là vợ chánh chân;
Khi phụ thân già không cấp dưỡng,
Làm con chẳng đúng với danh xưng.
4317. Na sā sabhā yattha na santi santo santo na te ye na bhananti dhammaṃ, rāgañca dosañca pahāya mohaṃ dhammaṃ bhaṇantova bhananti santo.
121. Chẳng phải là nơi chốn hội trường,
Nếu hiền nhân chẳng vãng lai luôn,
Những ai không giảng bày Chân lý
Rộng khắp, chẳng là bậc trí nhân.
122. Những bậc ly tham dục, hận sân,
Si mê, là những Thánh hiền nhân
Chẳng hề quên giảng bày Chân lý
Cho các thế nhân khắp mọi vùng.
4318. Na bhāsamānaṃ jānanti missaṃ bālehi paṇḍitaṃ, bhāsamānañca jānanti desentaṃ amataṃ padaṃ.
4318. Người ta không biết về vị không nói, (vì thế) bậc sáng suốt bị lẫn lộn với những kẻ ngu dốt; và người ta biết được vị đang nói, đang thuyết giảng về vị thế Bất Tử.
123. Bậc hiền ở giữa đám ngu đần,
Nếu lặng thinh, ai biết trí nhân,
Vị ấy nói lên thì tất cả
Nhận ra Thầy dạy Pháp như chân.
4319. Bhāsaye jotaye dhammaṃ paggaṇhe isinaṃ dhajaṃ, subhāsitaddhajā isayo dhammo hi isinaṃ dhajo ”ti.
4319. Vị có thể giảng giải, có thể làm rõ giáo pháp, có thể giương lên ngọn cờ của các bậc ẩn sĩ. Các bậc ẩn sĩ có thiện ngôn là ngọn cờ, chính giáo pháp là ngọn cờ của các bậc ẩn sĩ.”
124. Thuyết giảng, tôn vinh Pháp chánh chân,
Giương cao cờ hiệu của hiền nhân,
Thánh nhân biểu tượng là lời thiện,
Ngài phất ngọn cờ Chánh pháp luôn.
Mahāsutasomajātakaṃ.
*****
Đại Bổn Sanh Sutasoma. [537]
*****
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada