(Tiền thân Mahà-Palobhana)

2612. Brahmalokā cavitvāna devaputto mahiddhiko, rañño putto udapādi sabbakāmasamiddhisu.  

2612. Vị Thiên tử có đại thần lực, sau khi chết đi từ thế giới Phạm Thiên, đã sanh làm con trai của một vị vua có sự thành tựu của tất cả các dục.

1. Từ cõi Phạm thiên, một vị thần
Ðến đây là thế giới phàm nhân
Tái sinh, ngài được làm hoàng tử,
Mỗi ước mơ là lệnh phải vâng.

2613. Kāmā vā kāmasaññā vā brahmaloke na vijjati, yvāssa tāyeva saññāya kāmehi vijigucchatha.

2613. Dục hay dục tưởng không hiện hữu ở thế giới Phạm Thiên. Nhờ vào tưởng về thiền định đã phát sanh ở chính thế giới Phạm Thiên ấy, vị hoàng tử ấy ghê tởm đối với các dục.

2. Chẳng có nghiệp tình, cõi Phạm thiên,
Chưa hề nghe nói chuyện tình duyên,
Giờ sinh dục giới này, vương tử
Nghe chữ "tình" thôi, chán ngấy liền!

2614. Tassa cantepure āsi jhānāgāraṃ sumāpitaṃ, so tattha patisallīno eko rahasi jhāyatha.  

2614. Và có một thiền thất đã khéo được tạo lập ở nội cung cho vị hoàng tử. Tại nơi ấy, được yên tịnh, vị ấy, một mình, đã tham thiền trong sự cô tịch. 

3. Ở nội cung, hoàng tử đã xây,
Một am thất nhỏ của riêng tây,
Nơi chàng chìm đắm vào Thiền định,
Ðơn độc trôi qua chuỗi tháng ngày.

2615. Sa rājā paridevesi puttasokena aṭṭito, ekaputto cayaṃ mayhaṃ na ca kāmāni bhuñjati.  

2615. Bị phiền muộn bởi nỗi sầu muộn về đứa con trai, đức vua ấy đã than vãn rằng: “Ta có mỗi một đứa con trai này, và nó không thọ hưởng các dục. 

4. Phụ vương lo lắng trước hoàng nam
Khi biết chàng trong ấy, khóc than:
"Trẫm chí sinh ra mình thái tử
Mà bao dục lạc, trẻ không màng!"2

616. Konu khettha upāyo so ko vā jānāti kiñcanaṃ, ko me puttaṃ palobheyya yathā kāmāni patthaye.  

2616. Vậy ở đây có phương thức nào, hoặc ai biết được điều gì đó, người nào có thể cám dỗ con trai của trẫm khiến cho nó có thể thèm muốn các dục?” 

5. Ai cho trẫm biết phải làm gì?
Ôi, lẽ nào không có cách chi?
Ai dạy con thèm mùi dục lạc?
Có ai làm thái tử mê ly?

2617. Ahū kumārī tattheva rūpavaṇṇa samāhitā, kusalā naccagītassa vādite ca padakkhiṇā, sā tattha upasaṅkamma rājānaṃ etadabravi.  

2617. Ngay tại nơi (hoàng cung) ấy, đã có một thiếu nữ được hội đủ dáng vóc và sắc đẹp, thiện xảo về múa ca, và thành thạo về tấu nhạc. Nàng ấy đã đi đến nơi ấy và đã nói với đức vua điều này: 

6. Có thiếu nữ kia dáng mỹ miều,
Làn da trắng muốt thật yêu kiều,
Nàng thông suốt một trời ca nhạc,
Và uốn người quay tít thật đều.
Xuân nữ này đi tìm Chúa thượng,
Thế là nàng khởi chuyện tình yêu.

2618. Ahaṃ kho taṃ palobheyyaṃ sace bhattā bhavissati, taṃ tathāvādiniṃ rājā kumāriṃ etadabravi, tvaññeva naṃ palobhehi tava bhattā bhavissati.  

2618. “Tiện nữ chắc chắn có thể cám dỗ được hoàng tử, nếu hoàng tử sẽ trở thành chồng (của thiếp). Đức vua đã nói với người thiếu nữ có lời nói như thế ấy điều này: “Chính nàng hãy cám dỗ hoàng tử, hoàng tử sẽ trở thành chồng của nàng.” 

7. Thần thiếp sẽ đi quyến rủ chàng,
Nếu duyên cầm sắt được ngài ban.
Gắng công cám dỗ cho hoàn mãn,
Chàng sẽ là vương tử của nàng!

2619. Sā ca antepuraṃ gantvā bahū kāmūpasaṃhitaṃ, hadayaṅgamā pemaṇīyā citragāthā abhāsatha.  

2619. Và sau khi đi đến nội cung, nàng ấy, với nhiều kiểu cách liên hệ đến dục, đã nói lên những kệ ngôn hoa mỹ, đáng yêu, đi vào trái tim.  

8. Kiều nhi vào tận chốn cung đình,
Nơi đó nàng riêng đứng một mình,
Hát khúc ngọt ngào, đầy khát vọng,
Xuyên vào tim của bạn chung tình.

2620. Tassā ca gāyamānāya saddaṃ sutvāna nāriyā, kāmacchandassa uppajji janaṃ so paripucchatha.

2620. Và sau khi lắng nghe âm thanh của người phụ nữ ấy trong khi nàng ấy đang ca hát, ước muốn về dục đã sanh khởi đến vị hoàng tử. Vị ấy đã hỏi người hầu rằng:

9. Xuân nữ đứng kia, cất tiếng oanh,
Ông hoàng nghe lọt được âm thanh,
Tức thì bỗng thấy lòng mê mẩn,
Chàng hỏi quân hầu đứng chực quanh:

2621. Kasseso saddo ko vā so bhaṇati uccāvacaṃ bahu, hadayaṅgamaṃ pemaṇīyaṃ atho kaṇṇasukhaṃ mama.

2621. “Âm thanh ấy là của người nào? Ai là người nói với ta nhiều lời nói trầm bổng, đi vào trái tim, đáng yêu, êm tai vậy?”

10. "Âm thanh nào đó thật du dương
Ðưa đến phòng ta rõ lạ thường,
Ðâm suốt con tim, đầy dục tưởng,
Bên tai kỳ thú thật khôn lường!"

2622. Esā kho pamadā deva khiḍḍā esā anappikā, sace tvaṃ kāme bhuñjeyya bhiyyo bhiyyo chādeyyu taṃ.  

2622. “Tâu hoàng tử, nàng ấy đúng là kiều nữ. Nàng ấy là thú tiêu khiển không phải tầm thường. Nếu ngài có thể thọ hưởng các dục, các dục có thể khiến ngài vui sướng nhiều hơn, nhiều hơn nữa.

11. "- Vương tử, nàng kia ngắm tuyệt xinh!
Biết bao đùa cợt, vẻ đa tình,
Ví ngài mong hưởng tình ngon ngọt,
Thì lạc thú đây, hãy đắm mình!".

2623. Iṅgha āgacchatorena avidūramhi gāyatu, assamassa samīpamhi santike mayha gāyatu.

2623. “Nào, hãy để nàng đến gần hơn, hãy để nàng ca hát ở nơi không xa. Hãy để nàng ca hát ở nơi kế cận thiền thất, trong sự hiện diện của ta.”

12. "- Này, bảo nàng kia hãy đến gần,
Rồi nàng ca hát thật nhiều lần,
Ðến đây, trước mặt ta rồi hát
Ngay chính bên trong cánh cửa phòng!"

2624. Tirokuḍḍamhi gāyitvā jhānāgāramhi pāvisi, bandhi naṃ anupubbena āraññamiva kuñjaraṃ.

2624. Sau khi đã ca hát ở bên kia bức tường (ở phía ngoài), nàng đã đi vào thiền thất. Nàng đã từ từ trói buộc hoàng tử, tựa như trói buộc con voi rừng.

13. Cô gái vừa ca ngoại bức tường,
Ðứng kia, trong thất của ông hoàng,
Nàng vây chàng chặt như voi nọ
Bị mắc bẫy giăng giữa núi ngàn!

2625. Tassa kāmarasaṃ ñatvā issādhammo ajāyatha, ahameva kāme bhuñjeyyaṃ mā añño puriso ahū.

2625. Sau khi biết được hương vị của dục, vị hoàng tử đã khởi lên pháp ganh tỵ (nói rằng): “Chỉ có ta mới có thể thọ hưởng các dục, chẳng có người đàn ông nào khác (được phép thọ hưởng).”

14. Chàng hưởng tròn hoan lạc ái ân,
Kìa xem! Tràn ngập nỗi ghen tương:
"Không ai được phép yêu nàng cả!
Chỉ một mình ta được luyến thương!"

2626. Tato asiṃ gahetvāna purise hantuṃ upakkami, ahameva eko bhuñjissaṃ mā añño puriso siyā.  

2626. Sau đó, vị hoàng tử đã cầm lấy thanh gươm rồi đã ra sức giết chết những người đàn ông (nói rằng): “Chỉ có một mình ta mới có thể thọ hưởng, chẳng có người đàn ông nào khác (được phép thọ hưởng)” 

15. Một mình ta, chẳng được người nào!
Rồi chạy ra, chàng cứ thét gào,
Cầm kiếm lồng lên như khát máu
Ði tàn sát hết bọn mày râu!

2627. Tato jānapadā sabbe vikkandiṃsu samāgatā, putto tyāyaṃ mahārāja janaṃ heṭhetyadūsakaṃ.  

2627. Do đó, tất cả dân chúng đã tụ hội lại kêu than rằng: “Tâu đại vương, gã con trai này của ngài hãm hại người dân vô tội.” 

16. Lâm nguy, dân chúng thét vang lừng,
Toàn thể phi thân đến hậu cung:
"Vương tử giết người bất kể số,
Chẳng ai khiêu khích!" Họ kêu rần.

2628. Tañca rājā vivāhesi samhā raṭṭhāto khattiyo, yāvatā vijitaṃ mayhaṃ na te vatthabba tāvade.  

2628. Và đức vua, vị Sát-đế-lỵ, đã trục xuất hoàng tử ra khỏi xứ sở của mình (nói rằng): “Con không được sống ở trong lãnh địa của trẫm.” 

17. Ðại vương truyền bắt lấy chàng ngay,
Khuất mắt phụ vương, phán lệnh đày:
"Con chẳng được tìm nơi trú ẩn
Trong vùng biên địa nước ta này!".

2629. Tato so bhariyaṃ ādāya samuddaṃ upasaṅkami, paṇṇasālaṃ karitvāna vanaṃ uñchāya pāvisi.  

2629. Sau đó, vị hoàng tử ấy đã mang theo người vợ rồi đi về phía bờ biển. Vị ấy đã tạo nên một gian nhà lá, rồi đã đi vào rừng để thu nhặt củ quả. 

18. Chàng đem vợ quý nọ lên đường
Cho đến khi dừng cạnh đại dương,
Tại đó chàng xây lều lợp lá,
Sống bằng của nhặt ở rừng hoang.

2630. Athettha isimāgañchi samuddaṃ uparūpari, so tassa gehaṃ pāvekkhi bhattakāle upaṭṭhite.  

2630. Rồi có vị ẩn sĩ đã lướt đi ở ngay trên mặt biển và đến tại nơi này,. Vị ấy đi vào căn nhà của hoàng tử vào lúc bữa ăn đã cận kề.  

19. Một đạo nhân thanh tịnh lượt ngang
Bay qua biển cả, giữa không gian,
Ði vào lều lá sao vừa lúc
Cơm nước vừa đem dọn sẵn sàng.

2631. Tañca bhariyā palobhesi passa yāva sudāruṇaṃ, cuto so brahmacariyamhā iddhiyā parihāyatha.  

2631. Và người vợ đã cám dỗ vị ẩn sĩ ấy. Hãy nhìn xem việc làm vô cùng tàn nhẫn đến chừng nào! Vị ấy đã bị lìa khỏi Phạm hạnh và đã mất hẳn thần thông.  

20. Cô nàng kia quyến rủ ngài ngay,
Xem việc làm sao hạ liệt thay!
Ngài đọa khỏi con đường Thánh hạnh,
Mọi thần thông lực thảy xa bay!

2632. Rājaputto ca uñchāto vanamūlaphalaṃ bahuṃ, sāyaṃ kājena ādāya assamaṃ upasaṅkami.

2632. Còn vị hoàng tử, vào buổi chiều, đã dùng giỏ đeo vai mang vác nhiều rễ và trái cây rừng do việc thu nhặt, rồi đã đi về lại khu ẩn cư.

21. Chiều đến, khi vương tử trở về,
Do chàng thâu nhặt thật tràn trề
Quả rau, một đống trên đòn gánh,
Ðồ vật rừng hoang đã phủ phê!

2633. Isī ca khattiyaṃ disvā samuddaṃ upasaṅkami, vehāsayaṃ gamissanti sīdate so mahaṇṇave.

2633. Và vị ẩn sĩ, sau khi nhìn thấy vị Sát-đế-lỵ, đã đi về phía biển cả (nghĩ rằng): ‘Ta sẽ ra đi bằng đường không trung;’ vị ấy chìm xuống ở đại dương.

22. Ẩn sĩ nhìn vương tử đến gần,
Ngài ra bờ biển vội rời chân,
Ngỡ là hành cước qua không khí,
Song chỉ chìm sâu xuống biển dần!

2634. Khattiyo ca isiṃ disvā sīdamānaṃ mahaṇṇave, tasseva anukampāya imā gāthā abhāsatha.

2634. Còn vị Sát-đế-lỵ, sau khi nhìn thấy vị ẩn sĩ đang chìm xuống ở đại dương, vì lòng thương xót đối với chính vị ấy, đã nói những lời kệ này:

23. Vương tử vừa khi thấy trí nhân
Vào trong biển cả cứ chìm thân,
Từ tâm khởi dậy trong vương tử,
Liền đó chàng ngâm kệ mấy vần:

2635. Abhijjamāne vārismiṃ sayaṃ āgamma iddhiyā, missībhāvitthiyā gantvā saṃsīdasi mahaṇṇave.

2635. “Sau khi tự mình đi đến bằng thần thông ở mặt nước không bị xao động, sau khi đi đến trạng thái chung chạ cùng với phụ nữ, ngài chìm xuống ở đại dương.

24. Ngài phi hành đến bởi thần thông
Trên biển không buồm để ruổi dong,
Chìm xuống giờ đây, vì ác phụ,
Khiến ngài chịu nhục nhã tiêu vong.

2636. Āvaṭṭanī mahāmāyā brāhmacariyavikopanā, sīdanti naṃ viditvāna ārakā parivajjaye.

2636. Có sức quyến rũ, có nhiều xảo trá, có sự làm tổn hại Phạm hạnh, các nàng ấy (sẽ) đọa (địa ngục); sau khi biết được điều ấy, nên lánh xa các nàng.

25. Phản bội, hồng quần cám dỗ ta,
Khiến người thanh tịnh nhất sa đà!
Chúng chìm dần xuống và dần xuống,
Ai biết hồng quần phải tránh xa!

2637. Analā mudusambhāsā duppūrā tā nadīsamā, sīdanti naṃ viditvāna ārakā parivajjaye.

2637. Các nàng ấy có lối nói mềm mỏng, không hề biết đủ, tựa như dòng sông, khó làm cho tràn đầy, các nàng ấy (sẽ) đọa (địa ngục); sau khi biết được điều ấy, nên lánh xa các nàng.

26. Nói ngọt ngào, song khó thỏa lòng,
Cũng như khó đổ nước đầy sông,
Chúng chìm dần xuống và dần xuống,
Ai biết, nên xa lánh má hồng!

2638. Yaṃ etā upasevanti chandasā vā dhanena vā, jātavedova saṇṭhānaṃ khippaṃ anudahanti taṃ.

2638. Các nàng hầu hạ người nào, dầu do sự mong muốn hay vì tài sản, các nàng thiêu hủy người ấy một cách mau chóng, tựa như ngọn lửa đốt cháy nhiên liệu.”

27. Bất kể hồng nhan phục vụ ai,
Hoặc vì tham dục hoặc tiền tài,
Chúng thiêu chàng rụi như nhiên liệu
Ðược thả cháy trong lửa sáng ngời!

2639. Khattiyassa vaco sutvā isissa nibbidā ahu, laddhā porāṇakaṃ maggaṃ gacchate so vihāyasaṃ.

2639. Sau khi lắng nghe lời nói của vị Sát-đế-lỵ, sự nhàm chán (các dục) đã sanh khởi đến vị ẩn sĩ. Sau khi đạt được đạo lộ cũ, vị ấy ra đi bằng đường không trung.

28. Ẩn sĩ nghe lời thái tử khuyên,
Chán chê trần thế quả hư huyền,
Trở về Thánh đạo xưa thanh tịnh,
Ngay giữa không gian đứng vụt liền.

2640. Khattiyo ca isiṃ disvā gacchamānaṃ vihāyasaṃ, saṃvegaṃ alabhī dhīro pabbajjaṃ samarocayi.

2640. Còn vị Sát-đế-lỵ, sau khi nhìn thấy vị ẩn sĩ đang ra đi bằng đường không trung, bậc sáng trí đã đạt đến trạng thái chấn động, đã vui thích việc xuất gia.

29. Vương tử vừa khi đứng ngắm trông
Cách ngài bay bổng giữa hư không,
Buồn phiền, vương tử liền cương quyết
Lựa chọn đời thanh tịnh vững lòng.

2641. Tato so pabbajitvāna kāmarāgaṃ virājayi, kāmarāgaṃ virājetvā brahmalokūpago ahū ”ti.

2641. Sau đó, khi đã xuất gia, vị ấy đã dứt trừ sự luyến ái ở các dục. Sau khi đã dứt trừ sự luyến ái ở các dục, vị ấy đã đạt đến thế giới Phạm Thiên.

30. Chuyển hướng tu hành, quyết đập tan
Dục tham và khát vọng nồng nàn,
Dục tham lắng dịu, chàng thề nguyện:
"Ðến cõi Phạm thiên, tiến thẳng đàng".

Mahāpalobhanajātakaṃ.

***

Bổn sanh Sự Cám Dỗ Lớn. [507]



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada