(Tiền thân Somanassa)

2539. Ko taṃ hiṃsati heṭheti
kiṃ dummano socasi appatīto,
kassajja mātāpitaro rudantu
kvajja setu nihato pathavyā.  

2539. “Người nào hãm hại và xúc phạm ngài? Tại sao ngài lại có vẻ buồn bã, ủ rũ, và sầu muộn? Hôm nay, cha mẹ của người nào phải khóc lóc? Hôm nay, người nào bị đánh đập, phải nằm dài ở mặt đất?”

1. Kìa ai phá hoại hoặc khinh chê?
Sao khổ buồn, ngài quá ủ ê?
Thương khóc mẹ cha ai đó vậy?
Ðất này ai lại xuống nằm lê?

2540. Tuṭṭhosmi deva tava dassanena cirassa passāmi taṃ bhūmipāla, ahiṃsako reṇumanuppavissa
puttena te heṭhayitosmi deva.  

2540. “Tâu bệ hạ, thần được vui mừng do việc nhìn thấy bệ hạ. Tâu đấng hộ quốc, lâu nay thần không gặp bệ hạ. Tâu bệ hạ, thần là người không hãm hại, mà Reṇu, con trai của bệ hạ, đã đột nhập và xúc phạm thần.”

2. Hân hoan thần bái kiến long nhan,
Xa cách từ lâu, tấu Ðại vương!
Thái tử vừa đi thăm lão đó,
Chẳng ai khiêu khích, lại làm càn!

2541. Āyantu dovārikā khaggabaddhā, kāsāviyā yantu antepuraṃ taṃ, gantvāna taṃ somanassaṃ kumāraṃ chetvāna sīsaṃ varamāharantu.  

2541. “Các ngự lâm quân mang gươm hãy lại đây. Các đao phủ hãy đi đến hậu cung kia. Các ngươi hãy giết chết hoàng tử Somanassa ấy, hãy chặt đứt cái đầu cao quý rồi mang lại.”

3. Ô kìa, đao phủ, hãy xem nào!
Thị giả, đưa trường kiếm lại mau!
Giết chết So-ma, hoàng thái tử!
Ðem đầu cao quý đến đây giao!

2542. Pesitā rājino dūtā kumāraṃ etadabravuṃ, issarena vitiṇṇosi vadhappattosi khattiya.

2542. Các sứ giả của đức vua được phái đi đã nói điều này với vị hoàng tử: “Tâu vị Sát-đế -lỵ, ngài đã bị chúa thượng phế bỏ, ngài đã phạm tội chết.”

4. Sứ giả nhà vua bước vội vàng,
Ðến cung hoàng tử, họ kêu ran:
"Phụ vương đã bỏ hoàng nam đó!
Ðiện hạ ôi, ngài phải chết oan!".

2543. Sa rājaputto paridevayanto dasaṅguliṃ añjaliṃ paggahetvā, ahampi icchāmi janinda daṭṭhuṃ
jīvaṃ panetvā paṭidassayātha.

2543. Vị hoàng tử ấy, trong lúc than khóc, đã chắp lại mười ngón tay đưa lên (nói rằng): “Ta cũng muốn gặp vị chúa của loài người. Các ngươi hãy dẫn ta đi trong lúc ta còn sống. Các ngươi hãy để ta diện kiến phụ vương.”

5. Hoàng tử đứng kia cũng khóc than,
Vòng đôi tay lại, khẩn cầu ân:
"Xin tha mạng trẻ trong giây lát,
Ðem trẻ đi nhìn mặt phụ vương?"

2544. Tassa taṃ vacanaṃ sutvā rañño puttaṃ adassayuṃ, putto ca pitaraṃ disvā dūratovajjhabhāsatha

2544. Sau khi nghe lời nói ấy của vị hoàng tử, họ đã để cho hoàng tử gặp đức vua. Và người con trai, sau khi nhìn thấy vua cha, từ đàng xa đã thưa rằng:

6. Nghe lời thỉnh nguyện tự nơi chàng,
Họ dẫn hoàng nhi đến phụ hoàng,
Hoàng tử từ xa nhìn đại đế,
Chàng liền tâu vậy với nghiêm đường:

2545. Āgañchuṃ dovārikā khaggabaddhā kāsāviyā hantu mamaṃ janinda, akkhāhi me pucchito etamatthaṃ aparādho konidha mamajja atthi.  

2545. “Các ngự lâm quân mang gươm và các đao phủ đã đi đến để giết chết con. Tâu vị chúa của loài người, được hỏi về sự việc này, xin cha hãy nói cho con. Hôm nay, con có lỗi lầm gì ở đây?”

7. "Quân sĩ cứ mang kiếm chém đầu,
Song nghe con trẻ trước, muôn tâu,
Xin cho con rõ, tâu Hoàng thượng,
Con đã làm nên tội lỗi nào?".

2546. Sāyañca pāto udakaṃ sajāti aggiṃ sadā paricaratappamatto, taṃ tādisaṃ saṃyataṃ brahmacāriṃ
kasmā tuvaṃ brūsi gahapatīti.  

2546. “Là người sáng và chiều lội xuống nước (rửa tội), luôn luôn thờ phượng ngọn lửa, không xao lãng, vì sao con lại gọi vị ấy, bậc đã thu thúc, có Phạm hạnh như thế ấy, là ‘gia chủ’?”

8. Sáng chiều kéo nước, bậc hiền nhân
Ngọn lửa chăm nom, chẳng chút ngừng,
Hãy trả lời ta, sao lại dám
Gọi ngài thánh thiện kẻ phàm trần?

2547. Tālā ca mūlā ca phalā ca deva pariggahā vividhā santimassa, te rakkhati gopayatappamatto
brāhmaṇo gahapati tena hoti.  

2547. “Tâu phụ vương, các rau cải, các rễ củ, và các trái cây là các vật sở hữu nhiều loại của người này. Gã bảo vệ, gìn giữ chúng, không xao lãng; vì việc ấy, vị Bà-la-môn trở thành người gia chủ.”

9. Lão có nhiều cây với trái đầy,
Phụ vương xem đủ sắn khoai này
Chăm nom chúng, lão không ngừng nghỉ,
Lão chính phàm nhân, trẻ nói ngay.

2548. Saccaṃ kho etaṃ vadasi kumāra pariggahā vividhā santimassa, te rakkhati gopayatappamatto
brāhmaṇo gahapati tena hoti.  

2548. “Này hoàng tử, điều con nói ấy quả là sự thật. Người này có các vật sở hữu nhiều loại. Gã bảo vệ, gìn giữ chúng, không xao lãng; vì việc ấy, vị Bà-la-môn trở thành người gia chủ.”

10. Ðúng là lão có thật nhiều cây
Với các loại rau, củ trái đầy,
Chăm sóc trông nom không chút nghỉ,
Phàm nhân, quả đúng trẻ tâu bày.

2549. Suṇantu mayhaṃ parisā samāgatā sanegamā jānapadā ca sabbe, bālāyaṃ bālassa vaco nisamma
ahetunā ghātayate janindo.  

2549. “Này các đồ chúng đã tụ tập lại, cùng các thị dân, và tất cả dân chúng, các người hãy lắng nghe ta: ‘Người này là kẻ ngu; sau khi nghe theo lời nói của kẻ ngu, vị chúa của loài người ra lệnh giết hại không có nguyên nhân.

11. Này nghe ta nói, hỡi toàn dân,
Dân chúng thị thành lẫn dã nhân,
Chúa thượng nghe lời người xuẩn ngốc,
Khiến người vô tội phải vong thân.

2550. Daḷhasmi mūle visate virūḷhe dunnikkhayo veḷu pasākhajāto, vandāmi pādāni tavaṃ janinda
anujāna maṃ pabbajissāmi deva.  

2550. Khi phần rễ được vững chắc, đã được lan rộng, đã được lớn mạnh, cây tre đã mọc nhánh thì khó dời đi. Tâu vị chúa của loài người, con xin đảnh lễ các bàn chân của người. Tâu bệ hạ, xin cha hãy cho phép con. Con sẽ xuất gia.”

12. Phụ vương, cây tỏa rộng hùng cường,
Nhành trẻ, con sinh tự phụ vương,
Con cúi mình đây xin phép được
Giã từ thế tục để lên đường.

2551. Bhuñjassu bhoge vipulaphale kumāra sabbañca te issariyaṃ dadāmi, ajjeva tvaṃ kurunaṃ hohi rājā
mā pabbaji pabbajjā hi dukkhā.  

2551. “Này hoàng tử, con hãy hưởng thụ các của cải có hiệu quả lớn lao, và trẫm ban cho con toàn bộ vương quyền. Ngay hôm nay, con hãy là đức vua của xứ Kuru. Con chớ có xuất gia, bởi vì xuất gia là khổ.”

13. Vương nhi, hưởng phú quý huy hoàng,
Ngự trị Câu-lâu chiếc bệ vàng,
Ðừng bỏ thế gian, gây khổ não
Cho mình, hãy nhận lễ đăng quang!

2552. Kinnūdha deva tavamatthi bhogo pubbevahaṃ devaloke ramissaṃ, rūpehi saddehi atho rasehi
gandhehi phassehi manoramehi.

2552. “Tâu bệ hạ, vậy có cái gì ở nơi này là vật hưởng thụ của bệ hạ? Trước đây, ở thế giới chư Thiên, con đã vui sướng với các sắc, với các thinh, rồi với các vị, với các hương, với các xúc, với các pháp làm thích ý.

14. Trần thế này đem lạc thú nào?
Khi xưa con đã ở trời cao,
Sắc, thanh, hương, vị và xúc cảm,
Lòng vẫn thường yêu chuộng biết bao!

2553. Bhuttā me bhogā tidivasmi deva parivāritā accharānaṃ gaṇena, tuvañca bālaṃ paraneyyaṃ viditvā na tādise rājakule vaseyyaṃ.  

2553. Tâu bệ hạ, con đã hưởng thụ ở cõi Trời các của cải được vây quanh bởi đoàn tiên nữ. Và sau khi biết được quyền lực của bệ hạ có thể bị người khác lèo lái, con không nên sống ở gia đình vua chúa như thế ấy.”

15. Con từ bỏ hết nghiệp duyên xưa
Thiên lạc cùng thiên nữ ngọc ngà,
Với phụ vương là vua yếu kém,
Con không muốn ở nữa bây giờ.

2554. Sacāhaṃ bālo paraneyyohamasmi ekāparādhaṃ khama putta mayhaṃ, punāpi ce edisakaṃ  bhaveyya yathāmati somanassaṃ karohi.  

2554. “Nếu trẫm là kẻ ngu, nếu trẫm là có thể bị người khác lèo lái, này con trai, hãy tha thứ cho trẫm một lần lầm lỗi. Nếu việc như thế này xảy ra lần nữa, này Somanassa, con hãy làm theo ý nghĩ của con.”

16. Nếu cha kém trí, hỡi hoàng nam,
Tha thứ cha nay việc đã làm,
Giả sử cha còn làm việc ấy,
Cha tùy con định, chẳng kêu than.

2555. Anisamma kataṃ kammaṃ anavatthāya cintitaṃ, bhesajjasseva vebhaṅgo vipāko hoti pāpako.  

2555. “Hành động đã được làm không suy xét trước, đã được suy nghĩ không cân nhắc, tựa như sự thất bại của phương thuốc, kết quả đạt được là xấu xa.

17. Hành động không suy nghĩ trước sau,
Hoặc làm không cân nhắc dài lâu,
Cũng như sử dụng lầm phương thuốc,
Hậu quả ắt là phải khổ đau.

2556. Nisamma ca kataṃ kammaṃ sammāvatthāya cintitaṃ, bhesajjasseva sampatti vipāko hoti bhadrako.  

2556. Và hành động đã được làm sau khi suy xét, đã được suy nghĩ sau khi cân nhắc đúng đắn, tựa như sự thành công của phương thuốc, kết quả đạt được là tốt đẹp.

18. Hành động nào suy tính thật lâu,
Khôn ngoan thận trọng tiếp theo sau,
Giống như vị thuốc nhiều công hiệu,
Kết quả tất nhiên phải nhiệm mầu.

2557. Alaso gihī kāmabhogī na sādhu asaññato pabbajito na sādhu, rājā na sādhu anisammakārī
yo paṇḍito kodhano taṃ na sādhu.  

2557. Người tại gia biếng nhác có sự thọ hưởng các dục, là không tốt. Bậc xuất gia không tự chế ngự, là không tốt. Vị vua có hành động không suy xét, là không tốt. Người sáng suốt có sự phẫn nộ, việc ấy là không tốt.

19. Con chán ghét người ở thế gian
Buông lung phóng dật, dục tham tràn,
Người tu khổ hạnh hư danh đó
Là kẻ dối gian lộ rõ ràng.
Một vị hôn quân thường xử án
Chẳng hề nghe lý lẽ phân trần;
Chẳng bao giờ gọi là chân chánh
Cơn giận bùng lên ở trí nhân.

2558. Nisamma khattiyo kayirā nānisamma dipampati, nisammakārino rāja yaso kitti ca vaḍḍhati.  

2558. Vị Sát-đế-lỵ nên hành động sau khi suy xét. Bậc chúa tể một phương không thể không suy xét. Tâu bệ hạ, người hành động sau khi suy xét có danh vọng và tiếng tăm tăng trưởng.

20. Một vị vua xem xét kỹ càng
Rồi ban lời phán xử công bằng,
Khi vua cân nhắc lời phân xử,
Danh tiếng đời đời mãi vọng vang.

2559. Nisamma daṇḍaṃ paṇayeyya issaro vegākataṃ tapate bhūmipāla, sammāpaṇidhi ca narassa atthā
anānutappā te bhavanti pacchā.  

2559. Tâu đấng hộ quốc, vị quân vương nên ấn định hình phạt sau khi đã suy xét. Việc đã được làm một cách vội vã làm cho bực bội. Và các quyết định đúng đắn vì lợi ích của con người sẽ không là các nỗi hối tiếc cho bệ hạ về sau này.

21. Những hình phạt Chúa thượng truyền ban
Phải được đắn đo thật kỹ càng
Những việc làm trong lúc vội vã
Sẽ gây hối hận lúc thư nhàn.
Nếu lòng phát nguyện nhiều điều tốt,
Sau chẳng đau buồn hối tiếc mang.

2560. Anānutappāni hi ye karonti vibhajja kammāyatanāni loke, viññuppasatthāni sukhudrayāni
bhavanti vaddhānumatāni tāni.  

2560. Bởi vì những người nào, sau khi đã phân tích các loại nghiệp ở thế gian, rồi làm các việc không gây ra sự hối tiếc, các việc ấy được khen ngợi bởi những vị hiểu biết, là các nguồn tạo ra sự an lạc, được tán thành bởi các bậc trưởng thượng.

22. Những người có việc phải thi hành,
Muốn chẳng gây ân hận với mình
Thường đắn đo bao điều thận trọng,
Tạo nên thiện nghiệp thật an lành,
Làm công đức thỏa lòng hiền thánh,
Ðược tán tụng từ bậc trí minh.

2561. Āgañchuṃ dovārikā khaggabaddhā kāsāviyā hantu mamaṃ janinda, mātu ca aṅkasmiṃ ahaṃ nisinno ākaḍḍhito sahasā tehi deva.

2561. Tâu vị chúa của loài người, các ngự lâm quân mang gươm và các đao phủ đã đi đến để giết chết con. Và tâu bệ hạ, con đang ngồi bên cạnh mẫu hậu thì đã bị bọn chúng lôi đi bằng bạo lực.

23. Cha thét: "Kìa đao phủ, hãy mau!
Ði tìm vương tử của ta nào,
Nơi đâu bây kiếm, liền đem giết!"
Lúc trẻ ngồi bên mẹ dựa đầu,
Bọn chúng tìm ra con trẻ đó,
Rồi lôi đi thật bạo tàn sao?

2562. Kaṭukamhi sambādhaṃ sukicchapatto madhuraṃ piyaṃ jīvitaṃ laddhu rāja, kicchenāhaṃ ajja vadhā pamutto pabbajjamevābhimanohamasmi.  

2562. Tâu bệ hạ, con đã gặp phải sự trở ngại cay đắng, vô cùng đau đớn, để đạt được mạng sống ngọt ngào, yêu quý. Hôm nay, con được thoát khỏi cái chết một cách khó khăn. Con có ý dứt khoát về việc xuất gia.”

24. Trẻ thơ non nớt, xử như vầy,
Con thấy chúng tàn nhẫn quá tay,
Nay thoát cảnh đày thân độc ác,
Con rời thế, chẳng sống nơi đây.

2563. Putto tavāyaṃ taruṇo sudhamme anukampako somanasso kumāro,taṃ yācamāno na labhāmi  sajja arahāsi naṃ yācitave tuvampi.  

2563. “Này hoàng hậu Sudhammā, người con trai này của nàng, hoàng tử Somanassa, còn trẻ, và có lòng thương xót. Hôm nay, trong khi nó cầu xin điều ấy, trẫm đây không chấp nhận. Nàng cũng thích hợp để thuyết phục con (bỏ ý định xuất gia).”

25. Vậy vương nhi đó, Su-dham-ma,
Vừa thốt lời từ chối lệnh ta,
Quí tử So-ma bao khả ái;
Vì ta không mãn nguyện bây giờ,
Ðích thân hoàng hậu nên xem thử
Có chuyển lay lòng trí trẻ thơ.

2564. Ramassu bhikkhācariyāya putta nisamma dhammesu paribbajassu,sabbesu bhūtesu nidhāya  daṇḍaṃ anindito brahmamupehi ṭhānaṃ.  

2564. “Này con trai, con hãy vui thích việc thực hành khất thực. Sau khi suy xét về các pháp, con hãy xuất gia. Sau khi dẹp bỏ hình phạt đối với tất cả chúng sanh, con không bị chê trách, con hãy tiến đến vị thế Phạm thiên.”

26. Hãy vui đời Thánh hạnh, hoàng nam,
Tuân thủ chánh chân, bỏ cõi phàm,
Ai giữa quần sinh không độc ác
Sẽ lên thiên giới, chẳng sai lầm.

2565. Acchariyarūpaṃ vata yādisañca dukkhitaṃ maṃ dukkhāpayase sudhamme, yācassu puttaṃ iti vuccamānā
bhiyyova ussāhayase kumāraṃ.  

2565. “Điều như thế này có vẻ kỳ lạ thật đấy! Này hoàng hậu Sudhammā, trẫm đang khổ, nàng lại khiến cho trẫm phải khổ. Trong khi được nói rằng: ‘Nàng hãy thuyết phục con trai (bỏ ý định xuất gia),’ nàng còn khuyến khích hoàng tử thêm nữa.”

27. Chuyện lạ này nghe tự ái khanh,
Sầu đang chất ngất ở trong mình,
Bảo nàng khuyên nhủ con dừng lại,
Nàng chỉ giục con phải bước nhanh.

2566. Ye vippamuttā anavajjabhojino, parinibbutā lokamimaṃ caranti, tamariyamaggaṃ paṭipajjamānaṃ
na ussahe vārayituṃ kumāraṃ.

2566. “Các vị nào đã được giải thoát, có sự thọ hưởng không bị chê trách, đã được hoàn toàn diệt tắt, đang sống ở thế gian này, thiếp không ra sức để ngăn cản hoàng tử thực hành đạo lộ cao thượng của các vị ấy.

28. Có hạng người không đắm dục tham,
Thoát sầu bi, sống chẳng sai lầm,
Nhiều người đắc Niết-bàn cao thượng:
Ví thử hoàng nhi muốn dự phần
Cùng tiến lên con đường Thánh hạnh,
Thì hoài công cản bước hoàng nam.

2567. Addhā have sevitabbā sapaññā bahussutā ye bahuṭhānacintino, yesāyaṃ sutvāna subhāsitāni
appossukkā vītasokā sudhammā ”ti.

2567. Quả thật, đúng vậy, các bậc có trí tuệ, các bậc đa văn, các vị có những suy nghĩ thiết thực nên được thân cận. Sau khi lắng nghe những lời thiện thuyết của các vị này, thiếp đây ít ham muốn, không còn sầu muộn, có thiện pháp.”

29. Quả thật là chân chánh thiện tâm,
Tôn sùng bậc trí tuệ cao thâm
Tâm tư siêu việt thường sinh khởi,
Ái hậu từng nghe các diệu âm,
Thông hiểu kiến văn nhiều bậc Thánh,
Nên không còn khổ não, tham lam.

Somanassajātakaṃ.

***

Bổn sanh Hoàng Tử Somanassa. [505]



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada