(Tiền thân Panca-Pandita)
2642. Pañca paṇḍitā samāgatā pañho me paṭibhāti taṃ suṇātha, nindiyamatthaṃ pasaṃsiyaṃ vā kassevāvikareyya guyhamatthaṃ.
2642. “Năm bậc nhân sĩ đã tụ hội lại. Có câu hỏi lóe lên ở trẫm, các vị hãy lắng nghe điều ấy. Có nên bày tỏ việc cần phải giấu kín đến người nào khác, cho dầu là việc đáng bị chê bai hay là việc đáng được khen ngợi?”
54. Năm vị hiền nhân họp buổi nay,
Vấn đề trẫm chợt nghĩ, nghe đây:
Cùng ai, bí mật nên bày tỏ,
Dù tốt xấu, hay dở, nói ngay!
2643. Tvaṃ no āvikarohi bhūmipāla bhattā bhārasaho tuvaṃ vadetaṃ, tava chandañca ruciñca sammasitvā atha vakkhanti janinda pañca dhīrā.
2643. “Tâu đấng hộ quốc, xin bệ hạ hãy bày tỏ với chúng thần. Bệ hạ là chủ nhân, là người nâng đỡ gánh nặng cho chúng thần, xin bệ hạ hãy nói ra. Tâu vị chúa của loài người, sau khi nắm bắt được mong muốn và ý thích của bệ hạ, khi ấy năm vị sáng trí sẽ phát biểu.”
55. Xin Đại vương cho biết ý trời,
Muôn tâu Chúa thượng ở trên đời,
Là người bảo hộ, cưu mang nặng,
Năm trí giả mong hiểu ý ngài,
Cùng sở thích ngài, xin hãy nói,
Muôn tâu chúa tể cõi trần ai!
2644. Yā sīlavatī anaññadheyyā bhattucchandavasānugā manāpā, nindiyamatthaṃ pasaṃsiyaṃ vā
bhariyāyāvikareyya guyhamatthaṃ.
2644. “Cho dầu là việc đáng bị chê bai hay là việc đáng được khen ngợi, nên bày tỏ việc cần phải giấu kín đến người vợ, (nếu) nàng là người có giới hạnh, không thể bị xúi giục bởi người khác, hợp ý, chiều theo sự mong muốn và mệnh lệnh của chồng.”
56. Nếu nữ nhân đức hạnh phục tùng,
Tuân theo ý nguyện của phu quân,
Đầy tình thân ái thì nên nói,
Điều bí mật, hay dở mặc lòng!
2645. Yo kicchagatassa āturassa saraṇaṃ hoti gatī parāyaṇañca, nindiyamatthaṃ pasaṃsiyaṃ vā
sakhinovāvikareyya guyhamatthaṃ.
2645. “Cho dầu là việc đáng bị chê bai hay là việc đáng được khen ngợi, nên bày tỏ việc cần phải giấu kín đến người bạn, (nếu) vị ấy là nơi nương tựa, nơi đi đến, nơi nâng đỡ của người gặp khó khăn, của người bị bệnh.”
57. Ai bảo vệ người bệnh khốn cùng,
Là nguồn cấp dưỡng, chốn nương thân,
Thì nên bày tỏ cùng thân hữu.
Điều bí mật, hay dở mặc lòng.
2646. Jeṭṭho atha majjhimo kaṇiṭṭho so ce sīlavato samāhito ṭhitatto, nindiyamatthaṃ pasaṃsiyaṃ vā
bhātuvāvikareyya guyhamatthaṃ.
2646. “Cho dầu là việc đáng bị chê bai hay là việc đáng được khen ngợi, nên bày tỏ việc cần phải giấu kín đến anh em trai, là người anh cả, anh thứ, hay em út, nếu người ấy có giới hạnh, trầm tĩnh, có bản tánh kiên định.”
58. Dù già hay trẻ, hoặc trung niên,
Nếu chú em đức hạnh, đáng khen,
Với chú em này, điều bí mật,
Dù là tốt xấu, hãy nêu lên.
2647. Yo ve hadayassa paddhagu anujāto pitaraṃ anomapañño, nindiyamatthaṃ pasaṃsiyaṃ vā
puttassāvikareyya guyhamatthaṃ.
2647. “Cho dầu là việc đáng bị chê bai hay là việc đáng được khen ngợi, nên bày tỏ việc cần phải giấu kín đến người con trai, là người tuân phục sự sai bảo của cha, người con tiếp nối sự nghiệp của cha, có trí tuệ không kém cỏi.”
59. Khi đứa con vâng phục ý cha,
Con trai thành thật, trí cao xa,
Với con như vậy, thì nên nói,
Điều bí mật, dù tốt xấu mà.
2648. Mātā dipadā janindaseṭṭha yā taṃ poseti chandasā piyena, nindiyamatthaṃ pasaṃsiyaṃ vā mātuyāvikareyya guyhamatthaṃ.
2648. “Tâu vị chúa tối thượng của loài người có hai chân, cho dầu là việc đáng bị chê bai hay là việc đáng được khen ngợi, nên bày tỏ việc cần phải giấu kín đến người mẹ, là người mẹ nuôi dưỡng kẻ ấy với sự mong mỏi, với sự yêu mến.”
60. Muôn tâu Chúa tể của quần sinh,
Nếu mẹ yêu con thật tận tình,
Đối với mẹ này, điều bí mật
Dở hay, có thể nói cho rành.
2649. Guyhassa hi guyhameva sādhu na hi guyhassa pasatthamāvikammaṃ, anipphādāya saheyya dhīro
nipphannattho yathāsukhaṃ bhaṇeyya.
2649. “Riêng đối với việc cần phải giấu kín, chỉ có việc giấu kín là tốt, bởi vì đối với việc cần phải giấu kín, sự bày tỏ là không được khen ngợi. Khi việc chưa được hoàn tất, vị sáng trí nên chịu đựng; khi việc đã được hoàn tất, thì có thể nói một cách thoải mái.”
61. Giữ gìn bí mật chính là hay,
Chẳng đáng khen cơ mật tỏ bày,
Người khôn phải giữ điều thầm kín,
Khi việc chưa thành tựu, khéo thay!
Sau lúc thực hành điều bí mật,
Khi người muốn, có thể nêu ngay.
2650. Kinnu tvaṃ vimanosi rājaseṭṭha dipadinda vacanaṃ suṇoma netaṃ, kiṃ cintayamāno dummanosi
nūna deva aparādho atthi mayhaṃ.
2650. “Tâu chúa thượng, việc gì khiến bệ hạ ưu tư? Tâu vị chúa của loài người, bọn thiếp không nghe nói gì về việc ấy. Trong khi suy nghĩ về việc gì mà ngài phiền muộn? Tâu bệ hạ, không lẽ thiếp có lỗi lầm gì chăng?”
62. Vì sao lo lắng, tâu Quân vương?
Thần thiếp chẳng nghe giọng Chúa công,
Hoàng thượng nghĩ gì sinh khổ não,
Có gì lầm lỗi, thiếp làm chăng?
2651. Pañño vajjho mahosadhoti āṇatto me vadhāya bhūripaññā, taṃ cintayanto dummanosmi
na hi devi aparādho atthi tuyhaṃ.
2651. “‘Kẻ có trí Mahosadha đáng bị giết chết,’ (nghe vậy) trẫm đã ra lệnh hành quyết bậc có trí tuệ uyên bác. Trong khi suy nghĩ về việc ấy khiến trẫm phiền muộn. Này hoàng hậu, nàng chẳng có lỗi lầm gì.”
63. Chúng tâu: "Trí giả Đại Sa-dha
Phải bị giết ngay vì đức vua",
Đệ nhất hiền nhân, ta xử trảm,
Khi ta nghĩ vậy, trí buồn lo.
Không gì lầm lỗi từ khanh cả,
Hỡi ái hậu yêu dấu của ta.
2652. Abhidosagato idāni esi kiṃ sutvā kimāsaṅkate mano te, ko te kimavoca bhūripañña iṅgha taṃ vacanaṃ suṇoma brūhi metaṃ.
2652. “Tối hôm qua khanh đã ra về, bây giờ khanh đi đến. Khanh đã nghe điều gì? Ý của khanh nghi ngờ điều gì? Này bậc có trí tuệ uyên bác, người nào đã nói điều gì với khanh? Nào, hãy cho chúng ta nghe lời nói ấy. Khanh hãy nói điều ấy với trẫm.”
64. Chiều tối hôm qua, con đã đi,
Bây giờ lại đến, hỡi vương nhi!
Điều gì lo sợ trong tâm trí,
Hoặc giả con nghe nói những gì?
Ai bảo con làm, này Trí giả,
Nào ta lắng đợi, nói ngay đi!
2653. Pañño vajho mahosadhoti yadi te mantayitaṃ janinda dosaṃ, bhariyāya rahogato asaṃsi
guyhaṃ pātukataṃ sutaṃ mametaṃ.
2653. “Tâu vị chúa của loài người, nếu điều đã được nói ra bởi bệ hạ tối hôm qua rằng: ‘Kẻ có trí Mahosadha đáng bị giết chết,’ rồi bệ hạ đã tiết lộ cho người vợ ở nơi kín đáo. (Như thế) việc cần phải giấu kín đã được rõ ràng, (bởi vì) thần đã nghe được điều ấy.
65. Bậc hiền trí Đại O-sadha,
Phải bị giết ngay, nếu tối qua,
Ngài kể chuyện này cho chánh hậu,
Thì điều bí mật bị phơi ra!
2654. Yaṃ sālavanasmiṃ senako pāpakammaṃ akāsi asabbhirūpaṃ, sakhinova rahogato asaṃsi
guyhaṃ pātukataṃ sutaṃ mametaṃ.
2654. Việc Senaka đã làm hành động xấu xa, có hình thức không tốt lành, ở khu rừng cây sāla, rồi đã tiết lộ cho người bạn ở nơi kín đáo. (Như thế) việc cần phải giấu kín đã được rõ ràng, (bởi vì) thần đã nghe được điều ấy.
66. Tội ác bạo tàn Se-na-ka,
Đã làm trong bụi rậm Sà-la,
Lão cho bạn biết nơi thầm kín,
Thần đã nghe: cơ mật lộ ra!
2655. Pukkusapurisassa te janinda uppanno rogo arājayutto, bhātucca rahogato asaṃsi guyhaṃ pātukataṃ sutaṃ mametaṃ.
2655. Tâu vị chúa của loài người, Pukkusa, người của bệ hạ, đã bị phát khởi chứng bệnh (phong cùi), không thích hợp để đức vua chạm đến. Lão đã tiết lộ cho người em trai ở nơi kín đáo. (Như thế) việc cần phải giấu kín đã được rõ ràng, (bởi vì) thần đã nghe được điều ấy.
67. Trong người này, lão Pu-ku-sa,
Có một bệnh không thích hợp cho,
Một đấng quân vương nào đụng chạm,
Lão đem bí mật nói riêng tư,
Cho em mình biết, điều thầm kín,
Thần đã nghe, được tiết lộ ra.
2656. Ābādhoyaṃ asabbhirūpo kāvindo naradevena phuṭṭho,puttassa rahogato asaṃsi guyhaṃ pātukataṃ sutaṃ mametaṃ.
2656. Căn bệnh này có hình thức không tốt lành, Kāvinda bị ám ảnh bởi Dạ-xoa Naradeva. Lão đã tiết lộ cho người con trai ở nơi kín đáo. (Như thế) việc cần phải giấu kín đã được rõ ràng, (bởi vì) thần đã nghe được điều ấy.
68. Kẻ kia bệnh hoạn, tính tà gian,
Bị quỷ Na-ra ám ảnh tâm,
Lão nói cho con điều bí mật,
Thần nghe bí mật bị phơi trần!
2657. Aṭṭhavaṅkaṃ maṇiratanaṃ uḷāraṃ sakko te adadā pitāmahassa devindassa gataṃ tadajja hatthaṃ
mātucca rahogato asaṃsi guyhaṃ pātukataṃ sutaṃ mametaṃ.
2657. Thiên chủ Sakka đã cho đến ông nội của bệ hạ viên bảo ngọc ma-ni tuyệt hảo, có tám mặt. Hôm nay, viên ngọc ấy đã rơi vào tay của Devinda. Lão đã tiết lộ cho người mẹ ở nơi kín đáo. (Như thế) việc cần phải giấu kín đã được rõ ràng, (bởi vì) thần đã nghe được điều ấy.
69. Bát giác ngọc thần ấy thuở xưa,
Thượng hoàng được tặng bởi Sak-ka,
De-vin-da giữ trong tay lão,
Lão kể chuyện kia với mẹ già,
Trong chỗ kín, thần nghe thấy được,
Điều cơ mật ấy được phôi ra!
2658. Guyhassa hi guyhameva sādhu na hi guyhassa pasatthamāvikammaṃ, anipphādāya saheyya dhīro
nipphannattho yathāsukhaṃ bhaṇeyya.
2658. Riêng đối với việc cần phải giấu kín, chỉ có việc giấu kín là tốt, bởi vì đối với việc cần phải giấu kín, sự bày tỏ là không được khen ngợi. Khi việc chưa được hoàn tất, vị sáng trí nên chịu đựng; khi việc đã được hoàn tất, thì có thể nói một cách thoải mái.
70. Giữ điều bí mật mới là hay,
Bí mật không nên được tỏ bày,
Người trí phải duy trì bí mật,
Khi người thành tựu mục tiêu này,
Thì người hãy nói như mình muốn.
2659. Na guyhamatthaṃ vivareyya rakkheyya naṃ yathā nidhiṃ, na hi pātukato sādhu guyho attho pajānatā.
2659. Không nên bộc lộ điều cần được giấu kín; nên bảo vệ nó như là của chôn giấu. Bởi vì, người có sự nhận thức làm rõ ràng điều cần được giấu kín là không tốt đẹp.
Vậy chớ phơi ra bí mật vầy,
Phải giữ nó như kho bảo vật,
Người khôn chẳng lộ việc riêng tây.
2660. Thiyā guyhaṃ na saṃseyya amittassa ca paṇḍito, yo cāmisena saṃhīro hadayattheno ca yo naro.
2660. Vị sáng suốt không nên tiết lộ bí mật cho phụ nữ, cho kẻ đối nghịch, là hạng có thể bị mua chuộc bởi tài vật và hạng người giả vờ kết thân.
71. Người trí chẳng nên nói lộ ra,
Một điều bí mật với đàn bà,
Với cừu địch, người ham tư lợi,
Hoặc bởi tình thân ái thiết tha.
2661. Guyhamatthamasaṃbuddhaṃ saṃbodhayati yo naro, mantabhedabhayā tassa dāsabhūto titikkhati.
2661. Người nào cho biết việc cần phải giấu kín đến kẻ không biết do nỗi sợ hãi về chú thuật hay về sự đổ vỡ quan hệ đối với kẻ ấy, thì phải chịu đựng thân phận làm nô lệ (cho kẻ biết được ấy).
Người tiết lộ ra điều bí mật,
Vì lo sợ bạn chẳng tin ta,
Về sau phải chịu làm nô lệ,
Cho chính kẻ kia thật dại khờ!
2662. Yāvanto purisassatthaṃ guyhaṃ jānanti mantitaṃ, tāvanto tassa ubbegā tasmā guyhaṃ na vissaje.
2662. Càng có nhiều kẻ biết được điều cần được giấu kín của một người (do) đã được thổ lộ, thì càng có nhiều kích động đối với người ấy; vì thế, không nên thố lộ điều bí mật.
72. Càng nhiều người biết chuyện riêng tư,
Càng có thêm nhiều mối sợ lo,
Vậy chẳng nên phơi bày bí mật,
2663. Vivicca bhāseyya divā rahassaṃ rattiṃ giraṃ nātivelaṃ pamuñce, upassutikā hi suṇanti mantaṃ
tasmā manto khippamupeti bhedan ”ti.
2663. Vào ban ngày, nên tách ly rồi mới nói điều bí mật, vào ban đên không nên thốt ra lời quá nhiều thời gian. Bởi vì những kẻ nghe lén lắng nghe điều thố lộ; vì thế, điều thố lộ mau chóng đi đến việc rò rỉ.”
Ban ngày hãy đến một nơi xa,
Nói điều bí mật, còn đêm tối,
Hãy nói giọng nho nhỏ ấy mà,
Vì lắm người nghe lời nói ấy,
Nên lời ấy thoáng chốc tuôn ra.
Pañcapaṇḍitapañho.
***
Câu Hỏi Dành Cho Năm Bậc Nhân Sĩ. [508]
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada