(Tiền thân Hatthipàla)

2664. Cirassaṃ vata passāma brāhmaṇaṃ devavaṇṇinaṃ, mahājaṭaṃ khāridharaṃ paṅkadantaṃ rajassiraṃ.  

2664. “Quả thật đã lâu lắm chúng tôi mới nhìn thấy vị Bà-la-môn có dáng vóc Thiên thần, có bện tóc to, đang mang túi vật dụng, có răng bị đóng bợn, có đầu lấm bụi.

1. Cuối cùng thấy được Bà-la-môn
Ðầu tóc búi to, tựa Thánh thần,
Răng bẩn, hôi dơ đầy bụi bặm,
Lại gồng gánh nặng nhọc trên lưng.

2665. Cirassaṃ vata passāma isiṃ dhammaguṇe rataṃ, kāsāyavatta vasanaṃ vākacīraṃ paṭicchadaṃ.  

2665. Quả thật đã lâu lắm chúng tôi mới nhìn thấy vị ẩn sĩ thỏa thích trong đức hạnh của thiện pháp, mặc vải màu ca-sa, che thân bằng y phục sợi vỏ cây.

2. Cuối cùng thấy được một hiền nhân
Vui thú theo đường lối chánh chân
Với vỏ cây làm y phủ kín,
Và thêm một chiếc nữa màu vàng.

2666. Āsanaṃ udakaṃ pajjaṃ patigaṇhātu no bhavaṃ, agghe bhavantaṃ pucchāma agghaṃ kurutu no bhavaṃ.

2666. Thưa đại đức, xin ngài hãy thọ nhận chỗ ngồi, nước rửa chân, dầu thoa chân của chúng tôi. Chúng tôi hỏi dâng đại đức các vật có giá trị, thưa đại đức, xin ngài hãy làm vẻ vang cho chúng tôi (bằng sự thọ nhận).”

3. Xin nhận tọa sàng nước rửa chăn,
Thật là chân chánh lúc đem dâng,
Tặng nhiều thực phẩm chư hiền khách,
Xin nhận, vì gia chủ đón mừng.

2667. Adhicca vede pariyesa vittaṃ putte gehe tāta patiṭṭhapetvā, gandhe rase paccanubhuyya sabbaṃ araññaṃ sādhu muni so pasattho.

2667. “Này con, sau khi đã học các kinh Vệ Đà, con hãy tầm cầu của cải. Sau khi đã ổn định về con cái và nhà cửa, sau khi đã hưởng thụ các hương, các vị, và mọi thứ (vật dục), khu rừng là (sự chọn lựa) tốt đẹp (cho vị xuất gia lúc tuổi già); vị hiền trí ấy được ca ngợi.

4. Học Vệ-đà kinh, việc trước tiên,
Làm giàu và cướp vợ vầy duyên,
Nhiều con, hưởng thú vui trần thế,
Thanh, sắc cùng hương, vị, xúc êm,
Sau đó ẩn cư rừng khả ái,
Thế là người trí xứng danh hiền.

2668. Vedā na saccā na ca vittalābho na puttalābhena jaraṃ vihanti, gandhe rase muñcanamāhu sante sakammanā hoti phalūpapatti.  

2668. “Các kinh Vệ Đà không phải là chân lý, và sự đạt được của cải cũng không phải. Con người không tránh khỏi sự già do việc có được con cái. Các vị hiền nhân đã nói về sự giải thoát đối với các hương và các vị. Sự thành tựu quả báo là do nghiệp của bản thân.”

5. Chân lý không sao lại đạt thành
Từ vàng bạc hoặc Vệ-đà kinh,
Nhiều con chẳng khỏi thành già cả,
Có lối thoát ra mọi dục tình,
Như các trí nhân đều thấu suốt:
Gieo gì gặt nấy kiếp lai sinh.

2669. Addhā hi saccaṃ vacanaṃ tavetaṃ sakammanā8 hoti phalūpapatti, jiṇṇā ca mātāpitaro tavayime
passeyyu taṃ vassasataṃ arogaṃ.  

2669. “Quả thật vậy, lời nói ấy của con là sự thật. Sự thành tựu quả báo là do nghiệp của bản thân. Mẹ và cha của con đã già, họ có thể nhìn thấy con sống khỏe mạnh đến trăm tuổi.”

6. Lời tự mồm con quả thật chân:
Ðời sau ta gặt thứ đang trồng,
Hai thân con đó, nay già yếu
Song các người mong muốn thấy rằng
Cuộc sống trăm năm đầy hạnh phúc
An khang cho trẻ hưởng riêng phần.

2670. Yassassa sakkhī maraṇena rāja jarāya metti naraviriyaseṭṭha, yo cāpi jaññā na marissaṃ kadāci
passeyyu taṃ vassasataṃ ārogaṃ.  

2670. “ Tâu bệ hạ, người nào có thể có tình bạn với sự chết, (hoặc) có tình thân hữu với sự già, tâu đấng tối thượng dũng mãnh của loài người, và người nào lại có thể biết được rằng mình sẽ không chết vào bất cứ lúc nào, họ có thể nhìn thấy bệ hạ sống khỏe mạnh đến trăm tuổi chăng?

7. Kẻ nào khi chết, tấu Anh quân,
Có thể tìm ra một bạn thân,
Ðã ký với tuổi già thỏa ước
Ðể cho người ấy chẳng từ trần,
Mong lời cầu nguyện trên Hoàng thượng
Dành bách niên kẻ đó hưởng phần.

2671. Yathāpi nāvaṃ puriso dakamhi ereti cenaṃ upaneti tīraṃ, evampi vyādhi satataṃ jarā ca
upanenti maccaṃ vasamantakassa.  

2671. Cũng giống như người đàn ông chèo chiếc thuyền ở trong nước và đưa nó đến gần bờ, cũng tương tự như thế, bệnh và già thường xuyên đưa con người đến gần quyền lực của Thần Chết.”

8. Cũng giống như người lái vượt dòng,
Con thuyền sang bến nọ bên sông,
Phàm nhân đều vậy, không sao khỏi
Bệnh, lão niên, rồi tử, mệnh chung.

2672. Paṅko va kāmā palipo ca kāmā manoharā duttarā maccudheyyā, etasmiṃ paṅke palipe vyasannā
hīnattarūpā na taranti pāraṃ.

2672. “Các dục tựa như đất bùn, và các dục là đầm lầy, hấp dẫn, khó vượt qua, là lãnh địa của Ma Vương. Những người bị chìm vào đất bùn, đầm lầy này có trạng thái tâm hạ liệt, không vượt qua đến bờ kia.

9. Dục lạc là bùn bẩn, uế nhơ,
Tham tâm gây chết chóc, sầu tư,
Ai chìm trong đám bùn vô trí
Không thể bước sang đến bến bờ.

2673. Ayaṃ pure luddamakāsi kammaṃ svāyaṃ gahīto na hi mokkhito me, orundhiyānaṃ parirakkhissāmi
māyaṃ puna luddamakāsi kammaṃ.  

2673. Bản thân này trước đây đã tạo nghiệp hung bạo. Quả thành tựu của nghiệp ấy con phải gánh lấy, không bao giờ có sự thoát khỏi ác nghiệp đối với con. Con sẽ gìn giữ bản thân kỹ lưỡng bằng sự ngăn chặn. Chớ để bản thân này tạo nghiệp hung bạo nữa.”

10. Ðây là kẻ đã chịu sầu tư,
Nó bị bắt giam trước đến giờ,
Tìm lối thoát thân nào chẳng thấy;
Ðể không làm những chuyện như xưa
Từ nay con quyết lòng xây dựng
Những bức tường không thể lọt vô.

2674. Gāvaṃva naṭṭhaṃ puriso yathā vane pariyesatī rāja apassamāno, evaṃ naṭṭho esukārī mamattho
sohaṃ kathaṃ na gaveseyya rāja.  

2674. “Tâu bệ hạ, giống như người tìm kiếm chỉ mỗi con bò bị lạc mất ở trong rừng mà không tìm thấy, tương tự như vậy, tâu đức vua Esukārī, mục đích của thần đã bị lạc mất, tâu bệ hạ, tại sao thần đây không tìm lại (và đi theo đạo lộ của các anh trai)?

11. Như tìm bò cái lạc trên đường,
Bối rối, loanh quanh mãi giữa rừng,
Cũng vậy, an vui con đã mất,
Sao còn do dự với phân vân,
Xin tâu Chúa thượng E-su rõ,
Khi bước đi tìm theo dấu chân?

2675. Hiyyoti hīyati poso paretha parihāyati, anāgataṃ netamatthīti ñatvā uppannaṃ chandaṃ kopanudeyya dhīro.

2675. Kẻ buông xuôi (nghĩ rằng): ‘Để ngày mai,’ rồi buông bỏ (nghĩ rằng): ‘Để ngày khác.’ Bậc sáng trí, sau khi biết rằng: ‘Việc gì để ngày mai, việc ấy là không có,’ rồi nên xúc tiến điều ước muốn đã được sanh khởi.”

12. Ngày mai! Kêu lớn gã ngu nhân,
Gã thét: ngày mai! mãi chẳng ngừng,
"Thời vị lai không còn sự nghiệp!"
Bậc hiền nhân vẫn cứ khuyên răn,
Chẳng bao giờ bậc hiền khinh rẻ
Thiện nghiệp nằm ngay đúng với tầm.

2676. Passāmi vohaṃ dahariṃ kumāriṃ mattūpamaṃ ketakapupphanettaṃ, abhuttabhoge paṭhame vayasmiṃ
ādāya maccu vajate kumāriṃ.

2676. “Thần quả có nhìn thấy người thiếu nữ trẻ trung đang say đắm (cười nói), có cặp mắt (to và dài) như bông hoa ketaka, ở vào giai đoạn đầu của cuộc đời khi thú vui còn chưa được hưởng thụ, thì tử thần đã đoạt lấy người thiếu nữ rồi ra đi.

13. Con thường trông thiếu nữ xinh tươi,
Mắt sáng, say sưa với cuộc đời,
Chưa hưởng phần vui xuân mới hé:
Tử thần mang liễu yếu đi rồi!

2677. Yuvā sujāto sumukho sudassano sāmo kusumbhaparikiṇṇamassu, hitvāna kāme paṭigacca gehaṃ
anujāna maṃ pabbajissāmi deva.

2677. Thần trẻ tuổi, có dòng dõi cao sang, có khuôn mặt thanh tú, có vóc dáng đẹp, có làn da vàng sẫm, có bộ râu tua tủa như nhụy bông hoa kusumbha. Tâu bệ hạ, thần sẽ từ bỏ các dục, lìa xa gia đình, và xuất gia. Xin bệ hạ cho phép thần.”

14. Cũng vậy nhiều nam tử thật sang,
Khôi ngô, cường tráng tuổi xuân quang,
Bao quanh những chiếc cằm đen nhánh
Xúm xít chòm râu cứ mọc tràn
Con giã biệt đời người thế tục
Cùng bao dục lạc của trần gian,
Ðể làm ẩn sĩ, xin tha thứ,
Và hãy trở về chốn cố hương.

2678. Sākhāhi rukkho labhate samaññaṃ pahīnasākhaṃ pana khāṇumāhu, pahīnaputtassa mamajja hoti
vāseṭṭhi bhikkhācariyāya kālo.

2678. “Nhờ vào những cành cây mà cây cối đạt được tên gọi riêng; hơn nữa, khi cành cây bị chặt bỏ thì người ta đã gọi là gốc cây. Này bà Vāseṭṭhī, khi đứa con trai đã dứt bỏ (ra đi), thì hôm nay là thời điểm thực hành hạnh khất thực của ta.”

15. Cái vật kia đâm lộc trổ cành,
Người ta gọi đó một cây xanh,
Chặt cành, chẳng phải là cây nữa,
Nó chỉ còn trơ trụi khúc mình.
Người chẳng cháu con gì cũng vậy,
Hỡi phu nhân quý tộc cao danh,
Ðây là thời điểm dành cho lão
Sống cuộc đời tu tập Thánh hành.

2679. Aghasmiṃ koñcāva yathā himaccaye tantāni jālāni padāḷeyya haṃsā, gacchanti puttā ca patī ca mayhaṃ sāhaṃ kathaṃ nānuvaje pajānaṃ.

2679. “Tựa như loài chim diệc di chuyển ở không trung, giống như loài chim thiên nga phá vỡ các mạng lưới đã được giăng mắc (bởi loài nhện) lúc đã hết mùa đông, các con trai và người chồng của ta ra đi, tại sao ta đây, trong khi nhận biết như thế, lại không đi theo họ?”

16. Tháng ngày mưa gió đã qua,
Lưới kia đã bị thiên nga phá rồi,
Tự do bay lượn giữa trời,
Như đàn sếu hạc tung đôi cánh liền,
Vậy ta theo đúng đường thiêng
Chồng con đã bước, ta tìm tâm minh.

2680. Ete bhutvā vamitvā ca pakkamanti vihaṅgamā, ye ca bhutvā na vamiṃsu te me hatthatthamāgatā.

2680. “Những con chim này sau khi ăn, đã ói ra rồi bay đi; còn những con chim nào sau khi ăn mà không ói ra, chúng đi đến ở trong bàn tay của thiếp.

17. Ðám nọ đã ăn, đã mửa rồi!
Tự do bay lượn giữa bầu trời:
Ðám kia ăn nán và lưu lại,
Giờ bị bắt giam bởi thiếp rồi.

2681. Avamī brāhmaṇo kāme te tvaṃ paccāvamissasi, vantādo puriso rāja na so hoti pasaṃsiyo.  

2681. Vị Bà-la-môn đã ói ra các dục, không lẽ bệ hạ sẽ thụ hưởng các dục ấy sao? Tâu bệ hạ, kẻ ăn vào vật đã được ói ra bởi kẻ khác, kẻ ấy không đáng được khen ngợi.”

18. Vị tế sư nôn hết dục tham,
Vật kia, Chúa thượng muốn ăn phàm?
Người ăn đồ mửa, tâu Hoàng thượng,
Xứng đáng chê bai cực tệ tàn!

2682. Paṅkeva posaṃ palipe vyasannaṃ balī yathā dubbalaṃ uddhareyya, evampi maṃ tvaṃ udatāri hoti pañcāli gāthāhi subhāsitāhi.

2682. “Giống như người có sức mạnh vớt lên người yếu đuối bị chìm đắm từ chính vũng bùn ở trong đầm lầy, cũng tương tự như vậy, này Pañcālī, nàng là người đã nâng trẫm lên bằng những kệ ngôn được thốt ra khéo léo.”

19- Khác nào người lực sĩ can cường
Giúp cánh tay vì kẻ yếu hơn
Bị chìm trong vũng bùn dơ bẩn,
Hay bãi cát lầy đã lún thân.
Chánh hậu Pan-ca này cũng vậy,
Nàng vừa giải cứu đấng quân vương
Bằng nhiều vần kệ ngâm êm dịu
Như mật rót tai trẫm dịu dàng!

2683. Idaṃ vatvā mahārājā esukārī disampati, raṭṭhaṃ hitvāna pabbaji nāgo chetvā va bandhanaṃ.

2683. Sau khi nói điều này, vị đại vương Esukārī, bậc chúa tể một phương, đã từ bỏ vương quốc rồi xuất gia, tựa như con voi đã giật đứt sự trói buộc rồi ra đi.

20. Như vậy, E-su-kà Ðại vương
Nắm quyền nhiều lãnh thổ, giang sơn
Từ vua, ngài hóa thành tu sĩ
Như thể voi vùng đứt bộ cương.

2684. Rājā ca pabbajjamarocayittha raṭṭhaṃ pahāya naraviriyaseṭṭho, tuvampi no hohi yatheva rājā
amhehi guttaṃ anusāsa rajjaṃ.

2684. “Đức vua đã ưa thích việc xuất gia. Đấng tối thượng dũng mãnh của loài người đã từ bỏ vương quốc. Đối với chúng thần, hoàng hậu cũng giống y như là đức vua. Hoàng hậu hãy trị vì xứ sở đã được bảo vệ bởi chúng thần.”

21. An lạc thay là đấng Thánh quân
Trở thành ẩn sĩ bỏ phàm trần
Chúng thần nay nguyện cầu hoàng hậu
Vào ngự trong ngôi vị đế vương
Xin hãy yêu thương toàn quốc độ,
Ðược tay phò trợ của quần thần.

XXXX. Rājā ca pabbajjamarocayittha raṭṭhaṃ pahāya naraviriyaseṭṭho, ahampi ekā carissāmi loke
hitvāna kāmāni manoramāni.

XXXX. “Đức vua đã ưa thích việc xuất gia. Đấng tối thượng dũng mãnh của loài người đã từ bỏ vương quốc. Bổn cung cũng sẽ đơn độc sống ở thế gian, sau khi đã từ bỏ các dục quyến rũ.

(Câu kệ này không có ở Tạng Sri Lanka)

22. An lạc thay là đấng Thánh Quân
Trở thành ẩn sĩ, bỏ phàm trần
Bây giờ hãy biết rằng ta quyết
Tiến bước đơn thân giữa thế nhân
Cùng bao lạc thú đủ toàn phần.

2685. Rājā ca pabbajjamarocayittha raṭṭhaṃ pahāya naraviriyaseṭṭho, ahampi ekāva carissāmi loke
hitvāna kāmāni yathodhikāni.

2685. “Đức vua đã ưa thích việc xuất gia. Đấng tối thượng dũng mãnh của loài người đã từ bỏ vương quốc. Bổn cung cũng sẽ đơn độc sống ở thế gian, sau khi đã từ bỏ các dục còn nguyên vẹn (không đụng chạm đến).

23. An lạc thay là đấng Thánh quân
Trở thành ẩn sĩ, bỏ phàm trần
Bây giờ hãy biết rằng ta quyết
Tiến bước đơn thân giữa thế nhân,
Bất cứ nơi nào còn ngũ dục
Ta đều vứt bỏ chúng toàn phần.

2686. Accenti kālā tarayanti rattiyo vayoguṇā anupubbaṃ jahanti, ahampi ekāva carissāmi loke
hitvāna kāmāni manoramāni.

2686. Các thời khắc (ban ngày) đi qua, các đêm tối trôi qua, các giai đoạn của tuổi thọ lần lượt từ bỏ. Bổn cung cũng sẽ đơn độc sống ở thế gian, sau khi đã từ bỏ các dục quyến rũ.

24. Thời gian trôi, sáng tối không ngừng
Dung sắc thanh xuân phải úa dần
Nay hãy biết rằng ta đã quyết
Bước đi đơn độc giữa phàm trần
Giã từ khát vọng và tham ái
Cùng các thú vui đủ mọi phàm.

2687. Accenti kālā tarayanti rattiyo vayoguṇā anupubbaṃ jahanti, ahampi ekāva carissāmi loke hitvāna kāmāni yathodhikāni.

2687. Các thời khắc (ban ngày) đi qua, các đêm tối trôi qua, các giai đoạn của tuổi thọ lần lượt từ bỏ. Bổn cung cũng sẽ đơn độc sống ở thế gian, sau khi đã từ bỏ các dục còn nguyên vẹn (không đụng chạm đến).

25. Thời gian trôi, sáng tối qua dần
Phải úa tàn bao vẻ đẹp xuân
Nay hãy biết rằng ta quyết chí
Bước đi đơn độc giữa phàm trần
Nơi nào bất kể còn tham dục
Ta cũng rời xa chúng mọi phần

2688. Accenti kālā tarayanti rattiyo vayoguṇā anupubbaṃ jahanti, ahampi ekāva carissāmi loke sītibhūtā sabbamaticca saṅgan ”ti.

2688. Các thời khắc (ban ngày) đi qua, các đêm tối trôi qua, các giai đoạn của tuổi thọ lần lượt từ bỏ. Bổn cung cũng sẽ đơn độc sống ở thế gian, có trạng thái mát mẻ, sau khi đã vượt qua mọi sự quyến luyến.”

26. Thời gian trôi, sáng tối xoay vần
Hương sắc thanh tân phải úa dần,
Nay hãy biết rằng ta ước nguyện
Bước đi đơn độc giữa phàm trần
Mọi dây ràng buộc đều quăng bỏ
Cũng chẳng còn uy lực dục tâm

Hatthipālajātakaṃ.

***

Bổn sanh Vương Tử Hatthipāla. [509]



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada