(Tiền thân Bhallàtiya)

2514. Bhallāṭiyo nāma ahosi rājā raṭṭhaṃ pahāya migavaṃ acāri so, agamā girivaraṃ gandhamādanaṃ
sampupphitaṃ kimpurisānuciṇṇaṃ.  

2514. Xưa có vị vua tên là Bhallāṭiya. Vị vua ấy đã bỏ bê xứ sở đi săn thú. Đức vua đã đi đến ngọn núi cao quý Gandhamādana được trổ đầy hoa, được lui tới bởi loài nhân điểu.

1. Ngày xưa có đại đế Bhal-là,
Ngài vẫn đi săn bắn thật xa,
Trèo tận Hương Sơn và chợt thấy
Ðầy hoa nở rộ với yêu ma.

2515. Sālūra saṅghañca nisedhayitvā dhanuṃ kalāpañca so nikkhipitvā, upāgami vacanaṃ vattukāmo
yatthaṭṭhitā kimpurisā ahesuṃ.

2515. Và sau khi ngăn lại bầy chó săn, đức vua đã đặt cây cung và bó tên xuống. Với ý định thốt lên lời thăm hỏi, đức vua đã đi đến gần nơi có hai nhân điểu đang đứng.

2. Ngài truyền bầy chó thảy nằm yên,
Ðặt các cung tên xuống đất liền,
Tiến bước để đưa lời ướm hỏi,
Chốn kia vừa thấy cặp thần tiên:

2516. Himaccaye hemavatāya tīre kimidhaṭṭhitā mantayavho abhiṇhaṃ, pucchāmi vo mānusadehavaṇṇe
kathaṃ vo jānanti manussaloke.

2516. “Khi mùa đông đã qua đi, có phải hai ngươi thường đứng tâm sự ở đây, bên bờ sông Hemavatā? Ta hỏi hai ngươi, những kẻ có cơ thể và dáng vóc của con người, ở thế giới nhân loại, người ta nhận biết hai ngươi như thế nào?”

3. "Ðông đã qua, sao lại trở về
Hàn huyên tâm sự cạnh sơn khê?
Các ngươi sao giống phàm nhân quá,
Người gọi loài gì, nói trẫm nghe".

2617. Mallaṃ giriṃ paṇḍarakaṃ tikūṭaṃ sītodiyā anuvicarāma najjo, migā manusasāva nibhāsavaṇṇā
jānanti no kimpurisāti ludda.

2517. “Thưa thợ săn, chúng tôi đi du ngoạn đến núi Malla, đến các con sông Paṇḍaraka và Tikūṭa có nước mát lạnh. Chúng tôi là loài thú, có bề ngoài và dáng vóc tựa như con người; người ta nhận biết chúng tôi là ‘loài nhân điểu.’”

4. Tam đỉnh, Hoàng Sơn, núi Mã-la,
Chúng thần men suối mát, băng qua,
Thú rừng cứ tưởng là người thật,
Song bọn đi săn gọi quỷ ma.

2518. Sukiccharūpaṃ paridevayavho āliṅgito cāsi piyo piyāya, pucchāmi vo mānusadehavaṇṇe
kimidha vane rodatha appatītā.

2518. “Là người yêu được người yêu ôm ấp, mà hai ngươi than van có vẻ vô cùng khổ sở. Ta hỏi hai ngươi, những kẻ có cơ thể và dáng vóc của loài người, việc gì hai ngươi lại ủ rũ, khóc lóc ở đây, trong khu rừng?

5. Các ngươi âu yếm tựa tình nhân,
Song lại khóc than thật não nùng,
Tiên chúng giống như người thế tục,
Cớ sao than khóc, hãy phân trần!

2519. Sukiccharūpaṃ paridevayavho āliṅgito cāsi piyo piyāya, pucchāmi vo mānusadehavaṇṇe
kimidha vane vilapatha appatītā.  

2519. Là người yêu được người yêu ôm ấp, mà hai ngươi than van có vẻ vô cùng khổ sở. Ta hỏi hai ngươi, những kẻ có cơ thể và dáng vóc của loài người, việc gì hai ngươi lại ủ rũ, kể lể ở đây, trong khu rừng?

6. Các ngươi mơn trớn tựa uyên ương,
Song khóc đầy ai oán thảm thương,
Ðôi lứa khác nào người thế tục,
Sao sầu đau thế? Nói cho tường!

2520. Sukiccharūpaṃ paridevayavho āliṅgito cāsi piyo piyāya, pucchāmi vo mānusadehavaṇṇe
kimidha vane socatha appatītā.  

2520. Là người yêu được người yêu ôm ấp, mà hai ngươi than van có vẻ vô cùng khổ sở. Ta hỏi hai ngươi, những kẻ có cơ thể và dáng vóc của loài người, việc gì hai ngươi lại ủ rũ, sầu muộn ở đây, trong khu rừng?”

7. Như các tình nhân, cứ vuốt ve,
Song lời than khóc thật lê thê,
Các ngươi trông giống người trần tục,
Sao quá bi ai? Nói trẫm nghe!

2521. Mayamekarattiṃ vippavasimha ludda akāmakā aññamaññaṃ sarantā, tamekarattiṃ anutappamānā socāma sā ratti punaṃ na hessati.  

2521. “Thưa thợ săn, chúng tôi đã sống xa nhau một đêm một cách miễn cưỡng. Trong khi nhớ nhung lẫn nhau, trong khi hối tiếc một đêm ấy, chúng tôi sầu muộn (ước rằng): ‘Đêm ấy sẽ không xảy ra lần nữa.’” 8. Chàng, thiếp một đêm cách biệt nhau,
Không tình ân ái, nặng u sầu,
Tương tư, song chẳng bao giờ có
Ðêm ấy trở về được nữa đâu.

2522. Yamekarattiṃ anutappathetaṃ dhanaṃ va naṭṭhaṃ pitaraṃ va petaṃ, pucchāmi vo mānusadehavaṇṇe kathaṃ vināvāsamakappayittha.  

2522. “Hai ngươi hối tiếc một đêm ấy tựa như hai ngươi tiếc nuối tài sản bị mất mát, hay tiếc nuối người cha đã qua đời. Ta hỏi hai ngươi, những kẻ có cơ thể và dáng vóc của loài người, như thế nào hai ngươi đã phải chịu cuộc sống xa cách?”9. Sao nằm đêm ấy quá cô đơn,
Ðã khiến ngươi rền rĩ tiếc thương?
Ðôi trẻ giống như người thế tục
Mất tiền, hay lão phụ từ trần?

2523. Yayimaṃ nadiṃ passasi sīghasotaṃ nānādumacchadanaṃ selakūṭaṃ, tamme piyo uttari vassakāle
mamañca maññaṃ anubandhatīti.  

2523. “Ngài hãy nhìn xem con sông này, có dòng nước chảy xiết giữa hai bờ đá, có sự che khuất bởi nhiều loại cây cối. Vào lúc trời mưa, người yêu của thiếp đã vượt qua con sông ấy, trong lúc nghĩ về thiếp rằng: ‘Nàng ấy bước theo sau.’10. Ðằng kia, bóng mát, suối tuôn ra,
Giữa đá, rồi cơn bão thổi qua,
Vì quá lo âu tìm kiếm thiếp,
Nên tình quân đã lội qua bờ.

2524. Ahañca aṅkolakaṃ ocināmi atimuttakaṃ sattaliyothikañca, piyo ca me hohiti mālabhārī
ahañca naṃ mālinī ajjhupessaṃ.

2524. Còn thiếp bận thu hái các loại hoa aṅkolaka này, hoa atimuttaka, hoa sattali, và hoa yothika, (nghĩ rằng): ‘Người yêu của ta sẽ đeo tràng hoa, và ta cũng sẽ đeo tràng hoa rồi đi đến bên chàng.’

11. Trong lúc đôi chân thiếp rộn ràng,
Thiếp đi tìm cỏ nội hoa ngàn,
Làm vòng đeo, tặng chàng yêu dấu
Và thiếp, vừa khi gặp lại chàng.

2525. Ahañcidaṃ kuravakaṃ ocināmi uddālakā pāṭalisinduvārakā, piyo ca me hohiti mālabhārī
ahañca naṃ mālinī ajjhupessaṃ.

2525. Rồi thiếp thu hái các loại hoa kuravaka, hoa uddālakā, hoaṭali, hoa sinduvāraka, (nghĩ rằng): ‘Người yêu của ta sẽ đeo tràng hoa, và ta cũng sẽ đeo tràng hoa rồi đi đến bên chàng.’

12. Kết bó chuông vàng, đồng thảo xanh,
Thủy tiên trắng mát đượm sương lành
Cho chàng yêu cả vòng hoa cổ
Cùng thiếp, vừa khi gặp bạn tình.

2526. Ahañca sālassa supupphitassa oceyya pupphāni karomi mālaṃ, piyo ca me hohiti mālabhārī
ahañca naṃ mālinī ajjhupessaṃ.

2526. Và sau khi thu hái các bông hoa của cây sāla khéo được nở rộ, thiếp làm tràng hoa, (nghĩ rằng): ‘Người yêu của ta sẽ đeo tràng hoa, và ta cũng sẽ đeo tràng hoa rồi đi đến bên chàng.’

13. Rồi sau thiếp hái bó hoa hồng
Là thứ hoa xinh đẹp nhất vùng,
Ðể kết liền cho chàng với thiếp
Vòng hoa đeo cổ, lúc tương phùng.

2527. Ahañca sālassa supupphitassa oceyya pupphāni karomi bhāraṃ, idañca no hohiti santharatthaṃ
yatthajjamaṃ viharissāmu rattiṃ.  

2527. Và sau khi thu hái các bông hoa của cây sāla khéo được nở rộ, thiếp làm thành đống (nghĩ rằng): ‘Cái này sẽ dùng làm tấm trải cho chúng ta, là nơi mà hôm nay chúng ta sẽ sống qua đêm này.’

14. Kế hoa là lá, thiếp đi tìm
Về trải đầy trên mặt đất mềm
Nơi suốt đêm trường chung gối mộng,
Uyên ương thiêm thiếp giấc nồng êm.

2528. Ahaṃ ca kho agaḷuṃ candanañca silāya piṃsāmi pamattarūpā, piyo ca me hohiti rositaṅgo
ahañca na rositā ajjhupessaṃ.  

2528. Và thiếp nghiền quế và trầm hương ở tảng đá cho đến khi nát vụn, (nghĩ rằng): ‘Người yêu của ta sẽ có thân thể được tẩm hương, và ta cũng sẽ được tẩm hương rồi đi đến bên chàng.’

15. Gỗ quế, trầm hương kế tiếp liền
Ðặt trên hòn đá, thiếp đâm nghiền,
Làm hương tắm khắp chàng yêu dấu
Và thiếp, mùi hương cực diệu huyền!

2529. Athāgamā salilaṃ sīghasotaṃ nudaṃ sāle salaḷe kaṇṇikāre,apūratha tena muhuttakena
sāyaṃ nadī āsi mayā suduttarā.

2529. Sau đó, thiếp đã đi đến con sông có dòng nước chảy xiết, mang theo các loại bông hoa sāla, hoa salaḷa, hoa kaṇṇikāra. Trong khoảnh khắc ấy, con sông này đã tràn đầy; nó đã trở nên vô cùng khó vượt qua đối với thiếp. 16. Ðứng bên bờ suối chảy tuôn dòng,
Thiếp hái hoa sen mãi đến cùng:
Chiều xuống, suối kia tràn khắp chốn,
Muốn sang bờ nọ, hết chờ mong!

2530. Ubhosu tīresu mayaṃ tadā ṭhitā sampassantā ubhayo aññamaññaṃ, sakimpi rodāma sakiṃ hasāma kicchena no agamā saṃvarī sā.  

2530. Khi ấy, cả hai chúng tôi đứng ở hai bên bờ sông, người này nhìn người kia. Thậm chí, chúng tôi đã cùng khóc, chúng tôi đã cùng cười. Đối với chúng tôi, đêm ấy đã qua đi một cách khó khăn.

17. Ðành đứng cả hai ở mỗi bờ,
Nhìn nhau tha thiết, ngóng ngang qua,
Ôi, bao tiếng khóc cười đôi ngả,
Ðêm ấy cùng đau đớn xót xa!

2531. Pāto ca kho uggate sūriyamhi catukkaṃ nadiṃ uttariyāna ludda, āliṅgiyā aññamaññaṃ mayaṃ ubho sakimpi rodāma sakiṃ hasāma.  

2531. Rồi vào buổi sáng, khi mặt trời đã mọc lên, sau khi vượt qua con sông cạn khô, thưa thợ săn, cả hai chúng tôi đã ôm ấp lẫn nhau. Thậm chí, chúng tôi đã cùng khóc, chúng tôi đã cùng cười.18. Sáng lại, vừng đông đã mọc cao,
Khi nhìn con suối cạn khô mau,
Thiếp, chàng vội bước, ôm nhau chặt,
Lập tức cùng cười, khóc với nhau!

2532. Tīhūnakaṃ satta satāni ludda yamidha mayaṃ vippavasimha pubbe, vāsekimaṃ jīvitaṃ bhūmipāla
konīdha kantāya vinā vaseyya.  

2532. Thưa thợ săn, thiếu ba năm nữa là đủ bảy trăm, ở nơi này, trước đây chúng tôi đã sống xa nhau. Tâu đấng hộ quốc, vậy người nào ở nơi đây có thể sống cuộc sống này thiếu vắng người vợ một năm?”19. Gần bảy trăm năm chỉ thiếu ba,
Từ khi chàng, thiếp phải chia xa,
Tim yêu tan nát sầu ly biệt,
Dằng dặc tưởng chừng trọn kiếp qua!

2533. Āyuñca vo kīvatako nu samma sacepi jānātha vadetha āyuṃ,anussavā vaddhato āgamā vā
akkhātha me taṃ avikampamānā.  

2533. “Này các bạn, vậy tuổi thọ của các bạn là bao nhiêu? Nếu các bạn biết, xin các bạn hãy nói về tuổi thọ (của các bạn) theo truyền thuyết, hay do sự truyền thừa từ bậc trưởng thượng. Xin các bạn hãy trả lời cho trẫm điều ấy, không phải run sợ.”

20. Ðời người kỳ hạn đến bao giờ?
Nếu chuyện này truyền lại thuở xưa,
Hoặc giả theo lời nhiều trưởng lão,
Thì đừng sợ hãi, nói cùng ta.

2534. Āyuñca no vassasahassaṃ ludda na cantarā pāpako atthi rogo, appañca dukkhaṃ sukhameva bhiyyo avītarāgā vijahāma jīvitaṃ.  

2534. “Thưa thợ săn, tuổi thọ của chúng tôi là một ngàn năm, trong khoảng thời gian ấy không có tai họa, không có bệnh hoạn, ít khổ đau, còn hạnh phúc thì vượt trội. Chúng tôi lìa bỏ mạng sống, với sự luyến ái còn chưa vơi.”

21. Một ngàn mùa hạ thắm, an khương,
Chẳng chịu nhiều đau khổ đoạn trường,
Ít gặp ưu sầu, đầy cực lạc,
Suốt đời ngập hạnh phúc yêu đương!

2535. Idañca sutvāna amānusānaṃ bhallāṭiyo ittaraṃ jīvitanti, nivattatha na migavadhaṃ acāri
adāsi dānāni abhuñji bhoge.

2535. Và sau khi nghe được điều này của hai phi nhân, đức vua Bhallāṭiya (nghĩ rằng): ‘Mạng sống là ngắn ngủi,’ rồi đã quay trở về, đã không đi săn thú, đã ban phát các vật thí, đã thọ hưởng các của cải.

22. Nhờ được đôi tiên khuyến bảo vầy,
Ðại vương trở lại bước đường ngay,
Bỏ săn, cấp dưỡng người nghèo túng,
An hưởng tháng ngày lướt nhẹ bay.

2536. Idañca sutvāna amānusānaṃ
sammodatha mā kalahaṃ akattha,
mā vo tapī attakammāparādho
yathāpi te kimpurisekarattiṃ.  

2536. Và sau khi nghe được điều này của hai phi nhân, các vị hãy hòa thuận với nhau, chớ gây ra sự cãi cọ. Các vị chớ có sự hối tiếc, chớ có lỗi lầm ở hành động của bản thân. các vị cũng chớ có giống như câu chuyện một đêm (xa cách) của loài nhân điểu.

23. Rút ra bài học của tiên kia,
Ðừng cãi nhau, mà sửa thói lề,
Kẻo các ngài sầu như bọn chúng
Suốt đời, vì chính bởi lầm mê.

2537. Idañca sutvāna amānusānaṃ
sammodatha mā vivādaṃ akattha,
mā vo tapī attakammāparādho
yathāpi te kimpurisekarattiṃ.  

2537. Và sau khi nghe được điều này của hai phi nhân, các vị hãy hòa thuận với nhau, chớ gây ra sự tranh cãi. Các vị chớ có sự hối tiếc, chớ có lỗi lầm ở hành động của bản thân. các vị cũng chớ có giống như câu chuyện một đêm (xa cách) của loài nhân điểu.”

24. Lấy ngay bài học tự đôi tiên,
Ðừng khấu tranh, mà sửa thói quen,
Kẻo chịu đau buồn như bọn chúng
Suốt đời, vì chính lỗi lầm riêng.

2538. Vividha -adhimanā suṇomahaṃ vacanapathaṃ tava atthasaṃhitaṃ, muñca giraṃ nudaseva me daraṃ samaṇa sukhāvaha jīva me ciranti.  

2538. “Thiếp chú tâm lắng nghe phương thức trình bày của Ngài, có tính đa dạng, liên hệ đến lợi ích. Trong khi cất lên giọng nói, Ngài đã xua đi nỗi lo lắng của thiếp. Thưa vị Sa-môn, thưa bậc đem lại sự an lạc cho thiếp, cầu mong Ngài sống lâu.”

25. Giờ đây kính bạch Thánh nhân,
Với lòng nhu thuận phục tuân sẵn sàng,
Con nghe được các lời vàng,
Tràn đầy thiện ý, chứa chan nhân từ,
Muôn vàn phước đức Tôn Sư!
Ngài vừa khuyến nhủ, ưu tư trút liền!

Bhallāṭiyajātakaṃ.

***

Bổn sanh Vua Bhallāṭiya. [504]



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada