4016. Neva kiṇāmi napi vikkiṇāmi na cāpi me sannicayo ca atthi, sukiccharūpaṃ catidaṃ parittaṃ patthodano nālamayaṃ duvinnaṃ.
1. Ta không phải kẻ bán buôn rong,
Không của cho vay hoặc biếu không,
Chút cháo thí này rất khó kiếm,
Chẳng vừa dọn đủ cả ta, ông!
4017. Appamhā appakaṃ dajjā anumajjhato majjhakaṃ, bahumhā bahukaṃ dajjā adānaṃ nūpapajjati.
2. Của ít cũng nên bố thí mà,
Của vừa cũng phải lấy cho vừa,
Của nhiều càng phải cho nhiều nữa,
Không thí, vấn đề chẳng đặt ra.
4018. Taṃ taṃ vadāmi kosiya dehi dānāni bhuñja ca, ariyaṃ maggaṃ samārūha nekāsī labhate sukhaṃ.
4018. Này Kosiya, ta nói điều ấy với ông. Ông hãy bố thí các vật thí và ông hãy hưởng thụ. Ông hãy bước lên đạo lộ cao thượng. Kẻ ăn một mình không đạt được hạnh phúc.”
3. Ko-si, ta nói một đôi lời:
Bố thí của ông một chút thôi,
Ông chớ một mình ăn thực phẩm,
Ăn riêng chẳng hưởng lạc cao vời,
Chính nhờ bố thí, ông thăng tiến
Đạo lộ thanh cao đến cõi trời.
4019. Moghañcassa hutaṃ hoti moghañcāpi samīhitaṃ, atithismiṃ yo nisinnasmiṃ eko bhuñjati bhojanaṃ.
4019. “Kẻ nào một mình thọ dụng bữa ăn trong khi khách ngồi (xơi nước), việc cúng tế của kẻ này là rỗng không, việc gắng sức (tạo lập tài sản) cũng là rỗng không.
4. Nào có ích chi lễ tế thần,
Hoài công ước vọng ở trong tâm,
Nếu ông ăn cháo và không muốn
Cho thực khách đây một ít phần.
4020. Taṃ taṃ vadāmi kosiya dehi dānāni bhuñja ca, ariyaṃ maggaṃ samārūha nekāsī labhate sukhaṃ.
4020. Này Kosiya, ta nói điều ấy với ông. Ông hãy bố thí các vật thí và ông hãy hưởng thụ. Ông hãy bước lên đạo lộ cao thượng. Kẻ ăn một mình không đạt được hạnh phúc.”
5. Ko-si, ta nói một đôi lời:
Bố thí của ông một chút thôi,
Ông chớ một mình ăn thực phẩm
Ăn riêng chẳng hưởng lạc cao vời,
Chính nhờ bố thí, ông thăng tiến
Đạo lộ thanh cao đến cõi trời.
4021. Saccaṃ tassa hutaṃ hoti saccañcāpi samīhitaṃ, atithismiṃ yo nisinnasmiṃ neko bhuñjati bhojanaṃ.
4021. “Người nào không một mình thọ dụng bữa ăn trong khi khách ngồi (xơi nước), việc cúng tế của người ấy là chân thật, việc gắng sức (tạo lập tài sản) cũng là chân thật.
6. Chân thật ông dâng lễ tế thần,
Chẳng hoài công ước nguyện trong tâm,
Nếu ông không một mình ăn cháo,
Mà biếu khách đây một ít phần.
4022. Taṃ taṃ vadāmi kosiya dehi dānāni bhuñja ca, ariyaṃ maggaṃ samārūha nekāsī labhate sukhaṃ.
4022. Này Kosiya, ta nói điều ấy với ông. Ông hãy bố thí các vật thí và ông hãy hưởng thụ. Ông hãy bước lên đạo lộ cao thượng. Kẻ ăn một mình không đạt được hạnh phúc.”
7. Ko-si, ta nói một đôi lời:
Bố thí của ông một chút thôi,
Ông chớ một mình ăn thực phẩm,
Ăn riêng chẳng hưởng lạc cao vời,
Chính nhờ bố thí, ông thăng tiến
Đạo lộ thanh cao đến cõi trời.
4023. Sarañca juhati yo so bahukāya gayāya ca, doṇe timbarutitthasmiṃ sīghasote mahāvahe.
8. Hồ, lạch Ga-yà chảy xiết dòng,
Ai đem dâng lễ cúng chư thần,
Đến Tim-ba hoặc Do-na ấy
Sóng nước trôi nhanh lớp chập chùng,
4024. Atra cassa hutaṃ hoti atra cassa samīhitaṃ atithismiṃ yo nisinnasmiṃ neko bhuñjati bhojanaṃ.
4024. Người nào không một mình thọ dụng bữa ăn trong khi khách ngồi (xơi nước), việc cúng tế của người này là có kết quả, việc gắng sức (tạo lập tài sản) là có kết quả.
Hưởng kết quả do dâng lễ vật,
Đạt thành ước nguyện ở trong lòng,
Nếu không ngồi một mình ăn cháo,
Mà biếu khách đây một ít phần.
4025. Taṃ taṃ vadāmi kosiya dehi dānāni bhuñja ca, ariyaṃ maggaṃ samārūha nekāsī labhate sukhaṃ.
4025. Này Kosiya, ta nói điều ấy với ông. Ông hãy bố thí các vật thí và ông hãy hưởng thụ. Ông hãy bước lên đạo lộ cao thượng. Kẻ ăn một mình không đạt được hạnh phúc.”
9. Ko-si, ta nói một đôi lời:
Bố thí của ông một chút thôi,
Ông chớ một mình ăn thực phẩm,
Ăn riêng chẳng hưởng lạc cao vời,
Chính nhờ bố thí, ông thăng tiến
Đạo lộ thanh cao đến cõi trời.
4026. Balisaṃ hi so niggilati dīghasuttaṃ sabandhanaṃ, atithismiṃ yo nisinnasmiṃ eko bhuñjati bhojanaṃ.
4026. “Kẻ nào một mình thọ dụng bữa ăn trong khi khách ngồi (xơi nước), kẻ ấy nuốt vào chính cái lưỡi câu có sợi cước dài, có sự trói buộc.
10. Như cá tham ăn vội nuốt mau
Miếng mồi buộc ở chiếc cần câu,
Người ngồi riêng biệt và ăn cháo
Khi có khách này kế cận sao?
4027. Taṃ taṃ vadāmi kosiya dehi dānāni bhuñja ca, ariyaṃ maggaṃ samārūha nekāsī labhate sukhaṃ.
4027. Này Kosiya, ta nói điều ấy với ông. Ông hãy bố thí các vật thí và ông hãy hưởng thụ. Ông hãy bước lên đạo lộ cao thượng. Kẻ ăn một mình không đạt được hạnh phúc.”
11. Ko-si, ta nói một đôi lời:
Bố thí của ông một chút thôi,
Ông chớ một mình ăn thực phẩm,
Ăn riêng chẳng hưởng lạc cao vời,
Chính nhờ bố thí, ông thăng tiến
Đạo lộ thanh cao đến cõi trời.
4028. Uḷāravaṇṇā vata brāhmaṇā ime ayañca vo sunakho kissa hetu, uccāvacaṃ vaṇṇanibhaṃ vikubbati akkhātha no brāhmaṇā kenu tumhe.
4028. Các vị Bà-la-môn này quả thật có giai cấp cao quý. Và đây là con chó của các vị, nguyên nhân là thế nào? Nó biến hóa thành cao, thấp, có màu sắc và ánh sáng. Thưa các vị Bà-la-môn, các vị hãy giải thích cho chúng tôi các vị là ai?”
12. Các ngài Thánh giả Bà-la-môn
Đang đứng trên cao giữa cõi không,
Con chó các ngài sao lạ vậy
Thay hình đổi dạng cả ngàn lần,
Dầu là chỉ một mình con chó,
Các vị là ai, nói thật chân.
4029. Cando ca suriyo ca ubho idhāgatā ayaṃ pana mātali devasārathi, sakkohamasmi tidasānamindo eso ca kho pañcasikhoti vuccati.
13. Kìa! Can-da với Su-ri-ya,
Và nọ, Mà-ta-li quản xa,
Thiên chủ là ta đây, Đế Thích
Ở trên Thiên giới Ba-mươi ba,
Pañ-ca-si chính là Thần nhạc
Ngũ Kế đuổi ngươi chạy đấy mà.
4030. Pāṇissarā mutiṅgā ca murajāḷambarāni ca, suttamenaṃ pabodhenti paṭibuddho ca nandati.
14. Trống to, trống nhỏ thảy vang lừng
Đánh thức thần dây khỏi giấc nồng,
Khi tỉnh, nhạc hân hoan trổi khúc
Làm tim chàng rộn rã vui mừng.
4031. Ye kecime maccharino kadariyā paribhāsakā samaṇabrāhmaṇānaṃ, idheva nikkhippa sarīradehaṃ kāyassa bhedā nirayaṃ vajanti.
15. Sinh ra keo kiệt, kẻ xan tham
Khinh bỉ Bà-la-môn, đạo nhân,
Khi chết, bỏ thân phàm tục ấy,
Phải vào địa ngục trú thân tàn.
4032. Ye kecime suggatimāsasānā dhamme ṭhitā saṃyame saṃvibhāge, idheva nikkhippa sarīradehaṃ kāyassa bhedā sugatiṃ vajanti.
16. Kiên trì chánh hạnh, đạt thiên đàng,
Bố thí, điền thân, tránh lỗi lầm,
Khi chết, bỏ thân phàm tục ấy,
Sẽ lên thiên giới sống bình an.
4033. Tvaṃ no ñāti purimāsu jātisu so maccharī rosako pāpadhammo, taveva atthāya idhāgatamhā mā pāpadhammo nirayaṃ apattha.
17. Dù trong đời trước có thân tình,
Ngươi hận sân, keo kiệt, ác hành,
Nên chính vì ngươi, ta giáng thế,
Ngăn ngươi khỏi địa ngục lai sinh.
4034. Addhā hi maṃ vo hitakāmā yaṃ maṃ samanusāsatha, sohaṃ tathā karissāmi sabbaṃ vuttaṃ hitesibhi.
18. Như vầy ngài thuyết giảng cho ta,
Chắc chắn ngài mong lợi lạc mà,
Ta sẽ theo lời ngài khuyến giáo,
Như ta hiểu được ý sâu xa.
4035. Esāhamajjeva upāramāmi na cāpahaṃ kiñci kareyya pāpaṃ, na cāpi me kiñci adeyyamatthi na cāpi datvā udakampahaṃ pibe.
19. Từ nay ta bỏ thói xan tham,
Kiêng kỵ việc hung ác bạo tàn,
Bố thí gia tài, cho tất cả,
Dù là chén nước cũng chia phần.
4036. Evañca me dadato sabbakālaṃ bhogā ime vāsava khīyissanti, tato ahaṃ pabbajissāmi sakka hitvāna kāmāni yathodhikāni.
20. Sak-ka, bố thí mãi như vầy,
Tài sản nhà ta giảm sút ngay,
Ta quyết sẽ tu hành xuất thế,
Tham dục loại nào cũng chạy bay.
4037. Naguttame girivare gandhamādane modanti tā devavarābhipālitā, athāgamā isivaro sabbalokagū supupphitaṃ dumavarasākhamādiya.
4037. Ở trên đỉnh núi, ở ngọn núi cao quý Gandhamādana, các nàng tiên nữ ấy vui sướng, được Thiên Chủ Sakka bảo vệ. Rồi vị ẩn sĩ cao quý, bậc thông hiểu tất cả thế gian, đã đi đến, cầm theo cành cây cao quý khéo trổ đầy hoa.
21. Trên đỉnh Hương Sơn, chúa núi rừng,
Sak-ka ái nữ, các tiên nương
Hân hoan nhìn Thánh nhân lừng lẫy,
Bước đến cầm hoa đẹp dị thường.
4038. Suciṃ sugandhaṃ tidasehi sakkataṃ pupphuttamaṃ amaravarehi sevitaṃ, aladdha maccehi vā dānavehi vā aññatra devehi tadārahaṃ hidaṃ.
22. Cành hoa trong sáng ngát mùi hương
Xứng với Thiên tiên, các Thánh thần,
Chẳng quỷ ma hay người thế tục
Dám đòi hoa quý giá vô ngần.
4039. Tato catasso kanakattacūpamā uṭṭhāya nāriyo pamadādhipā muniṃ, āsā ca saddhā ca tato sirī hirī iccabravuṃ nārada devabrāhmaṇaṃ.
23. Tín Thành, Hy Vọng, với Vinh Quang,
Danh Dự, màu da sáng tựa vàng
Giữa các tiên nương là tuyệt sắc,
Đứng lên nói với Bà-la-môn:
4040. Sace anuddiṭṭhaṃ tayā mahāmuni pupphaṃ imaṃ pārichattassa brahme, dadāhi no sabbagati te ijjhatu tvampi no hohi yatheva vāsavo.
24. Cho đóa san hô, hỡi Thánh nhân,
Nếu cho hoa ấy thuộc oai thần,
Chúng con kính lễ như Thiên chủ,
Ngài sẽ được ban mọi phước phần.
4041. Taṃ yācamānābhisamekkha nārado iccabravī saṅkalahaṃ udīrayi, na mayhamatthatthi imehi koci naṃ yā yeva vo seyyasī sā piḷayhatha.
25. Na-ra-da thấy chúng mong cầu
Liền khởi ngay tranh chấp lớn lao:
- Ta chẳng cần hoa, ai muốn được,
Phải là vương hậu các nàng bầu.
4042. Tvaṃ nottamovābhisamekkha nārada, yassicchasi tassaṃ anuppavecchasu, yassā hi no nārada tvaṃ padassasi sā yeva no hohiti seṭṭhasammatā.
26. Nà-ra-da, tối thượng là ngài,
Ngài muốn ban ai ước nguyện này,
Ai được ngài ban quà tặng ấy
Sẽ là tiên đẹp nhất trong bầy!
4043. Akallametaṃ vacanaṃ sugatte ko brāhmaṇo ko kalahaṃ udīraye, gantvāna bhūtādhipameva pucchatha sace na jānātha idhuttamādhamaṃ.
27. Tiên nương, lời ấy chẳng như chân,
Tu hành nào dấy cuộc tranh phân?
Hãy tìm lập tức ngài Tiên chúa,
Sẽ biết ai dung sắc tuyệt trần.
4044. Tā nāradena paramappakopitā udīritā vaṇṇamadena mattā, sakāse gantvāna sahassacakkhuno pucchiṃsu bhūtādhipaṃ kā nu seyyasi.
28. Kiêu ngạo về sắc đẹp, phát cuồng,
Nóng lòng vì bậc trí tinh khôn,
Chúng đi đến Sak-ka Thiên chủ
Để biết ai xinh đẹp nhất đàn.
4045. Tā disvā āyattamanā purindado iccabravī devavaro katañjalī, sabbāva vo hotha sugatte sādisī ko neva bhadde kalahaṃ udīrayi.
29. Bầy tiên hăm hở vội đi tìm,
Đế Thích đầy tôn trọng, phán liền:
"Tất cả tiên nương đều tuyệt sắc
Vậy ai phá hoại sự bình yên?" .
4046. Yo sabbalokaṃ carako mahāmuni dhamme ṭhito nārado saccanikkamo, so no bravī girivare gandhamādane gantvāna bhūtādhipameva pucchatha sace na jānātha idhuttamādhamaṃ.
30. Nà-ra-da, bậc đại hiền nhân
Nhẹ bước du hành giữa cõi không,
Chân lý uyên thâm, chuyên chánh hạnh,
Như vấy, đã nói ở Hương Sơn:
"Hãy tìm Thiên chủ Sak-ka ấy
Để biết ai ưu, liệt giữa đàn".
4047. Asu brahāraññacaro mahāmunī nādatvā bhattaṃ varagatte bhuñjati, viceyya dānāni dadāti kosiyo yassā hi so dassati sāva seyyasī.
31. Hiền nhân trú ở khóm rừng xa,
Chẳng đụng thức ăn chưa phát ra;
Vừa tặng quà, Ko-si xét đoán
Ai là đệ nhất đám tiên nga.
4048. Asūhi yo sammati dakkhiṇaṃ disaṃ gaṅgāya tīre himavantapasmani, sa kosiyo dullabhapānabhojano tassa sudhaṃ pāpaya devasārathi.
32. Trên sườn núi Tuyết, chỗ Hằng Hà
Xuôi phía Nam, hiền Thánh ẩn cư;
Tiên thực, Mà-ta-li, đến tặng,
Ngài đang thiếu ẩm thực đây mà.
4049. Sa mātalī devavarena pesito sahassayuttaṃ abhiruyha sandanaṃ, sa khippameva upagamma assamaṃ adissamāno munino sudhaṃ adā.
33. Mà-ta-li nhận lệnh trời ban,
Lái chiếc thiên xa ngựa cả ngàn,
Thoắt đứng dấu mình am ẩn sĩ,
Và dâng tiên thực tặng hiền nhân.
4050. Udaggihuttaṃ upatiṭṭhato hi me pabhaṅkaraṃ lokatamonuduttamaṃ, sabbāni bhūtāni aticca vāsavo ko neva me pāṇisu kiṃ sudhodahi.
34. Khi lửa tế đàn, lão đốt lên
Ngợi ca vầng nhật đuổi đêm đen,
Sak-ka ngự trị trên Thiên giới,
Ai khác? - trao tay thực phẩm tiên.
4051. Saṃkhūpamaṃ setamatulyadassanaṃ suciṃ sugandhaṃ iyarūpamabbhutaṃ,
adiṭṭhapubbaṃ mama jātacakkhuhi kā devatā pāṇisu kiṃ sudhodahi.
35. Như hạt ngọc trai, trắng tuyệt trần,
Ngát hương, thanh tịnh, đẹp vô ngần,
Mắt ta từ trước chưa hề thấy
Ai đặt vào tay thực phẩm thần?
4052. Ahaṃ mahindena mahesi pesito sudhābhihāsiṃ turito mahāmuni, jānāsi maṃ mātali devasārathi bhuñjassu bhattuttamaṃ mā vicārayi.
36. Ta đến, Sak-ka hạ lệnh truyền,
Vội vàng mang thực phẩm thần tiên,
Cao lương thượng vị, đừng lo sợ,
Xin hãy ăn đi, hỡi bậc hiền,
Ngài thấy Mà-ta-li trước mắt,
Quản xa thần ở cõi chư Thiên.
4053. Bhuttā ca sā dvādasa hanti pāpake khudaṃ pipāsaṃ aratiṃ daraklamaṃ, kodhūpanāhañca vivādapesunaṃ sītuṇhatandiñca rasuttamaṃ idaṃ.
37. Do thọ dụng đây thực phẩm thần,
Mười hai ác nghiệp thảy tiêu dần:
Đói cơm, khát nước, buồn, đau, mệt,
Nóng, lạnh, đấu tranh, với hận sân,
Lười biếng, nộ cuồng, mồm phỉ báng,
Mời ngài tiên thực, chớ phân vân.
4054. Na kappati mātali mayha bhuñjituṃ pubbe adatvā iti me vatuttamaṃ, na cāpi ekāsanamariyapūjitaṃ asaṃvibhāgī ca sukhaṃ na vindati.
4054. “Này Mātali, không đúng đắn đối với ta để thọ hưởng mà không bố thí trước đã,’ như thế đối với ta là sự hành trì tối thượng. Thêm nữa, việc ăn một mình không phải là sự cúng dường cao thượng; người không có sự san sẻ không tìm thấy hạnh phúc (nhân thiên).
38a. Ăn một mình, ta thấy thật sai,
Nên xưa ta đã nguyện thành lời:
Ta không đụng đến thức ăn nữa,
Nếu chẳng cho ai bớt một vài.
b. Ăn một mình không được tán thành
Bởi người có trí tuệ cao minh,
Ai không san sẻ cho người khác,
Hạnh phúc làm sao đến với mình?
4055. Thīghātakā yecime pāradārikā mittadduno ye ca sapanti subbate, sabbeva te maccharīpañcamādhamā tasmā adatvā udakampi nāsmiye.
4055. Những kẻ giết hại phụ nữ và những kẻ nào ngoại tình, những kẻ phản bội bạn bè và những kẻ nào chưởi rủa các bậc có sự hành trì tốt đẹp, và những kẻ có sự bỏn xẻn là thứ năm, tất cả những kẻ ấy là thấp thỏi. Vì thế, khi không bố thí, ngay cả nước uống ta cũng không thọ dụng.
39. Những người nào phạm tội tà dâm,
Hoặc bọn người tàn sát nữ nhân,
Phỉ báng, rủa nguyền bao Thánh giả,
Hoặc người phản bội các thân bằng,
Hoặc tồi tệ nhất: người keo kiệt,
Ta chẳng hề mong xếp hạng chung;
Nước uống cho dù là một giọt,
Ta không đụng nếu chẳng chia phần.
4056. Yo hitthiyā vā purisassa vā pana dassāmi dānaṃ vidusampavaṇṇitaṃ, saddhā vadaññū idha vītamaccharā bhavanti hete sucisammasammatā.
40. Vật ta đem tặng mãi tuôn tràn
Cùng khắp nam nhân lẫn nữ nhân,
Bậc trí sẽ tuyên dương những kẻ
Phát ban của cải để thi ân;
Những ai hào phóng trên trần giới
Và tránh xan tham đủ mọi đàng
Sẽ được mọi người đồng tán thán,
Quý yêu như thiện hữu, chân nhân.
4057. Ato mutā devavarena pesitā kaññā catasso kanakattacūpamā, āsā ca saddhā ca sirī tato hirī taṃ assamaṃ āgamuṃ yattha kosiyo.
41. Cả bốn tiên nương sắc tựa vàng,
Tên là Hy Vọng với Vinh Quang,
Tín Thành, Danh Dự, tuân Thiên mệnh,
Bước đến Ko-si-ya ẩn am.
4058. Tā disvā sabbo paramappamodito subhena vaṇṇena sikhārivaggino, kaññā catasso caturo catuddisā iccabravī mātalino ca sammukhā.
42. Thiên nữ hình dung rực lửa hồng,
Mỗi phương đến đứng một cô nàng,
Trước Ma-ta quản xa Thiên tử,
Bậc trí vui mừng vội hỏi han:
4059. Purimaṃ disaṃ kā tvaṃ pabhāsi devate alaṅkatā tāravarāva osadhī, pucchāmi taṃ kañcanavelliviggahe ācikkha me tvaṃ katamāsi devatā.
4059. “Hỡi vị Thiên nhân, nàng là ai mà chiếu sáng phương Đông? Nàng được trang điểm tựa như ngôi sao Mai cao quý trong số các vì sao. Hỡi cô nàng có thân thể tựa như khối vàng, ta hỏi nàng: Nàng hãy báo cho ta biết nàng là vị Thiên nhân nào?”
43. "Là ai, Thiên nữ tựa sao mai,
Chiếu sáng trời Đông khắp mọi nơi,
Mình khoác xiêm y vàng chói lọi,
Tên gì cho biết, gái nhà trời?"
4060. Sirāhaṃ devī manujesu pūjitā apāpasattūpanisevinī sadā, sudhāvivādena tavantimāgatā taṃ maṃ sudhāya varapañña bhājaya.
44. "Vinh Quang, bạn quý của người đời,
Ta bảo vệ người trong sạch thôi,
Ta đến đây mong cầu thực phẩm,
Xin làm toại nguyện, Thánh nhân ôi!
4061. Yassāhamicchāmi sudhaṃ mahāmuni sa sabbakāmehi naro pamodati, sirīti maṃ jānahi jūhatuttama taṃ maṃ sudhāya varapañña bhājaya.
4061. Thưa bậc đại hiền trí, thiếp muốn người nào được sung sướng, thì người ấy được vui thích với tất cả các dục lạc. Thưa bậc ưu tú trong số các vị cúng tế thần lửa, xin ngài hãy nhận biết thiếp là ‘Nữ thần Sirī.’ Thưa bậc có trí tuệ cao quý, xin ngài hãy chia xẻ phần thức ăn của thần tiên cho thiếp đây.”
45. Ta ban hạnh phúc đến người nào
Ta muốn tâm cầu thỏa ước ao,
Tên gọi Vinh Quang, thưa Thánh giả,
Xin đem tiên thực tặng ta nào!
4062. Sippena vijjācaraṇena buddhiyā narā upetā paguṇā sakammunā, tayā vihīnā na labhanti kiñcanaṃ tayidaṃ na sādhu yadidaṃ tayā kataṃ.
46. Những người tài, đức, lại tinh thông,
Xuất chúng mọi điều trí ước mong,
Song bởi thiếu nàng nên thất bại;
Việc này, ta trách ác phần nàng.
4063. Passāmi posaṃ alasaṃ mahagghasaṃ sudukkulīnampi arūpimaṃ naraṃ, tayānugutto siri jātimaṃ api peseti dāsaṃ viya bhogavā sukhī.
4063. Ta nhìn thấy người lười biếng, ham ăn, người có gia tộc vô cùng thấp kém, không có vóc dáng, nhưng được nàng bảo hộ nên có sự vẻ vang, có dòng dõi; gã sai bảo tôi tớ như là người có của cải, có sự sung sướng.
47. Kẻ kia tham dục lại chây lười,
Dị tướng, con dòng hạ liệt thôi,
Song được nàng ban cho phú quý,
Khiến người quý tộc hóa nô tài.
4064. Taṃ taṃ asaccaṃ avibhajjaseviniṃ jānāmi mūḷhaṃ vidurānupātiniṃ, na tādisī arahati āsanūdakaṃ kuto sudhā gaccha na mayha ruccasi.
48. Ta thấy nàng hư dối, độn đần,
Cuốn lôi bọn ngốc, thật liều thân,
Lại còn đánh bại bao người trí;
Không có quyền đòi nước, tọa sàng,
Nói gì thực phẩm thần tiên ấy,
Đi gấp, ta không chút thích nàng!
4065. Kā sukkadāṭhā paṭimutta kuṇḍalā cittaṅgadā kambuvimaṭṭhadhārinī, osittavaṇṇaṃ paridayha sobhasi kusaggirattaṃ apiḷayha mañjariṃ.
4065. “Nàng là ai mà có răng nhọn trắng ngần, có các bông tai cẩn ngọc trai, có vòng đeo tay nhiều màu sắc, mặc y phục bóng láng bằng vàng? Nàng chiếu sáng rực rỡ sau khi khoác lên mảnh vải mang màu sắc của những hạt nước lấp lánh, sau khi cài vào chùm hoa màu đỏ rực như ngọn lửa cỏ kusa.
49. Nàng là ai, hỡi tiên nga,
Trong sáng, hàm răng trắng mượt mà,
Sáng chói vòng vàng, khuyên lấp lánh,
Xiêm y rực rỡ gợn thu ba,
Đầu cài thoa đỏ như màu lửa
Được đốt bằng chùm cỏ Ku-sa?
4066. Migīva bhantā saracāpadhārinā virādhitā mandamiva udikkhasi, ko te dutiyo idha mandalocane na bhāyasi ekikā kānane vane.
50. Trông nàng như một chị nai rừng
Chạm nhẹ mũi tên của thợ săn,
Thơ thẩn mắt nhìn quanh hốt hoảng
Khác nào con vật bị kinh hoàng;
Hỡi nàng Thiên nữ mắt hiền dịu,
Nàng có bạn nào ở đấy chăng,
Vì thế lạc đường không sợ hãi
Một mình phiêu bạt giữa rừng hoang?
4067. Na me dutiyo idhamatthi kosiya masakkasārappabhavamhi devatā, āsā sudhāsāya tavantimāgatā taṃ maṃ sudhāya varapañña bhājaya.
51. Ta chẳng có đây bạn chí thân,
Từ Sak-ka điện, chốn Thiên cung,
Ma-sak-ka ấy là tên gọi,
Ta chính là Thiên nữ giáng trần,
Hy Vọng giờ đây đang xuất hiện
Để mong cầu thực phẩm thiên thần,
Xin ngài nghe kỹ, thưa Tôn giả,
Và tặng ta điều vẫn ước mong.
4068. Āsāya yanti vāṇijā dhanesino nāvaṃ samāruyha parenti aṇṇave, te tattha sīdanti athopi ekadā jīnādhanā enti vinaṭṭhapābhatā.
52. Lái buôn hy vọng kiếm kho tàng
Ra biển lên tàu vượt đại dương,
Đôi lúc chìm tàu đâu thấy nữa,
Mất vàng, thoát chết cũng kêu than.
4069. Āsāya khettāni kasanti kassakā vapanti bījāni karontupāyaso, ītīnipātena avuṭṭhitāya vā
na kiñci vindanti tato phalāgamaṃ.
53. Nông gia cày ruộng vẫn cầu mong
Gieo hạt, cố làm hết khả năng,
Song gặp tai ương hay hạn hán,
Mất mùa gặt hái để bù công.
4070. Athattakārāni karonti bhattusu āsaṃ purakkhatvā narā sukhesino, te bhatturatthā atigāḷhitā puna disā panassanti aladdha kiñcanaṃ.
54. Kẻ thích giàu, hy vọng hết lòng
Vì vua chiến đấu thật anh hùng,
Ngã nhào, địch siết vòng vây hãm,
Chiến đấu vì vua phải thiệt thân.
4071. Jahitva dhaññañca dhanañca ñātake āsāya saggādhimanā sukhesino, tapanti lūkhampi tapaṃ cirantaraṃ kummaggamāruyha parenti duggatiṃ.
55. Để vàng, kho lúa tặng bà con,
Vì lạc thiên đường vẫn ước mong,
Chịu đựng lâu ngày bao khổ hạnh,
Do tà pháp dẫn đến đau buồn.
4072. Āsā visaṃvādikasammatā ime āse sudhāsaṃ vinayassu attani, na tādisī arahati āsanūdakaṃ kuto sudhā gaccha na mayha ruccasi.
56. Lừa dối thế nhân, ước hão huyền,
Hãy lìa hư vọng thỏa tâm nguyền,
Không quyền đòi hỏi ngay sàng tọa
Bình nước, nói gì thực phẩm tiên!
Ta chẳng thích nàng, Hy Vọng hỡi,
Biến đi, nàng hãy biến đi liền!
4073. Daddallamānā yasasā yasassinī jighañña nāmavhayanaṃ disaṃ pati, pucchāmi taṃ kañcanavelliviggahe ācikkha me tvaṃ katamāsi devatā.
57. Lừng danh Thiên nữ sắc huy hoàng
Đứng phía trời Tây tướng bất trường,
Mình khoát xiêm y vàng rực rỡ,
Tên gì cho biết, hỡi tiên nương.
4074. Saddhāhaṃ devī manujesu pūjitā apāpasattūpinasevinī sadā, sudhāvivādena tavantimāgatā taṃ maṃ sudhāya varapañña bhājaya.
58. Tín Thành, bạn quý của người đời,
Ta bảo vệ người trong sạch thôi,
Ta đến đây cầu mong thực phẩm,
Xin làm toại nguyện, Thánh nhân ôi!
4075. Dānaṃ damaṃ cāgamathopi saṃyamaṃ ādāya saddhāya karonti hekadā, theyyaṃ musā kūṭamathopi pesunaṃ karonti heke puna viccutā tayā.
59. Bố thí rộng tay bởi tín tâm,
Cử kiêng, điều phục, hộ phòng thân;
Vì nàng, có lúc mất ân phước,
Trộm cắp, vu oan, lại vọng ngôn.
4076. Bhariyāsu poso sadisīsu pekkhavā sīlūpapannāsu patibbatāsupi, vinetvā chandaṃ kuladhītiyāsupi karoti saddhaṃ pana kumbhadāsiyā.
60. Với vợ hiền, cao quý, thục đoan,
Đàn ông thường thận trọng, khôn ngoan,
Dục tình chế ngự đầy chu đáo,
Song đặt lòng tin ả bán hương!
4077. Tvameva saddhe paradārasevinī pāpaṃ karosi kusalampi rañcasi, na tādisi arahasi āsanūdakaṃ kuto sudhā gaccha na mayha ruccasi.
61. Vì nàng, lan rộng thói tà dâm,
Nàng bỏ thiện lương, sống lỗi lầm.
Không có quyền đòi bình nước uống,
Cũng chẳng đòi đâu được tọa sàng,
Nói gì thực phẩm từ thiên giới;
Đi gấp, ta không chút thích nàng!
4078. Jighaññarattiṃ aruṇasmimūhate yā dissatī uttamarūpavaṇṇinī, tathūpamā maṃ paṭibhāsi devate ācikkha me tvaṃ katamāsi accharā.
62. Bình minh viền rực bóng đêm tàn,
Như chóa mắt ta, sắc đẹp nàng,
Thiên nữ hình dung, ôi tuyệt mỹ,
Nàng là ai, hãy nói danh xưng.
4079. Kāḷā nidāgheriva aggajātiva anileritā lohitapattamālinī, kā tiṭṭhasi mandamivāvalokayaṃ
bhāsesamānāva giraṃ na muñcasi.
4079. Tựa như loài dây leo kāḷā có chùm hoa với những lá màu đỏ vào mùa khô hạn run rẩy trước gió tựa như ngọn lửa, nàng là ai mà đứng nhìn xuống tựa như kẻ ngây ngô, dường như đang suy tính câu nói mà không thốt nên lời?”
63. Như một cây mềm, dễ mọc ngang
Trên vùng đất lửa đốt lan tràn,
Lá hồng theo gió mùa hè rụng,
Sao cứ nhìn ta dáng thẹn thuồng
Như thể có điều gì muốn nói,
Nhưng yên lặng đứng đó, cô nàng?
4080. Hirāhaṃ devī manujesu pūjitā apāpasattūpanisevinī sadā sudhāvivādena tavantimāgatā sā taṃ na sakkomi sudhampi yācituṃ kopīnarūpā viya yācanatthiyā.
4080. “Thiếp là Hirī (liêm sỉ), nữ Thần được tôn vinh bởi loài người, luôn luôn có sự gần gũi với những chúng sanh không ác xấu. Do việc tranh cãi về phần thức ăn của thần tiên, thiếp đi đến gặp ngài. Thiếp đây không thể cầu xin ngay cả thức ăn của thần tiên ấy, (bởi vì) việc cầu xin đối với người nữ giống như việc phô bày phần kín đáo của cơ thể.”
64. Danh Dự là ta, bạn chí thân
Vẫn thường giúp đỡ các chân nhân,
Đến đây ta muốn xin tiên thực,
Song ước mơ nào dám nào năng,
Cầu khẩn đáng là điều hổ thẹn,
Nhất là đối với gái hồng quần.
4081. Dhammena ñāyena sugatte lacchasi eso hi dhammo nahi yācanā sudhā, taṃ taṃ ayācantimahaṃ nimantaye sudhāya yampicchasi tampi dammi te.
4081. “Hỡi nàng tiên có cơ thể xinh xắn, theo nguyên tắc, theo quy định, nàng sẽ nhận được, bởi vì điều ấy là nguyên tắc: Không do cầu xin mà có được thức ăn của thần tiên. Vì thế, ta thỉnh mời nàng là người không cầu xin. Nàng muốn loại nào trong thức ăn của thần tiên, ta sẽ cho nàng loại ấy.
65. Nàng chẳng cần đòi hỏi khẩn van,
Nhận sao cho hợp với quyền nàng,
Ta ban điều dám đâu mơ tưởng,
Hãy nhận món này thỏa ước mong.
4082. Sā tvaṃ mayā ajja sakamhi assame nimantitā kañcanavelliviggahe, tuvaṃ hi me sabbarasehi pūjiyā taṃ pūjayitvāna sudhampi asmiye.
4082. Hỡi cô nàng có thân thể tựa như khối vàng, hôm nay nàng đây được ta thỉnh mời đến khu ẩn cư của ta, bởi vì nàng xứng đáng được cúng dường với tất cả các hương vị. Sau khi cúng dường nàng xong, ta cũng sẽ ăn thức ăn của thần tiên.”
66. Hôm nay dùng tiệc ở trong am,
Xin hạ cố, Thiên nữ sắc vàng,
Ta thiết đãi nàng bao thượng vị,
Món ăn thiên giới cũng chia nàng.
4083. Sā kosiyenānumatā jutīmatā addhā hirī rammaṃ pāvisi yassamaṃ, udaññavantaṃ phalamariyapūjitaṃ apāpasattūpanisevitaṃ sadā.
4083. Nàng tiên ấy đã được vị Kosiya có sự chói sáng (năng lực) cho phép, nàng Hirī quả thật đã đi vào nơi ẩn cư đáng yêu; (nơi ấy) có nước uống, có trái cây được cúng dường cao thượng, luôn luôn có sự gần gũi với những chúng sanh không ác xấu.
67. Danh Dự, tiên nương thật vẻ vang,
Được mời làm khách ở trong am,
Ko-si-ya có nhiều hoa quả,
Khe suối quanh năm chảy ngập tràn,
Lại thấy từng đoàn hiền Thánh giả
Vẫn thường lui tới các thôn làng.
4084. Rukkhaggahaṇā bahukettha pupphitā ambā piyālā panasā ca kiṃsukā, sobhañjanā loddamathopi padmakā kekā ca bhaṅgā tilakā ca pupphitā.
4084. Nơi này có nhiều lùm cây rậm đã được trổ hoa: các cây xoài, các cây piyāla, các cây mít, các cây kiṃsukā, các cây sobhañjana, các cây lodda, rồi các cây padmaka nữa,các cây keka, các cây bhaṅga và các cây tilaka đã được trổ hoa.
68. Rập rạp khóm cây đang trổ hoa,
Pi-yal, xoài, mít cạnh Ju-da,
4085. Sālā karerī bahukettha jambuyo assatthanigrodhamadhukā ca vetasā, uddālakā pāṭalīsindhuvārakā manuññagandhā mucalindaketakā.
4085. Nơi này có nhiều cây sa-la, các cây bông hường, các cây mận đỏ, các cây bồ-đề, các cây đa, các cây cam thảo, và các cây sậy, các cây bả đậu, các cây hoa kèn, các cây sindhuvāraka, các cây mucalinda và các cây ketaka với mùi thơm làm thích ý.
Sà-la, đào đỏ tươi tô điểm,
Hùng vĩ, sung, bàng đổ bóng xa.
4086. Hareṇukā veḷukā veṇutindukā sāmāka nīvāramathopi cīnakā, mocā kadalī bahuketthasāliyo pavīhayo ābhujino ca taṇḍulā.
4086. Các cây họ đậu, các cây veḷuka, các cây sậy, và các cây tinduka, các cây cao lương, các cây kê, rồi các cây đậu nành nữa, các cây moca, các cây chuối, ở đây có nhiều lúa sāli (mọc ven hồ), các cây lúa pavīhi, các cây liễu, và các cây lúa taṇḍula.
69. Theo gió, nhiều hoa tỏa ngát hương,
Đậu kê, gạo đủ thứ, kìa trông,
Nơi nơi buồng chuối trồng phong phú,
Tre, sậy chen nhau rập nhất vùng.
4087. Tassa ca uttare passe jātā pokkharaṇī sivā, akakkasā apabbhārā sādhu appaṭigandhiyā.
4087. Và ở về phía bắc của nơi này có hồ sen an lành, không gồ ghề, không hố sâu, tốt lành, không có mùi khó chịu.
70. Ở về phía Bắc, được viền quanh
Bờ bến phẳng phiu, mát dịu lành,
Khe suối trong ngần tuôn chảy mãi,
Hãy nhìn hồ nước dáng uy linh.
4088. Tattha macchā sanniratā khemino bahubhojanā, siṅgu savaṅkā sakulā satavaṅkā ca rohitā, āligaggarakākiṇṇā pāṭhīnā kākamacchakā.
4088. Nơi ấy có nhiều thức ăn, các con cá có sự bình an cùng nhau nô đùa: các giống cá siṅgu, cá savaṅka, cá sakula, cá satavaṅka, cá hồng, và đông đúc loài cá āli, cá gaggaraka, cá pāṭhīna, và các cá nhỏ mồi của lũ quạ.
71. Đàn cá tung tăng hạnh phúc tràn
Tự do nô giỡn thật bình an,
Giữa bao thực phẩm đầy phong phú
Hưởng thọ sao cho thỏa ước mong.
4089. Tattha pakkhī sanniratā khemino bahubhojanā, haṃsā koñcā mayūrā ca cakkavākā ca kukkuhā, kuṇālakā bahucitrā sikhaṇḍī jīvaṃjīvakā.
72. Bầy chim hạnh phúc chốn an bình
Thưởng thức cao lương thật thỏa tình,
Thiên nga, ưng, hạc, chim công quý,
Cu gáy, ngỗng hồng với trĩ xanh.
4090. Tattha pānāyamāyanti nānāmigagaṇā bahū, sīhā vyagghā varāhā ca acchakokataracchayo.
73. Cọp, beo, sư tử đến từng bầy
Làm dịu ngay cơn khát chốn này,
Gấu, chó, sói rừng thường lảng vảng,
Đấy là nguồn nước uống tràn đầy.
4091. Palāsādā ca gavajā mahisā rohitā rurū, eṇeyyā ca varāhā ca gaṇino niṅkasūkarā.
74. Trâu nghé, tây ngưu cũng đến đây,
Linh dương, nai đỏ, lợn từng bầy,
4092. Kadalimigā bahū cettha biḷārā sasakaṇṇakā, chamāgirī pupphavicitrasanthatā, dijābhighuṭṭhā dijasaṅghasevitā.
Hươu rừng rất lớn và nhiều loại
Xuất hiện mèo tai thỏ lắm thay!
75. Các sườn núi rực rỡ muôn hoa
Tươi thắm bao màu sắc điểm tô,
Vang dội tiếng chim muông ríu rít,
Lượn bay khắp cả chốn rừng thưa.
4093. Sā suttacā nīladumābhilambitā vijju mahāmegharivānupajjatha, tassā susambandhasiraṃ kusāmayaṃ suciṃ sugandhaṃ ajinūpasevitaṃ, atriccha kocchaṃ hirimetadabravi nisīda kalyāṇi sukhayidamāsanaṃ.
76. Nàng Thiên nữ dựa một cây cành
Bao phủ quanh bằng tán lá xanh,
Như chớp từ vầng mây sấm sét
Sáng lòe lên giữa cảnh am tranh.
77. Tọa sàng thanh lịch soạn cho nàng
Ở phía trên đầu, nệm thật sang
Bằng cỏ Ku-sa thơm sực nức,
Phủ ngoài da quý của linh dương.
78. Vị Thánh ẩn cư lại bảo ban
Cùng nàng Danh Dự, vị tiên nương:
"Tọa sàng đã soạn cho nàng hưởng,
Xin hãy an tâm nhận tọa sàng".
4094. Tassā tadā kocchagatāya kosiyo yadicchamānāya jaṭājinaṃ dharo, navehi pattehi sayaṃ sahūdakaṃ sudhābhihāsī turito mahāmuni.
4094. Khi ấy, nàng tiên Hirī đã đi đến ngồi ở chiếc ghế nệm, đang mong muốn mỏi thức ăn của thần tiên. Bậc đại hiền trí Kosiya, tóc bện, mặc y da dê, đã mau mắn đích thân trao thức ăn của thần tiên cùng với nước uống (được mang về) bằng những chiếc lá mới cho nàng tiên nữ ấy.
79. Ẩn sĩ lấy ra nước suối trong
Đựng vào lá mới hái, nhanh chân,
Biết điều thầm kín nàng mơ ước,
Hoan hỷ, người trao thực phẩm thần.
4095. Sā taṃ paggayha ubhohi pāṇihi iccabravī attamanā jaṭādharaṃ,handāhaṃ etarahi pūjitā tayā gaccheyya brahme tidivaṃ jitāvinī.
4095. Nàng tiên ấy, sau khi nhận lấy thức ăn bằng cả hai bàn tay, được hoan hỷ, đã nói với vị mang bện tóc rằng:
“Bây giờ, thiếp đã được ngài cúng dường, thưa vị Bà-la-môn, người có sự chiến thắng nên đi đến Thiên giới.”
80. Tay ôm tặng vật, dạ vui mừng
Thiên nữ hân hoan bảo Thánh nhân:
"Thờ phụng ta rồi ngài thắng lợi
Giờ ta tìm lại cảnh thiên đường".
4096. Sā kosiyānumatā jutīmatā udīritā vaṇṇamadena mattā, sakāse gantvāna sahassacakkhuno ayaṃ sudhā vāsava dehi me jayaṃ.
4096. Được vị Kosiya có sự chói sáng (năng lực) cho phép, nàng tiên ấy, đắm say với sự kiêu hãnh về sắc đẹp, sau khi đi đến nơi hiện diện của đấng Ngàn Mắt, đã nói rằng: “Thưa Thiên Chủ Vāsava, đây là thức ăn của thần tiên. Xin ngài hãy ban cho thiếp sự chiến thắng.”
81. Thiên nữ say kiêu hãnh vẻ vang
Với ân huệ yết kiến Thiên hoàng:
"Hãy nhìn, Thiên đế ngàn con mắt,
Tiên thực đây. Phần thưởng hãy ban".
4097. Tamena sakkopi tadā apūjayi sahindā ca devā surakaññamuttamaṃ, sā pañjalī devamanussapūjitā navamhi kocchamhi yadā upāvisi.
4097. Vào lúc nàng đã đi đến ngồi vào chiếc ghế nệm mới, khi ấy, Thiên Chủ Sakka cũng đã cúng dường nàng ấy với chiếc ghế ấy. Và cùng với Thiên Chủ Inda, chư Thiên đã cúng dường đến nàng tiên nữ ưu tú. Được chư Thiên và nhân loại cúng dường, nàng tiên ấy đã chắp tay lại.
82. Sak-ka cùng với chúng Thiên thần
Kính lễ nàng Thiên nữ tuyệt luân,
Trong lúc nàng ngồi trên bảo tọa,
Thiên nhân đồng ái mộ dung nhan.
4098. Tameva saṃsī punareva mātalī sahassanetto tidasānamindo, gantvāna vākyaṃ mama brūhi kosiyaṃ āsāya saddhā siriyā ca kosiya hirī sudhaṃ kena malattha hetunā.
83. Sak-ka Thiên chủ cõi Băm ba
Phán lệnh Mà-ta-li quản xa,
Truyền: "Đến bảo hiền nhân giải thích
Cớ gì Danh Dự được ban quà?
4099. Taṃ suplavatthaṃ udatārayī rathaṃ daddallamānaṃ upakiriya sādisaṃ, jambonadīsaṃ tapaneyyasannibhaṃ alaṅkataṃ kañcanacittasantikaṃ.
4099. Mātali đã đưa cỗ xe ấy vượt lên nhằm mục đích lao đi dễ dàng. Cỗ xe, trong lúc đang chói sáng, tương tự như một tòa nhà, với càng xe bằng vàng đỏ Jambu giống như đã được đốt nóng, đã được trang hoàng, đã được tô điểm bằng vàng và bảy loại bảo ngọc.
84. Vì vậy, Mà-ta-li vội vàng
Phóng xe du lịch giữa không gian,
Phụ tùng mọi thứ đều cân xứng
Trong vẻ vinh quang đẹp dị thường,
Càng đúc bằng vàng tinh luyện kỹ,
Khung xe đóng khéo được trang hoàng
Cầu kỳ, đủ các hình tô điểm,
Tất cả xe đều chạm trổ vàng.
4100. Suvaṇṇacandettha bahū nipātitā hatthī gavassā kikivyagghadīpiyo, eṇeyyakā laṅghimayettha pakkhiyo migettha veḷuriyamayā yudhāyutā.
85. Trên vàng được phát họa chim công
Khéo tạo thành con số thật đông,
Bò, ngựa, hổ, voi và báo nữa,
Linh dương, nhung lộc sắp tranh hùng,
Ở trong bảo ngọc này đều khắc
Đàn cưỡng cùng chim khác lượn vòng.
4101. Tatthassarājaharayo ayojayuṃ dasasatāni susunāgasādise, alaṅkate kañcanajāluracchade āveḷike saddagame asaṅgite.
86. Xe được thắng thiên mã cả ngàn,
Mạnh như voi trẻ, sắc kim hoàng,
Cảnh này xem thực vinh quang quá,
Ngực chúng đều bao mạng lưới vàng
Cùng các tràng hoa treo lủng lẳng,
Được buông lơi lỏng sợi dây cương,
Vừa khi nghe một lời ra lệnh,
Chúng lướt nhanh như gió nhẹ nhàng.
4102. Taṃ yānaseṭṭhaṃ abhiruyha mātalī dasadisā imā abhinādayittha, nabhañca selañca vanaspatīni ca sasāgaraṃ pavyathayittha mediniṃ.
87. Ngay lúc Mà-ta nhảy vụt nhanh
Cỡi thiên xa ấy, giữa thiên thanh,
Âm thanh mười hướng đồng vang dội
Qua giữa không gian đã tốc hành,
Thiên tử làm trần gian chấn động:
Biển, trời, đất với núi rừng xanh.
4103. Sa khippameva upagamma assamaṃ pāvāramekaṃsakato katañjalī, bahussutaṃ vaddhaṃ vinītavantaṃ iccabravi mātali devabrāhmaṇaṃ.
88. Chẳng bao lâu đến thảo am kia
Mong ước tỏ lòng tôn kính ra,
Để một vai trần chào Thánh giả,
Mà-ta-li lại bắt đầu thưa
Với vị Bà-la-môn trí tuệ
Tinh thông Thánh điển thật cao xa.
4104. Indassa vākyaṃ nisāmehi kosiya dūto ahaṃ pucchati taṃ purindado, āsāya saddhā siriyā ca kosiya hirī sudhaṃ kena malattha hetunā.
89. Nghe đây, Tôn giả Ko-si-ya,
Lời nói của Thiên chủ Sak-ka
Về việc ngài đang mong muốn biết,
Kìa xem, sứ mạng được giao ta:
"Trong khi Tôn giả không công nhận
Quyền của Tín Thành, Hy Vọng và
Vinh Quang, xin hỏi sao Danh Dự
Riêng nhận từ tay ấy thưởng quà?"
4105. Andhā sirī maṃ paṭibhāti mātalī saddhā aniccā pana devasārathi, āsā visaṃvādikasammatā hi me hirī ca ariyamhi guṇe patiṭṭhitā.
90. Mà-ta-li hỡi, nàng Vinh Quang
Là ngọc nữ không được vẹn toàn,
Trong lúc Tín Thành tâm bất định,
Hỡi ngài, Thiên tử quản xa thần,
Nàng Hy Vọng vẫn thường lừa dối
Thích phản bội lời hứa của nàng,
Danh Dự riêng mình theo đức hạnh,
Trú thân trong Thánh đạo bình an.
4106. Kumāriyo yācimā gottarakkhitā jiṇṇā ca yā yā ca sabhattuitthiyo, tā chandarāgaṃ purisesu uggataṃ hiriyā nivārenti sacittamattano.
4106. Các nàng trinh nữ được dòng họ bảo hộ, các góa phụ, và các phụ nữ đã có chồng, các nàng ấy, khi dục vọng và luyến ái ở các nam nhân sanh khởi, chận đứng tâm của chính mình nhờ vào sự liêm sỉ.
91. Sống ở gia môn, gái má hồng
Vẫn luôn được bảo vệ, canh phòng,
Nữ nhân đã quá thời xuân sắc,
Và những kẻ đang sống với chồng,
Ví thử có khi nào nhục dục
Bỗng nhiên phát khởi ở trong lòng,
Nghe lời nói của nàng Danh Dự,
Chế ngự dục tâm hạ xuống dần.
4107. Saṅgāmasīse sarasattisaṃyute parājitānaṃ patataṃ palāyinaṃ, hiriyā nivattanti jahitva jīvitaṃ te saṃpaṭicchanti punā hirīmanā.
92. Khi các dáo, tên ở chiến trường
Phóng nhanh rào rạt tựa mưa tuôn,
Trong cơn trốn chạy, bao đồng đội
Ngã xuống hay đào tẩu loạn cuồng,
Nghe được lời nàng Danh Dự nói,
Nhiều người dừng chạy, dẫu nguy nan,
Và dầu đang ngập tràn kinh hoảng,
Lần nữa xông ra chốn kiếm thương.
4108. Velā yathā sāgaravegavāriṇī hirāyaṃ hi pāpajanaṃ nivāraṇī, taṃ sabbaloke hirimariyapūjitaṃ indassa naṃ vedaya devasārathi.
93. Giống như bờ biển vẫn thường ngăn
Những đợt ba đào giữa đại dương,
Danh Dự cũng thường hay trấn áp
Con đường của những bọn tà gian;
Mà-ta-li hỡi, mau về gặp
Thiên chủ In-dra, nói rõ ràng:
Bậc Thánh khắp nơi trên thế giới
Thảy đều tôn trọng đại danh nàng.
4109. Ko te imaṃ kosiya diṭṭhimodahi brahmā mahindo athavā pajāpati, hirāyaṃ devesu hi seṭṭhasammatā dhītā mahindassa mahesi jāyatha.
94. Ko-si-ya, kẻ ấy là ai
Đã gợi ý kia đến với ngài,
Có phải là In-dra Đại đế,
Phạm thiên, đầy tạo hóa cao vời?
Nàng Danh Dự ấy, thưa Tôn giả,
Phải biết được sinh bởi ý trời
Thiên chủ In-dra, trên thượng giới,
Riêng nàng đức hạnh tối cao ngôi.
4110. Handehidāni tidivaṃ samakkama rathaṃ samāruyha mamāyitaṃ imaṃ, indo ca taṃ indasagotta kaṅkhati ajjeva tvaṃ indasahavyataṃ vaja.
95. Thánh nhân, hãy bước đến bây giờ,
Lập tức lên xe quý của ta,
Ta sẽ dẫn ngài về thượng giới,
Cung đình ngự trị cõi Băm ba
In-dra đang đợi chờ Tôn giả,
Quyến thuộc ln-dra quả thực là.
Thiên đạo hôm nay lên cộng trú
Ngài thành đạt với chúa In-dra.
4111. Evaṃ samijjhanti apāpakammino atho suciṇṇassa phalaṃ na nassati, ye keci maddakkhu sudhāya bhojanaṃ sabbeva te indasahavyataṃ gatā ”ti.
96. Chính hành động của Thánh hiền nhân
Đưa đến đời sau quả phước ân,
Kết quả thiện hành an trú mãi.
Người nhìn thực phẩm của Thiên thần
Được đem trao tặng nàng Danh Dự,
Thân hoại, trú an với Ngọc hoàng.
4112. Hirī uppalavaṇṇāsi kosiyo dānapati bhikkhu, anuruddho pañcasikho ānando āsi mātalī.
-Thời ấy Uppalavannà (Liên Hoa Sắc) là Thiên nữ Danh Dự, vị Tỷ-kheo có tâm bố thí hào phóng là Kosiya, Anuruddha (A-na-luật-đà) là Màtali,
4113. Suriyo kassapo bhikkhu moggallānosi candimā, nārado sāriputtosi sambuddho āsi vāsavo ”ti.
Kassapa (Ca-diếp) là Suriya, Moggallàna (Mục-kiền-liên) là Canda, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là Nàrada, và Ta chính là Sakka Thiên chủ.
Sudhābhojanajātakaṃ.
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada