(Tiền thân Campeyya)

2568. Kā nu vijjurivābhāsi osadhī viya tārakā, devatā nusi gandhabbī na taṃ maññāmi mānusiṃ.  

2568. “Người nữ nào chiếu sáng tựa như tia chớp, tựa như ngôi sao osadhī? Có phải nàng là vị Thiên nhân, hay nữ Càn-thát-bà? Trẫm không nghĩ rằng nàng là loài người.”

1. Ai đó như tia chớp sáng bừng,
Hay vầng tinh tú tỏa hào quang,
Tu-la thần nữ hay Thiên nữ?
Ta chắc nàng không phải thế nhân?

2569. Namhi devī na gandhabbī na mahārāja mānusī, nāgakaññamhi bhaddante atthenamhi idhāgatā.

2569. “Thưa đại vương, thiếp không phải là Thiên nữ, không phải nữ Càn-thát-bà, không phải loài người. Thưa bậc đức độ, thiếp là con gái của loài rồng. Vì công việc mà thiếp đã đi đến nơi này.”

2. Chẳng là Thiên nữ, Tu-la thần,
Cũng chẳng loài người, tấu Ðại quân,
Tiện thiếp chính là Long nữ đó,
Ðến đây vì có việc cầu ân.

2570. Vibbhantacittā kupitindriyāsi nettehi te vārigaṇā savanti, kinte naṭṭhaṃ kimpana patthayānā idhāgatā nāri tadiṅgha brūhi.  

2570. “Nàng có tâm bị tản mác, các giác quan bị đờ đẫn. những dòng lệ tuôn trào từ hai con mắt của nàng. Nàng đã bị mất mát cái gì? Hơn nữa, trong khi ước nguyện điều gì mà nàng đã đi đến nơi này? Nào, hỡi cô nương, nàng hãy nói ra điều ấy.”

3. Nàng tỏ ra hờn giận, bất bằng,
Mắt nàng mưa lệ cứ tuôn tràn,
Việc gì, ước vọng nào đưa đến,
Hãy nói, ta mong biết, hỡi nàng!

2571. Yamuggatejo uragoti cāhu nāgoti taṃ āhu janā janinda, tamaggahī puriso jīvikattho
taṃ bandhanā muñca patī mameso.  

2571. Tâu vị chúa của loài người, người ta đã gọi con vật có oai lực dữ dằn là ‘rắn’ và đã gọi chàng ấy là ‘rồng.’ Gã đàn ông đã bắt lấy chàng ấy vì mục đích kiếm sống. Hãy giải thoát cho chàng ấy khỏi sự trói buộc. Chàng ấy là chồng của thiếp.”

4. Rắn rồng bò, tựa lửa hung hăng!
Chúng vẫn gọi ngài thế, bỗng dưng
Gã bắt ngài đi vì hám lợi,
Thiếp cầu Chúa thượng thả Long quân!

2572. Kathaṃ nvayaṃ balaviriyūpapanno hatthattha māgañchi vaṇibbakassa, akkhāhi me nāgakaññe tamatthaṃ kathaṃ vijānemu gahītanāgaṃ.  

2572. Vậy làm thế nào mà con rồng được sanh ra với sức lực và dũng mãnh này đã rơi vào bàn tay của kẻ cùng khổ? Hỡi nàng con gái của loài rồng, nàng hãy giải thích ý nghĩa ấy cho trẫm. Làm thế nào chúng tôi có thể nhận biết về con rồng đã bị bắt?”

5. Vì sao kẻ ốm đói như vầy
Bắt được Rồng kia mãnh lực đầy?
Long nữ, xin nàng cho trẫm biết,
Làm sao đánh giá đúng Rồng này?

2573. Nagarampi nāgo bhasmaṃ kareyya tathā hi so balaviriyūpapanno, dhammañca nāgo apacāyamāno tasmā parakkamma tapo karoti.

2573. “Rồng chúa có thể làm cho cả thành phố trở thành tro bụi, bởi vì chàng ấy được sanh ra với sức lực và dũng mãnh như thế ấy. Và trong khi tôn kính pháp tu tập, vì thế rồng chúa đã nỗ lực (kiềm chế) và thực hành hạnh khắc khổ.

6. Thần lực ngài, ngay cả thị thành,
Ngài thiêu ra đống bụi tan tành,
Song ngài yêu chuộng đường thanh tịnh,
Khổ hạnh đi tìm lại chính danh.

2574. Cātuddasiṃ paṇṇarasiñca rāja catuppathe sammati nāgarājā, tamaggahī puriso jīvikattho
taṃ bandhanā muñca patī mameso.

2574. Tâu bệ hạ, vào ngày mười bốn và mười lăm, rồng chúa tịnh cư ở ngã tư đường. Gã đàn ông đã bắt lấy chàng ấy vì mục đích kiếm sống. Hãy giải thoát cho chàng ấy khỏi sự trói buộc. Chàng ấy là chồng của thiếp.”7. Vào ngày trai giới, đấng Long vương
Bốn pháp hành trì hạnh Thánh nhân,
Gã múa rối kia tìm bắt được,
Xin ngài vì thiếp, cứu lang quân!

2575. Soḷasitthī sahassāni āmuttamaṇikuṇḍalā, vārigehasayā nārī tāpi taṃ saraṇaṅgatā.

2575. Mười sáu ngàn nữ nhân có các bông tai bằng ngọc trai và ngọc ma-ni, các nàng có nhà ở dưới nước, các nàng ấy đã đến nương tựa ở chàng.

8. Mười sáu ngàn kìa đám nữ nhân,
Rỡ ràng vòng ngọc với kim ngân,
Dưới dòng nước đã tôn Rồng thánh
Là chúa tể cho chúng ẩn thân.

2576. Dhammena mocehi asāhasena gāmena nikkhena gavaṃ satena, ossaṭṭhakāyo urago carātu
puññatthiko muccatu bandhanasmā.

2576. Bệ hạ hãy giải thoát cho rồng chúa đúng theo pháp, không bằng bạo lực, bằng ngôi làng, bằng tiền vàng lớn, bằng một trăm bò cái. Hãy để cho rồng chúa ra đi với thân thể được cởi trói. Hãy để cho người tầm cầu phước thiện được thoát khỏi sự trói buộc.”

9. Ðại vương, mong rộng lượng, công bằng,
Xin chuộc Long vương được thoát thân
Bằng một làng, trăm bò cái chẵn,
Thêm vàng, đem phước báo Quân vương.

2577. Dhammena mocemi asāhasena gāmena nikkhena gavaṃ satena, ossaṭṭhakāyo urago carātu
puññatthiko muccatu bandhanasmā.

2577. “Trẫm sẽ giải thoát cho rồng chúa đúng theo pháp, không bằng bạo lực, bằng ngôi làng, bằng tiền vàng lớn, bằng một trăm bò cái. Hãy để cho rồng chúa ra đi với thân thể được cởi trói. Hãy để cho người tầm cầu phước thiện được thoát khỏi sự trói buộc.

10. Này xem ta chánh đáng, hào hoa,
Ta chuộc cho Rồng chúa được tha
Bằng một làng, trăm bò cái chẵn,
Thêm vàng, đem phước báo cho ta!

2578. Dammi nikkhasataṃ ludda thullañca maṇikuṇḍalaṃ, catussadaṃ ca pallaṅkaṃ ummāpuppha siriṃnibhaṃ.

2578. Này thợ săn, trẫm sẽ ban thưởng một trăm tiền vàng lớn, bông tai ngọc ma-ni loại lớn, kiệu khiêng bốn bên đều lót nệm có màu sắc rực rỡ giống như màu hoa của cây bông vải, –

11. Rồi trẫm tặng chàng vòng ngọc tai,
Với vàng trăm lượng chẳng hề sai,
Tọa sàng xinh đẹp như hoa gấm,
Gối nệm nằm chen bốn dãy dài.

2579. Dve ca sādisiyo bhariyā usabhañca gavaṃ sataṃ,ossaṭṭhakāyo urago carātu puññatthiko muccatu bandhanasmā.

2579. – thêm hai người vợ tương xứng, cùng với bò mộng và bò cái một trăm con. Hãy để cho rồng chúa ra đi với thân thể được cởi trói. Hãy để cho người tầm cầu phước thiện được thoát khỏi sự trói buộc.”

12. Bò đực, cùng bò cái một trăm,
Và hai người vợ cũng chung dòng,
Xin tha Rồng chúa đầy thanh tịnh,
Việc ấy sẽ đem lắm phước phần.

2580. Vināpi dānā tava vacanaṃ janinda, muñcemu taṃ uragaṃ bandhanasmā, ossaṭṭhakāyo urago carātu puññatthiko muccatu bandhanasmā.  

2580. “Tâu vị chúa của loài người, chỉ với lời nói của bệ hạ thì khỏi cần vật ban thưởng, chúng thần sẽ giải thoát cho rồng chúa ấy khỏi sự trói buộc. Hãy để cho rồng chúa ra đi với thân thể được cởi trói. Hãy để cho người tầm cầu phước thiện được thoát khỏi sự trói buộc.”

13. Thần không cầu thưởng, tấu Anh quân,
Mà để chúa Rồng được thoát thân,
Như vậy, nay thần xin giải phóng:
Việc này sẽ tạo lắm hồng ân.

2581. Mutto campeyyako nāgo rājānaṃ etadabravi, namo te kāsirājatthu namo te kāsivaḍḍhana, añjaliṃ te pagaṇhāmi passeyyamme nivesanaṃ.  

2581. Được tự do, rồng chúa Campeyyaka đã nói với đức vua điều này: ‘Tâu đức vua xứ Kāsi, vậy hãy kính lễ đến ngài! Tâu bậc làm hưng thịnh xứ Kāsi, xin kính lễ ngài! Thần xin chắp tay lại chào bệ hạ. Thần có thể nhìn ngắm cung điện của thần.”

14. Tự do, Rồng chúa xứ Cam-pa
Liền nói như vầy với đức vua:
"Chúa tể Kà-si nuôi quốc độ!
Cầu ngài vinh hiển tự bây giờ
Thần xin đảnh lễ ngài cung kính,
Trước lúc trở về viếng cố gia!".

2582. Addhā hi dubbissasametamāhu yaṃ mānuso vissase amānusamhi, sace ca maṃ yācasi etamatthaṃ dakkhemu te nāga nivesanāni.  

2582. “Quả đúng vậy, người đời đã nói việc ấy là khó tin, là việc con người có thể đặt niềm tin vào hạng phi nhân. Và nếu ngài yêu cầu trẫm (tin tưởng) điều ấy, này rồng chúa, hãy để chúng tôi nhìn thấy các cung điện của ngài.”

15. Ðời thường nói các đấng siêu phàm
Khó được lòng tin ở thế gian
Ví thử chúa Rồng nay nói thật:
Long cung đâu? Hãy chỉ ngay đàng!

2583. Sacehi vāto girimāvaheyya cando ca suriyo ca chamā pateyyuṃ, sabbā va najjo paṭisotaṃ vaheyyuṃ na tvevahaṃ rāja musā bhaṇeyyaṃ.

2583. “Bởi vì, nếu như làn gió có thể dời đi ngọn núi, mặt trăng và mặt trời có thể rơi xuống trái đất, và tất cả các con sông có thể chảy ngược dòng, nhưng tâu bệ hạ, thần không bao giờ có thể nói lời dối trá.

16. Dù gió thổi tung cả núi đồi,
Mặt trời, trăng rớt khỏi bầu trời,
Suối sông, xoáy ngược dòng đang cháy,
Chúa thượng, thần không thể dối lời!

2584. Nabhaṃ phaleyya udadhīpi susse saṃvaṭṭayaṃ bhūtadharā vasundharā, siluccayo meru samūlamubbahe natvevahaṃ rāja musā bhaṇeyyaṃ.

2584. (Dẫu cho) bầu trời có thể vỡ tan, thậm chí biển cả có thể khô cạn, trái đất cưu mang chúng sanh và cất giữ của cải tự cuộn tròn, ngọn núi đá Meru có thể nhổ lên luôn cả gốc, nhưng tâu bệ hạ, thần không bao giờ có thể nói lời dối trá.”

17. Ví trời nứt nẻ, hải dương khô,
Ðất mẹ bao la vỡ vụn ra,
Dù núi Tu-di rung bật gốc,
Ðại vương, thần chẳng dối bao giờ!

2585. Addhā hi dubbissasametamāhu yaṃ mānuso vissase amānusamhi,sace ca maṃ yācasi etamatthaṃ dakkhemu te nāga nivesanāni.

2585. “Quả đúng vậy, người đời đã nói việc ấy là khó tin, là việc con người có thể đặt niềm tin vào hạng phi nhân. Và nếu ngài yêu cầu trẫm (tin tưởng) điều ấy, này rồng chúa, hãy để chúng tôi nhìn thấy các cung điện của ngài.”

18. Ðời thường nói các đấng siêu phàm
Khó được lòng tin ở thế gian,
Ví thử chúa Rồng nay nói thật,
Long cung đâu, hãy chỉ ngay đàng!

2586. Tumhe khottha ghoravisā uḷārā mahātejā khippakopī ca hotha, mama kāraṇā bandhanasmā  pamutto arahasi no jānitāye katāni.

2586. “Quả thật, các ngài ở đây là có chất độc dữ dội, có uy thế, có quyền lực lớn lao, và có sự nổi giận mau chóng. Nhờ vào trẫm mà ngài được thoát ra khỏi sự trói buộc, ngài cần phải nhận biết những việc đã được làm của chúng tôi.”

19. Ngài đầy nọc độc, đủ quyền năng,
Chiếu sáng rực trời, chóng nổi sân,
Ngài bị giam, nhờ ta giải thoát,
Quyền ta là phải được tri ân!

2587. So paccataṃ niraye ghorarūpe mā kāyikaṃ sātamalattha kiñci, peḷāya baddho maraṇaṃ upetu
yo tādisaṃ kamma kataṃ na jāne.

2587. “Kẻ nào không nhận biết hành động đã được làm như thế ấy, kẻ ấy hãy bị nung nấu ở địa ngục có hình thức ghê rợn, chẳng đạt được bất cứ khoái lạc nào thuộc về thân, và đạt đến cái chết khi bị giam cầm trong cái giỏ.”

20. Kẻ nào không muốn đáp ân tình,
Sẽ chẳng làm sao hưởng phước lành,
Kẻ đó bỏ mình trong rọ nhốt!
Chịu thiêu trong ngục tối hồn kinh!

2588. Saccappaṭiññā tavamesa hotu akkodhano hohi anūpanāhī, sabbañca te nāgakulaṃ supaṇṇā
aggiṃva gimhāsu vivajjayantu.

2588. “Mong rằng lời hứa hẹn này của ngài là sự thật. Mong rằng ngài không giận dữ, không thù hằn. Mong rằng các linh điểu lánh xa tất cả gia tộc loài rồng của ngài, tựa như (loài người) lánh xa ngọn lửa vào các mùa nóng nực.”

21. Ngài nguyện lời kia quả thật chân,
Giận hờn tan biến, tránh thù hằn:
Như ta tránh lửa trong mùa hạ,
Mong Ðiểu vương xa lành chúa Rồng!

2589. Anukampasī nāgakulaṃ janinda mātā yathā suppiyaṃ ekaputtaṃ, ahaṃ ca te nāgakulena saddhiṃ
kāhāmi veyyāvaṭikaṃ uḷāraṃ.  

2589. “Tâu vị chúa của loài người, bệ hạ đã có lòng thương tưởng đến gia tộc loài rồng, giống như người mẹ đối với đứa con trai độc nhất vô cùng yêu quý. Thần cùng với gia tộc loài rồng sẽ làm công việc phục vụ xuất sắc đến bệ hạ.”

22. Như mẹ hiền kia muốn bố ân
Cho con độc nhất quý vô ngần,
Ðại vương nhân ái cùng rồng rắn,
Xin phụng sự vua, mỗi chúng thần.

2590. Yojentu ve rājarathe sucitte kambojake assatare sudante, nāge ca yojentu suvaṇṇakappane
dakkhemu nāgassa nivesanāni.

2590. “Các khanh hãy thắng các con la xứ Kamboja khéo được huấn luyện vào các cỗ vương xa khéo được sơn phết, và hãy thắng các yên cương bằng vàng cho các con voi; chúng ta hãy viếng thăm các cung điện của rồng chúa.”

23. Ðoàn vương xa, hãy thắng yên cương,
Ðứng sẵn bầy la khéo luyện thuần,
Vương tượng cân đai vàng chói lọi,
Ta cùng đi viếng xứ Long vương.

2591. Bheri mutiṅgā paṇavā ca saṅkhā āvajjisuṃ uggasenassa rañño, pāyāsi rājā bahusobhamāno
purakkhato nārigaṇassa majjhe.  

2591. Các trống lớn, các trống nhỏ, các trống con, và các tù và vỏ ốc đã vang lên chào đón đức vua Uggasena. Đức vua đã tiến đến, vô cùng rực rỡ, được tôn vinh, ở giữa một đoàn nữ nhân.

24. Trống con, trống lớn, đánh thì thùng,
Chũm chọe, tù và thổi dậy rân,
Kìa ngắm Ug-ga vương ngự đến
Huy hoàng hiện giữa đám cung tần.

2592. Suvaṇṇacitakaṃ bhūmiṃ addakkhi kāsivaddhano, sovaṇṇamaye ca pāsāde veḷuriyaphalakatthate.  

2592. Bậc làm hưng thịnh xứ Kāsi đã nhìn thấy khu đất được trải lên bằng cát vàng và các tòa lâu đài làm bằng vàng, được khảm ngọc bích và ngọc pha-lê.

25. Chúa tể Kà-si thấy đất bằng
Nơi nơi rải khắp cát như vàng,
Hoa san hô đẹp trồng quanh chốn,
Ðỉnh tháp bằng vàng ở tứ phương.

2593. Sa rājā pāvisi vyambhaṃ campeyyassa nivesanaṃ, ādiccavaṇṇūpanibhaṃ kaṃsavijjupabhassaraṃ

2593. Vị vua ấy đã tiến vào cung điện, nơi trú ngụ của rồng chúa Campeyya, có sự chói sáng rực rỡ tựa như tia chớp phát ra từ đám mây đen, tương tự màu sắc của mặt trời.

26. Sau đó, Ðại vương lại đặt chân
Ngự vào đại sảnh của Long thần
Tựa thiên lôi chủy đồng lóe sáng,
Hay cả vầng hồng tỏa ánh quang.

2594. Nānārukkhehi sañchannaṃ nānāgandhasameritaṃ, so pāvekkhi kāsirājā campeyyassa nivesanaṃ. 

2594. Vị vua xứ Kāsi ấy sẽ tiến vào nơi trú ngụ của rồng chúa Campeyya, được bao phủ bởi những cây cối đa dạng, được phảng phất với các hương thơm khác loại.

27. Vào đến Cam-pey đại sảnh đường,
Vừa dời gót ngọc, đấng Quân vương:
Ngàn cây đổ bóng che im mát,
Không khí ngàn mùi tỏa diệu hương.

2595. Paviṭṭhamhi kāsiraññe campeyyassa nivesanaṃ, dibbā turiyā vajjiṃsu nāgakaññā ca naccayuṃ.  

2595. Khi đức vua xứ Kāsi tiến vào nơi trú ngụ của rồng chúa Campeyya, các nhạc cụ Thiên đình đã tấu vang, và các nàng con gái của loài rồng đã nhảy múa.

28. Bên trong cung điện chúa Cam-pey,
Ðại đế vừa khi ngự đến đây,
Ðàn trổi khúc thần tiên tuyệt diệu,
Yêu kiều Long nữ múa như bay!

2596. Taṃ nāgakaññā caritaṃ gaṇena anvāruhī kāsirājā pasanno, nisīdi sovaṇṇamayamhi pīṭhe
sāpassaye candanasāralitte.  

2596. Nơi trú ngụ ấy được lui tới bởi các nàng con gái của loài rồng theo từng nhóm. Được an tâm, đức vua xứ Kāsi đã bước tiếp lên, và đã ngồi xuống ở cái ghế làm bằng vàng, có chỗ tựa đầu, đã được thoa dầu của lõi trầm hương.

29. Ngài được mời lên bảo tọa vàng
Nệm êm ái sực nức chiên-đàn,
Cả đoàn kiều nữ khoan thai lướt
Khắp sảnh đường theo gót rộn ràng.

2597. So tattha bhutvā ca atho ramitvā campeyyakaṃ kāsirājā avoca, vimānaseṭṭhāni imāni tuyhaṃ
ādiccavaṇṇāni pabhassarāni, netādisaṃ atthi manussaloke kimatthiyaṃ nāga tapo karosi.

2597. Sau khi đã thọ hưởng rồi vui thú ở nơi ấy, đức vua xứ Kāsi ấy đã nói với rồng chúa Campeyyaka rằng: “Các cung điện tuyệt vời này của ngài có màu sắc của mặt trời, có sự chói sáng rực rỡ. Ở thế giới loài người, không có như thế này. Này rồng chúa, vì mục đích gì mà ngài thực hành hạnh khắc khổ?

30. Chốn kia, vua hưởng thú vui tràn,
Rồi tới Cam-pey chúa, hỏi han:
"Cung điện ngài đây vinh hiển quá,
Hồng như vầng nhật tỏa hào quang,
Trên trần không chốn nào như vậy,
Vì cớ sao ngài muốn ẩn thân?

2598. Tā kambukeyūra dharā suvatthā vaṭṭaṅgulī tambatalūpapannā, paggayha pāyenti anomavaṇṇā
netādisaṃ atthi manussaloke kimatthiyaṃ nāga tapo karosi.

2598. Các nàng ấy mang các vật trang sức bằng vàng, có y phục đẹp, có ngón tay tròn trịa, được thành tựu lòng bàn tay và bàn chân màu đỏ thắm, có làn da hoàn hảo, đã đem lại thần thủy mời trẫm uống. Ở thế giới loài người, không có như thế này. Này rồng chúa, vì mục đích gì mà ngài thực hành hạnh khắc khổ?

31. Ðứng đây toàn tuyệt sắc giai nhân
Cầm lấy bằng đầu ngón búp măng
Chén rượu trong bàn tay ửng đỏ,
Ðai vàng ôm sát ngực và thân,
Tại sao ngài muốn làm tu sĩ,
Chẳng thấy cảnh kia ở cõi trần?

2599. Najjo ca temā puthulomamacchā āṭā sakuntābhirudā sutitthā,netādisaṃ atthi manussaloke
kimatthiyaṃ nāga tapo karosi.

2599. Và các dòng sông này của ngài có loài cá lớn vảy, có tiếng hót của loài chim āā, có bến tắm đẹp. Ở thế giới loài người, không có như thế này. Này rồng chúa, vì mục đích gì mà ngài thực hành hạnh khắc khổ?

32. Suối, sông, hồ cá đẹp, trong ngần,
Ðều có bến xây bậc vững vàng
Trên trần chẳng chốn nào như thế,
Vì cớ sao ngài muốn ẩn thân?

2600. Koñcā mayūrā diviyā ca haṃsā vaggussarā kokilā sampatanti, netādisaṃ atthi manussaloke
kimatthiyaṃ nāga tapo karosi.

2600. Các con cò, các con công, các chim thiên nga, và các con chim cu với tiếng hót ngọt ngào bay nhảy. Ở thế giới loài người, không có như thế này. Này rồng chúa, vì mục đích gì mà ngài thực hành hạnh khắc khổ?

33. Ðàn công, sếu hạc, với thiên nga,
Bao vẻ mê hồn cu gáy ca,
Vì cớ sao ngài làm ẩn sĩ,
Trên đời đâu thấy cảnh kia mà?

2601. Ambāva sālā tilakā ca jambuyo uddālakā pāṭaḷiyo ca phullā, netādisaṃ atthi manussaloke
kimatthiyaṃ nāga tapo karosi.

2601. Các cây xoài, các cây sāla, các cây họ mè, các cây mận đỏ, các cây bả đậu, và các cây hoa kèn được nở rộ. Ở thế giới loài người, không có như thế này. Này rồng chúa, vì mục đích gì mà ngài thực hành hạnh khắc khổ?

34. Ðây trồng ti-lak, đó xoài, sal,
Hoa quế, hoa chuông nở rộ tràn,
Chẳng thấy cảnh này nơi địa giới,
Sao ngài làm ẩn sĩ trần gian?

2602. Imā ca te pokkharañño samantato divyā ca gandhā satataṃ sampatanti, netādisaṃ atthi manussaloke kimatthiyaṃ nāga tapo karosi.

2602. Các hồ sen này của ngài ở khắp nơi và có các mùi hương của cõi Trời thường xuyên phảng phất. Ở thế giới loài người, không có như thế này. Này rồng chúa, vì mục đích gì mà ngài thực hành hạnh khắc khổ?”

35. Nhìn các hồ kia, gió thoảng đưa,
Hương thần tiên tỏa khắp đôi bờ,
Cảnh này không thấy trên trần giới,
Vì cớ sao ngài muốn ẩn cư?

2603. Na puttahetu na dhanassa hetu na āyuno cāpi janinda hetu, manussayoniṃ abhipatthayāno
tasmā parakkamma tapo karomi.

2603. “Không vì nguyên nhân con trai, không vì nguyên nhân tài sản, và cũng không vì nguyên nhân tuổi thọ, tâu vị chúa của loài người, trong khi ước nguyện về bản thể loài người, vì thế thần đã nỗ lực (kiềm chế) và thực hành hạnh khắc khổ.”

36. Chẳng vì thọ mạng, của hay con,
Ta phấn đấu vầy với bản thân,
Nếu được, chính lòng ta ước nguyện,
Tái sinh làm một kẻ phàm nhân.

2604. Tvaṃ lohitakkho vihatantaraṃso alaṅkato kappitakesamassu, surosito lohitacandanena
gandhabbarājāva disā pabhāsasi.

2604. “Với mắt đỏ ngầu, với bờ vai rộng, đã được trang điểm, có râu tóc đã được chăm sóc, khéo được thoa trầm hương đỏ, ngài tỏa sáng các phương tựa như vị vua của các Càn-thát-bà.

37. Phục sức cao sang, mắt đỏ ngầu,
Rộng vai và nhẵn nhụi đầu râu,
Chiên-đàn tẩm ướt, như Thiên đế
Phán bảo toàn dân chúng địa cầu.

2605. Deviddhipattosi mahānubhāvo sabbehi kāmehi samaṅgibhūto,pucchāmi taṃ nāgarājetamatthaṃ seyyo ito kena manussaloko.

2605. Ngài đã đạt được thần thông của chư Thiên, có đại oai lực, được phú cho tất cả các dục. Này chúa rồng, trẫm hỏi ngài ý nghĩa này, thế giới loài người tốt hơn nơi này bởi điều gì?”

38. Lực thần vĩ đại thật hùng oai,
Làm chủ quyền mơ ước mọi loài,
Rồng chúa, xin vui lòng giải đáp,
Vì sao địa giới vượt Long đài?

2606. Janinda nāññatra manussalokā suddhī ca saṃvijjati saṃyamo ca, ahañca laddhāna manussayoniṃ
kāhāmi jātimaraṇassa antaṃ.  

2606. “Tâu vị chúa của loài người, ngoại trừ thế giới loài người, không nơi nào khác được tìm thấy sự trong sạch và sự tự kiềm chế. Và sau khi đạt được bản thể loài người, thần sẽ thực hiện việc chấm dứt sanh tử.”

39. Thanh tịnh, điều thân, chỉ đạt thành
Khi người ta sống giữa quần sinh,
Nếu làm người, chẳng bao giờ nữa
Ta thấy tử sinh đến với mình.

2607. Addhā have sevitabbā sapaññā bahussutā ye bahuṭhānacintino, nāriyo ca disvāna tavaṃ ca nāga
karohi puññāni anappakāni.

2607. “Quả thật, đúng vậy, nên thân cận các bậc có trí tuệ, các bậc đa văn, các vị có những suy nghĩ thiết thực. Này rồng chúa, sau khi nhìn thấy ngài và các nàng con gái của loài rồng, trẫm sẽ làm các việc phước thiện không phải là ít.”

40. Quả thật là chân chánh thiện tâm
Tôn sùng bậc trí tuệ uyên thâm
Tầm tư siêu việt thường sinh khởi.
Khi trẫm nay chiêm ngưỡng chúa Rồng,
Cùng với cả đoàn Long nữ ấy,
Trẫm mong làm thiện nghiệp muôn phần.

2608. Addhā have sevitabbā sapaññā bahussutā ye bahuṭhānacintino, nāriyo ca disvāna mamañca rāja
karohi puññāni anappakāni.

2608. “Quả thật, đúng vậy, nên thân cận các bậc có trí tuệ, các bậc đa văn, các vị có những suy nghĩ thiết thực. Tâu bệ hạ, sau khi nhìn thấy thần và các nàng con gái của loài rồng, bệ hạ hãy làm các việc phước thiện không phải là ít.

41. Quả thật là chân chánh thiện tâm
Tôn sùng bậc trí tuệ uyên thâm
Tầm tư siêu việt thường sinh khởi.
Khi Ðại vương nhìn thấy tiểu quân,
Cùng với cả đoàn Long nữ ấy,
Ngài mong thành thiện nghiệp muôn phần.

2609. Idañca me jātarūpaṃ pahūtaṃ rāsī suvaṇṇassa ca tālamattā, ito haritvā sovaṇṇagharāni kāraya
rūpiyassa ca pākāraṃ karontu.

2609. Vàng này của thần có nhiều, và các đống vàng có số lượng nhiều như cây thốt nốt. Bệ hạ hãy mang đi khỏi đây rồi cho xây dựng các căn nhà bằng vàng. Và các vị hãy xây dựng tường thành bằng bạc.

42. Vàng thoi bỏ đó, kể không cùng,
Bạc chất như cây cả mấy tầng,
Ngài lấy mà xây tường đá bạc,
Ðem về dựng gác ngọc lầu vàng.

2610. Muttānañca vāhasahassāni pañca veḷuriyamissāni ito haritvā,antepure bhūmiyaṃ santharantu
nikkaddamā hohiti nīrajā ca.

2610. Sau khi mang đi khỏi đây năm ngàn xe ngọc trai được trộn lẫn với ngọc bích, các vị hãy trải ở mặt đất ở nội cung, như vậy sẽ không có bùn và không có bụi.

43. Ta đoán năm ngàn xe ngọc trai,
San hô chen giữa ửng hồng tươi,
Lấy đi để trải đầy cung điện
Chẳng thấy đất dơ lộ phía ngoài.

2611. Etādisaṃ āvasa rājāseṭṭha vimānaseṭṭhaṃ bahusobhamānaṃ, bārāṇasiṃ nagaraṃ iddhaphītaṃ
rajjañca kārehi anomapaññā ”ti.

2611. Tâu đấng quân vương hạng nhất, bệ hạ hãy cư ngụ ở cung điện hạng nhất đang chiếu sáng rực rỡ như thế ấy, trong thành Bārāṇasī thịnh vượng, sung túc. Và tâu bậc có trí tuệ tuyệt đỉnh, ngài hãy trị vì vương quốc.”

44. Ðại vương! Hãy dựng một cung đình,
Như tiểu quân nay muốn tấu trình,
Tại đó xin ngài lên ngự trị,
Thành Ba-la-nại sẽ phồn vinh:
Mong ngài cai trị dân hiền đức,
Và trị nước nhà thật xứng danh.

Campeyyajātakaṃ.


***

Bổn sanh Rồng Chúa Campeyya. [506]



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada