2689. Yamekarattiṃ paṭhamaṃ gabbhe vasati māṇavo, abbhuṭṭhitova sayati sagacchaṃ na nivattati.  

2689. “Việc đầu tiên (của sự tục sanh) là một đêm (hoặc một ngày), bào thai trú ở bụng mẹ. Ngay khi đã được hình thành, nó (liên tục) phát triển. Trong khi tiến triển, nó không dừng lại.

1. Mầm sống, một khi nhập tử cung
Mới vừa khởi sự bước đầu xong
Nó liền tiến mãi hoài liên tục
Sinh mệnh dòng kia chẳng thể dừng.

2690. Na yujjhamānā na balena vassitā narā na jīranti navāpi mīyare, sabbaṃ hi taṃ jātijarāyupaddutaṃ
tamme matī hoti carāmi dhammaṃ.

2690. Không phải trong lúc chiến đấu, không phải được trông cậy vào sức mạnh, mà con người không già hoặc thậm chí không chết. Toàn bộ tất cả đều bị quấy nhiễu bởi sự sanh và sự già. Vì thế, con có ý nghĩ rằng: ‘Ta phải thực hành pháp tu tập.’

2. Không một quyền năng, chẳng lực hùng
Giúp người tránh lão tử sau cùng,
Mọi loài khổ lụy vì sinh lão,
Con quyết tìm thanh tịnh bản thân

2691. Caturaṅginiṃ senaṃ subhiṃsarūpaṃ jayanti raṭṭhādhipatī pasayha, na maccuno jayituṃ ussahanti
tamme matī hoti carāmi dhammaṃ.

2691. Các vua chúa của các xứ sở (có thể) chiến thắng đoàn quân gồm bốn binh chủng có dáng vẻ vô cùng khủng khiếp bằng vũ lực, nhưng không thể nào chiến thắng đạo binh của Thần Chết. Vì thế, con có ý nghĩ rằng: ‘Ta phải thực hành pháp tu tập.’

3. Ðại vương chiến thắng bởi hùng binh
Bốn đạo quân nhìn thật đáng kinh,
Song chẳng phá tan quân Diêm chúa
Nên con nguyền Phạm hạnh phần mình

2692. Hatthīhi assehi rathehi pattihi parivāritā muccare ekaceyyā, na maccuno muccituṃ ussahanti
tamme matī hoti carāmi dhammaṃ.

2692. Được tháp tùng bởi các tượng binh, xa binh, kỵ binh, và bộ binh, một số vua chúa (có thể) được thoát khỏi (kẻ thù), nhưng không thể nào được thoát khỏi đạo binh của Thần Chết. Vì thế, con có ý nghĩ rằng: ‘Ta phải thực hành pháp tu tập.’

4. Dù mã, tượng, xa với đạo quân
Vây quanh, vài kẻ thoát nhanh chân;
Song không ai thoát tay thần chết
Con quyết đời thanh tịnh để phần.

2693. Hatthīhi assehi rathehi pattihi sūrā pabhañjanti padhaṃsayanti, na maccuno bhañjituṃ ussahanti
tamme matī hoti carāmi dhammaṃ.

2693. Cùng với các tượng binh, xa binh, kỵ binh, và bộ binh, các dũng sĩ (có thể) phá tan, tiêu diệt (kẻ thù), nhưng không thể nào phá vỡ đạo binh của Thần Chết. Vì thế, con có ý nghĩ rằng: ‘Ta phải thực hành pháp tu tập.’

5. Với mã , tượng xã, các đạo binh
Anh hùng tiêu diệt thảy tan tành.
Song không thấy có người nào đủ
Sức mạnh phá tan được tử hình;
Vì thế lòng con nay đã quyết
Cuộc đời Phạm hạnh để cho mình

2694. Mattā gajā bhinnagaḷā pabhinnā nagarāni maddanti janaṃ hananti, na maccuno maddituṃ ussahanti tamme matī hoti carāmi dhammaṃ.

2694. Những con voi bị nổi cơn dục, có dịch chất tiết ra (ở trán), bị giận dữ, (có thể) dẫm nát các thành phố và giết hại dân chúng, nhưng không thể nào dẫm nát đạo binh của Thần Chết. Vì thế, con có ý nghĩ rằng: ‘Ta phải thực hành pháp tu tập.’

6. Voi điên, da đẫm ướt trên đường
Phố xá dẫm tan, giết hại dân,
Song chẳng thấy người đầy thế lực
Dẫm ta, tiêu diệt tử ma vương;
Cho nên con quyết lòng tu tập
Thanh tịnh đời riêng với bản thân.

2695. Issāsino katahatthāpi dhīrā dūrepātī akkhaṇavedhinopi, na maccuno vijjhituṃ ussahanti
tamme matī hoti carāmi dhammaṃ.

2695. Những người bắn cung có cánh tay đã được tập luyện, sáng trí, có khả năng bắn xa, có phát bắn nhanh như tia chớp, nhưng không thể nào xuyên thủng đạo binh của Thần Chết. Vì thế, con có ý nghĩ rằng: ‘Ta phải thực hành pháp tu tập.’

7. Xạ thủ đại hùng, thiện xảo thay,
Bắn như tia chớp tự xa bay,
Song con không thấy người thừa sức
Làm tổn thương được thần chết này
Vì thế lòng con giờ quyết định
Theo đời thanh tịnh để phần đây.

2696. Sarāni khīyanti saselakānanā sabbaṃ hi taṃ khīyati dīghamantaraṃ, sabbaṃ hi taṃ bhañjare kālapariyaṃ
tamme matī hoti carāmi dhammaṃ.

2696. Các hồ nước, cùng với các ngọn núi và các khu rừng đều bị tiêu hoại. Toàn bộ tất cả đều bị tiêu hoại sau một thời gian dài. Toàn bộ tất cả đều tan vỡ theo trình tự của thời gian. Vì thế, con có ý nghĩ rằng: ‘Ta phải thực hành pháp tu tập.’

8. Rừng núi, hồ sông với thạch bàn
Không lâu để sụp đổ điêu tàn
Ðúng thời, vạn vật thành không cả,
Con quyết đời thanh tịnh bước đàng.

2697. Sabbesamevaṃ hi narānanārinaṃ calācalaṃ pāṇabhunodha jīvitaṃ, paṭova dhuttassa dumova kūlajo
tamme matī hoti carāmi dhammaṃ.

2697. Bởi vì mạng sống của tất cả những người nam và nữ, của sinh linh ở thế gian này là bấp bênh như vậy, tựa như tấm vải choảng của kẻ nghiện ngập, tựa như cây cối sanh trưởng ở bờ vực. Vì thế, con có ý nghĩ rằng: ‘Ta phải thực hành pháp tu tập.’

9. Giống như cây ở mé bờ sông
Bán áo, người say đổi rượu nồng
Cuộc sống muôn loài đều khổ cả,
Nên con quyết Phạm hạnh riêng phần

2698. Dumapphalāneva patanti māṇavā daharā ca vuddhā ca sarīrabhedā, nāriyo narā majjhimaporisā ca
tamme matī hoti carāmi dhammaṃ.

2698. Tựa như các trái ở trên cây rụng xuống, các chúng sanh, bao gồm các phụ nữ, các nam nhân, và những người bán nam bán nữ, ở tuổi non trẻ và già cả, khi có sự tan rã thân xác đều ngã xuống. Vì thế, con có ý nghĩ rằng: ‘Ta phải thực hành pháp tu tập.’

10. Tứ đại rã tan , chúng lụi dần,
Trẻ già, nam nữ, cả nhân quần
Ngã như trái rụng vì cây đổ;
Con quyết đời thanh tịnh bản thân

2699. Nāyaṃ vayo tārakarājasannibho yadabbhatītaṃ gatamevadāni taṃ, jiṇṇassa hi natthi ratī kuto sukhaṃ tamme matī hoti carāmi dhammaṃ.

2699. Tuổi tác này không như mặt trăng, chúa của các vì sao (khuyết rồi lại tròn), một khi nó đã trôi qua, thì nó đã đi qua hẳn vào khi ấy (không còn trở lại nữa). Thật sự đối với người già cả, sự vui sướng (ở các dục) không còn, làm sao có sự khoái lạc? Vì thế, con có ý nghĩ rằng: ‘Ta phải thực hành pháp tu tập.’

11. Xuân của thế gian khác nữ thần
Ngự trên tinh tú ấy cô Hằng
Chẳng bao giờ tuổi xuân về nữa
Ðối với lão niên kiệt quệ dần
Lạc thú ái ân nào có được?
Nên con quyết Phạm hạnh riêng phần.

2700. Yakkhā pisācā athavāpi petā kupitāpi te assasantī manusse, na maccuno assasitussahanti
tamme matī hoti carāmi dhammaṃ.

2700. Các Dạ-xoa, các yêu tinh, hoặc thậm chí các vong nhân, khi đã nổi giận, chúng thổi hơi (làm mê man) con người, nhưng không thể nào thổi hơi (làm mê man) đạo binh của Thần Chết. Vì thế, con có ý nghĩ rằng: ‘Ta phải thực hành pháp tu tập.’

12. Ác quỷ thần tiên, lúc nổi sân
Phun luồng khí độc hại phàm nhân,
Song làn khí độc thần linh ấy
Chẳng giúp vào xô ngã tử thần
Vì vậy lòng con giờ đã quyết
Cuộc đời thanh tịnh để riêng phần.

2701. Yakkhe pisāce athavāpi pete kupitepi te nijjhapanaṃ karonti, na maccuno nijjhapanaṃ karonti tamme matī hoti carāmi dhammaṃ.

2701. Con người (có thể) xoa dịu các Dạ-xoa, các yêu tinh, hoặc thậm chí các vong nhân đã nổi giận, nhưng không thể nào xoa dịu được đạo binh của Thần Chết. Vì thế, con có ý nghĩ rằng: ‘Ta phải thực hành pháp tu tập.’

13. Khi ác thần, yêu quái quỷ tinh
Nổi sân, được vuốt dịu làm lành
Do người cúng bái; song không thể
Làm tử thần tan hết bất bình
Vì vậy giờ con đây quyết định
Cuộc đời thanh tịnh để phần mình.

2702. Aparādhake heṭhake dūsake ca rājāno daṇḍenti viditva dosaṃ, na maccuno daṇḍayitussahanti
tamme matī hoti carāmi dhammaṃ.

2702. Các vị vua (có thể) trừng trị những kẻ phạm tội, những kẻ quấy rối, và những kẻ hư hỏng, sau khi biết được tội lỗi (của những kẻ ấy), nhưng không thể nào trừng trị đạo binh của Thần Chết. Vì thế, con có ý nghĩ rằng: ‘Ta phải thực hành pháp tu tập.’

14. Những người gây tội ác, hung tàn
Khi lộ, bị hình phạt chúa ban
Song với tử thần, không thể phạt
Nên con nguyền Phạm hạnh lên đàng

2703. Aparādhakā dūsakā heṭhakā ca labhanti te rājino nijjhapetuṃ, na maccuno nijjhapanaṃ karonti
tamme matī hoti carāmi dhammaṃ.

2703. Những kẻ phạm tội, những kẻ quấy rối, và những kẻ hư hỏng đạt được việc xoa dịu đối với các vị vua của họ, nhưng không thể nào xoa dịu được đạo binh của Thần Chết. Vì thế, con có ý nghĩ rằng: ‘Ta phải thực hành pháp tu tập.’

15. Những người gây tội ác đau thương
Tìm cách cản tay các đế vương
Song với tử thần tay lưỡi hái
Việc này xem quả thật vô phương.
Cho nên con quyết giờ đây chọn
Thanh tịnh đời con tiến thẳng đường

2704. Na khattiyoti na pi brāhmaṇoti na aḍḍhakā balavā tejavāpi, na maccurājassa apekhamatthi tamme matī hoti carāmi dhammaṃ.

2704. Tử Thần không có sự mong mỏi ở một chúng sanh nào, là ‘vị Sát-đế-lỵ’ cũng không, là ‘vị Bà-la-môn’ cũng không, những người giàu có, những người có năng lực, những người có uy quyền cũng không. Vì thế, con có ý nghĩ rằng: ‘Ta phải thực hành pháp tu tập.’

16. Quân vương, võ tướng, Bà-la-môn
Những kẻ mang danh vị tối tôn,
Những đại phú gia, người thế lực
Tử thần cũng chẳng rũ lòng thương
Cho nên con quyết từ đây sống
Phạm hạnh đời con đã chọn đường

2705. Sīhāca vyagghāca athopi dīpiyo pasayha khādanti vipphandamānaṃ, na maccuno khādituṃ ussahanti
tamme matī hoti carāmi dhammaṃ.

2705. Các con sư tử, các con cọp, và luôn cả các con báo (có thể) dùng bạo lực nhai ngấu nghiến con mồi đang giãy giụa, nhưng không thể nào nhai ngấu nghiến đạo binh của Thần Chết. Vì thế, con có ý nghĩ rằng: ‘Ta phải thực hành pháp tu tập.’

17. Cọp beo, sư tử chụp con mồi
Tất cả đều ăn sống nuốt tươi
Cho dẫu con mồi mong giãy giụa
Tử thần đâu sợ hổ, sư nhai!
Cho nên con trẻ từ đây quyết
Phạm hạnh riêng con sống cả đời

2706. Māyakārā raṅgamajjhe karontā mohenti cakkhūni janassa tāvade, na maccuno mohayitussahanti
tamme matī hoti carāmi dhammaṃ.

2706. Những người làm ảo thuật, trong khi biểu diễn ở giữa khán đài, đánh lừa các con mắt của người xem vào lúc ấy, nhưng không thể nào mê hoặc được đạo binh của Thần Chết. Vì thế, con có ý nghĩ rằng: ‘Ta phải thực hành pháp tu tập.’

18. Kẻ xiếc trên sân khấu lộn sòng
Diễn trò lừa bịp mắt người trông
Muốn lừa thần chết, không mưu kế;
Thánh hạnh đời con đã quyết lòng

2707. Āsīvisā kupitā uggatejā ḍasanti mārentipi te manusse, na maccuno ḍasituṃ ussahanti tamme matī hoti carāmi dhammaṃ.

2707. Các con rắn có nọc độc bị nổi giận thì có uy lực hung bạo. Chúng cắn và giết chết nhiều người, nhưng không thể nào cắn được đạo binh của Thần Chết. Vì thế, con có ý nghĩ rằng: ‘Ta phải thực hành pháp tu tập.’

19. Nọc độc rắn rồng lúc nổi sân
Tấn công, giết lập tức người trần;
Nọc kia, thần chết không hề sợ;
Thanh tịnh đời con quyết chọn phần

2708. Āsīvisā kupitā yaṃ ḍasanti tikicchakā tesaṃ visaṃ hananti,  na maccuno daṭṭhavisaṃ hananti
tamme matī hoti carāmi dhammaṃ.

2708. Các con rắn có nọc độc bị nổi giận rồi cắn người nào, các thầy thuốc (có thể) tiêu diệt nọc độc của chúng, nhưng không thể nào tiêu diệt được nọc độc đã cắn vào của Thần Chết. Vì thế, con có ý nghĩ rằng: ‘Ta phải thực hành pháp tu tập.’

20. Nanh độc rắn dùng lúc nổi sân,
Vị lương y có đủ tài năng
Làm tiêu tan hết xà công lực
Song chữa vết thương của Tử thần
Không một anh hùng nào đủ sức
Nên con quyết Phạm hạnh riêng phần

2709. Dhammantarī vetaraṇī ca bhojo visāni hantvāna bhujaṅgamānaṃ, sūyanti te kālakatā tatheva
tamme matī hoti carāmi dhammaṃ.

2709. Dhammantarī, Vetaraṇī, và Bhoja được nổi tiếng sau khi tiêu diệt các nọc độc của những con rắn. Họ đã qua đời tương tự y như thế. Vì thế, con có ý nghĩ rằng: ‘Ta phải thực hành pháp tu tập.’

21. Lương y chữa nọc rắn tài tình,
Ðã chết, giờ đây khuất bóng hình:
Bố-giạ, Vệ-tài, Ða-mẫn nữa
Nên con quyết Phạm hạnh cho mình

2710. Vijjādharā ghoramadhīyamānā adassanaṃ osadhehi vajanti, na maccurājassa vajantadassanaṃ
tamme matī hoti carāmi dhammaṃ.

2710. Các nhà pháp thuật trong khi học thần chú Ghora (có thể) tàng hình di chuyển nhờ vào các phương thuốc, nhưng không thể nào tàng hình di chuyển đối với Ma Vương. Vì thế, con có ý nghĩ rằng: ‘Ta phải thực hành pháp tu tập.’

22. Vài kẻ tinh thông thuật, chú thần,
Tàng hình đi trước mặt tha nhân,
Tuy nhiên không thể tàn hình mãi
Mà tử thần trông thấy vẫn gần
Vì vậy lòng con nay quyết định:
Cuộc đời thanh tịnh để riêng phần

2711. Dhammo have rakkhati dhammacāriṃ dhammo suciṇṇo sukhamāvahāti, esānisaṃso dhamme suciṇṇe na duggatiṃ gacchati dhammacārī.

2711. Thật vậy, thiện pháp hộ trì người có sự thực hành thiện pháp. Thiện pháp khéo được thực hành đem lại sự an lạc. Điều này là quả báu khi thiện pháp khéo được thực hành: Người có sự thực hành thiện pháp không đi đến cảnh giới khổ đau.

23. Bất cứ ai theo hạnh phúc chánh chân
Ðều là người được hưởng bình an,
Khéo hành chánh đạo nhiều công đức,
Hạnh phúc thay là bậc chánh nhân!
Chẳng bao giờ có người chánh hạnh
Rơi vào trong đọa xứ đau buồn

2712. Na hi dhammo adhammo ca ubho samavipākino, adhammo nirayaṃ neti dhammo pāpeti suggatinti.

2712. Bởi vì cả hai thiện pháp và phi pháp không có quả thành tựu giống nhau. Phi pháp dẫn đến địa ngục, thiện pháp giúp cho đạt được nhàn cảnh.”

24. Ðúng chăng nghiệp quả của riêng mình
Ðều phải do tà, chánh phát sinh?
Tà hạnh dẫn người vào địa ngục
Chánh chân đưa đến cõi thiên đình.

Ayogharajātakaṃ.

***

Bổn sanh Tòa Nhà Sắt. [510]

***



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada