(Tiền thân Sattigumba)
2487. Migaluddo mahārājā pañcālānaṃ rathesabho, nikkhanto saha senāya ogaṇo vanamāgamā.
2487. Vị đại vương, đấng thủ lãnh xa binh của xứ Pañcāla, thích săn bắt nai, trong khi xuất hành cùng với đoàn quân, đã rời đám đông đi vào khu rừng.
1. Vua xứ Pãn-ca với đạo quân
Lên đường săn bắn lũ nai rừng,
Trong rừng sâu thẳm vua đi lạc,
Chẳng có một ai ở kế gần.
2488. Tatthaddasā araññasmiṃ takkarānaṃ kuṭiṃ kataṃ, tassā kuṭiyā nikkhamma suvo luddāni bhāsati.
2488. Ở nơi ấy, trong khu rừng, đức vua đã nhìn thấy căn chòi đã được dựng lên của bọn cướp. Từ trong căn chòi ấy, có con két bước ra và nói những lời hung dữ:
2. Kìa, ngài trông thấy ở trong rừng
Bọn cướp đã làm chốn ẩn thân,
Anh vũ, một chim đang tiến bước,
Tức thì lời ác nó kêu vang:
2489. Sampannavāhano poso yuvā sammaṭṭhakuṇḍalo, sobhati lohituṇhīso divāsuriyova bhāsati.
2489. “Người nam, còn trẻ tuổi, có cỗ xe hoàn hảo, có bông tai được đánh bóng, có khăn đội đầu màu đỏ, tỏa sáng, tựa như mặt trời chiếu sáng vào ban ngày.
3. "Ngồi trên xe nọ, một nam trang,
Châu báu nhiều sao, lắm ngọc vàng,
Vương miện trên đầu vàng óng ánh
Chiếu hồng như thể ánh trời quang!
2490. Majjhantike sampaṭike sutto rājā sasārathi, handassābharaṇaṃ sabbaṃ gaṇhāma sahasā mayaṃ.
2490. Bây giờ, vào lúc giữa trưa, vua với người đánh xe đã ngủ. Nào, chúng ta hãy dùng bạo lực đoạt lấy tất cả đồ trang sức của người này.
4. Ngự quan cùng chúa ngủ say sưa,
Nằm đó lúc trời nắng giữa trưa,
Ta hãy cướp ngay đồ báu vật,
Nhanh lên, cất dấu hết bây giờ!
2491. Nisīthepi rahodāni sutto rājā sasārathi, ādāya vatthaṃ maṇikuṇḍalañca hantvāna sākhāhi apattharāma.
2491. Bây giờ vắng vẻ cũng như lúc nửa đêm, vua với người đánh xe đã ngủ. Chúng ta hãy lấy đi y phục và bông tai bằng ngọc ma-ni, rồi giết chết họ, và vùi lấp bằng những cành cây.”
5. Cảnh lặng yên như lúc nửa đêm,
Ngự quan cùng chúa ngủ nằm yên,
Bạc vàng châu báu, nào ta lấy,
Giết họ, rồi ta chất củi lên!".
2492. Kinnu ummattarūpova sattigumba pabhāsasi, durāsadā hi rājāno aggi pajjalito yathā.
2492. “Này chim két Sattigumba, ngươi nói cái gì như là kẻ bị điên khùng vậy? Bởi vì, các vị vua là khó lại gần, giống như ngọn lửa đã bùng cháy.”
6. Này Sat-ti, có phát điên khùng?
Lời lẽ nào nghe mới nói chăng?
Vua chúa giống như vầng lửa cháy,
Vô cùng nguy hiểm, nếu ta gần.
2493. Atha tvaṃ patikoḷamba matto thullāni gacchasi, mātari mayha naggāya kinnu tvaṃ vijigucchase.
2493. “Này Patikoḷamba, giờ ngươi lại say sưa, nói năng thô tháo. Trong khi mẹ của chúng ta bị thiếu thốn, vậy ngươi còn ghê tởm điều gì? 7. Ngu dại Pa-ti nói chuyện này
Và ông điên, chẳng phải ta đây,
Mẹ ta trần trụi, sao khinh bỉ
Nghề nghiệp nhà ta sống thuở rày?
2494. Uṭṭhehi samma taramāno rathaṃ yojehi sārathi, sakuṇā me na ruccanti aññaṃ gacchāma assamaṃ.
2494. “Này khanh, hãy mau dậy đi. Này xa phu, hãy thắng ngựa vào cỗ xe. Các con chim không làm ta vui thích. Chúng ta hãy đi đến chốn ẩn cư khác.”
8. Dậy mau, hiền hữu quản xa này,
Vào cỗ xe, nào thắng ngựa ngay,
Chỗ khác, ta tìm nơi ẩn náu,
Vì ta chẳng thích chú chim đây.
2495. Yutto ratho mahārāja yutto ca balavāhano, adhitiṭṭha mahārāja aññaṃ gacchāma assamaṃ.
2495. “Tâu đại vương, cỗ xe đã được thắng ngựa, phương tiện di chuyển có năng lực đã được sẵn sàng. Tâu đại vương, xin ngài bước lên. Chúng ta đi đến chốn ẩn cư khác.”
9. Xa mã thắng rồi, tâu Ðại vương!
Sẵn sàng đã buộc đủ dây cương,
Ðại vương, xin ngự vào xa giá,
Nơi khác, ta tìm để náu nương.
2496. Konu meva gatā sabbe ye asmiṃ paricārakā, esa gacchati pañcālo mutto tesaṃ adassanā.
2496. “Những kẻ nào sống ở nơi này, tất cả bọn ấy đã đi đâu rồi? Vua xứ Pañcāla ấy ra đi tự do, thoát khỏi tầm nhìn của chúng rồi.
10. Này đi đâu cả đám râu mày,
Họ vẫn thường lai vãng chốn đây?
Vua nước Pãn-cà vừa chạy mất,
Chúng không thấy nữa, hãy đi ngay!
2497. Kodaṇḍakāni gaṇhatha sattiyo tomarāni ca, esa gacchati pañcālo mā vo muñcittha jīvitaṃ.
2497. Các ngươi hãy cầm lấy các cây cung, các gươm đao, và các cây giáo. Vua xứ Pañcāla ấy ra đi rồi. Chớ để gã thoát khỏi các ngươi, còn sống sót.”
11. Vua ấy thoát thân có được chăng?
Hãy cầm lao, dáo với tên, cung;
Kìa Pãn-ca chúa vừa bay mất,
Này, chớ cho vua ấy thoát thân!
2498. Athāparo paṭinandittha suvo lohitatuṇḍako, svāgataṃ te mahārāja atho te adurāgataṃ, issarosi anuppatto yaṃ idhatthi pavedaya.
2498. Rồi, một con chim két khác, có mỏ đỏ, đã vui mừng đón tiếp: ‘Tâu đại vương, chào mừng ngài đã đến, và hoan nghênh ngài đã đến! Là bậc quân vương, bệ hạ ngự đến nơi này có việc gì, xin bệ hạ cho biết.
12. Chim Anh vũ với mỏ tươi hồng
Cung cách ân cần đã nói năng:
"Vạn tuế Ðại vương! Duyên hạnh ngộ
Ðưa đường ngài ngự đến đây chăng!
Vinh quang Ðại đế đầy uy lực,
Chúa thượng cần gì phải giáng lâm?
2499. Tindukāni piyālāni madhuke kāsumāriyo, phalāni khuddakappāni bhuñja rāja varaṃ varaṃ.
2499. Tâu bệ hạ, xin ngài chọn lấy trái ngon nhất và hãy thưởng thức các trái cây ngọt như mật ong, các trái tinduka, piyāla, madhuka,kāsumārī.
13. Tin-dook, Pi-yal, các lá cây,
Cùng Ka-su quả ngọt ngào thay,
Dù còn ít ỏi, tâu Hoàng thượng,
Chọn thức tối ưu, đó sẵn bày.
2500. Idampi pānīyaṃ sītaṃ ābhataṃ girigabbharā, tato piva mahārāja sace tvaṃ abhikaṅkhasi.
2500. Tâu đại vương, còn đây là nước uống mát lạnh đã được mang lại từ hang núi. Sau đó, bệ hạ hãy uống nước, nếu ngài mong muốn.
14. Nước mát từ hang núi thật sâu
Ẩn mình bên dưới ngọn đồi cao,
Oai hùng Ðại đế, tâu ngài ngự,
Ẩm thức tùy nghi thỏa khát khao.
2501. Araññaṃ uñchāya gatā ye asmiṃ paricārakā, sayaṃ uṭṭhāya gaṇhavho hatthā me natthi dātave.
2501. Những người sống ở nơi này đã đi vào rừng nhặt trái cây. Xin bệ hạ hãy tự mình đứng dậy và chọn lấy, thần không có tay để dâng lên.”
15. Mọi người đang lượm trái trong rừng,
Các vị nơi này vẫn trú thân,
Xin Chúa đích thân cầm ngự thiện,
Tay thần chẳng có để cung dâng!"
2502. Bhadrako vata yaṃ pakkhī dvijo paramadhammiko, atheso itaro pakkhī suvo luddāni bhāsati.
2502. “Con chim này quả thật là hiền thiện! Là con chim có đạo đức tuyệt vời. Còn con chim ấy ở nơi kia, con chim két nói những lời hung dữ rằng:
16. Chưa có chim nào ưu tú hơn,
Trên đời, Anh vũ quả thuần chơn,
Còn chim Anh vũ đằng kia ấy
Ðã nói bao điều thật ác ngôn:
2503. Etaṃ hanatha bandhatha mā vo muñcittha jīvitaṃ, iccevaṃ vipalantassa sotthiṃ pattosmi assamaṃ.
2503. ‘Các ngươi hãy giết chết gã ấy, hãy bắt lấy gã, Chớ để gã thoát khỏi các ngươi, còn sống sót.’ Trong khi nó lảm nhảm như vậy, trẫm đã đến được chốn ẩn cư này một cách an toàn.”
17. "Ðừng để nhà vua chạy thoát thân,
Ðến mau! Trói giết!" nó kêu vang,
Trẫm đi tìm đến am tu sĩ
Và thấy nơi này chốn vạn an.
2504. Bhātarosma mahārāja sodariyā ekamātukā, ekarukkhasmiṃ saṃvaḍḍhā nānākhettagatā ubho.
2504. “Tâu đại vương, cả hai chúng tôi là anh em, có cùng xuất xứ, có chung một mẹ, đã được lớn lên ở cùng một thân cây, rồi đã đi đến hai mảnh đất khác nhau.
18. Ðại đế! Chúng thần chính đệ huynh,
Cùng chung một mẹ đã khai sinh,
Cưu mang đôi trẻ trên cây nọ,
Song chốn khác nhau đã trưởng thành.
2505. Sattigumbo ca corānaṃ ahañca isinaṃ idha, asataṃ so sataṃ ahaṃ tena dhammena no vinā.
2505. Sattigumba ở với bọn cướp, còn thần ở nơi này với các vị ẩn sĩ. Nó ở giữa những kẻ xấu, thần giữa những người tốt, nên không thể không bị ảnh hưởng bởi tư cách của những người ấy.
19. Vì Sat-ti đến bọn cường gian,
Còn tiểu thần đi đến trí nhân,
Ác nọ, thiện đây, từ chỗ đó
Phát sinh lề thói chẳng cùng đàng.
2506. Tattha vadho ca bandho ca nikatī vañcanāni ca, ālopasahasākārā tāni so tattha sikkhati.
2506. Tại nơi ấy, có sự giết chóc, sự bắt bớ, sự tráo trở, và các sự gian lận, sự cướp giựt và các biểu hiện bạo lực; Sattigumba học theo các điều ấy ở nơi ấy.
20. Ðâm chém, xích xiềng, kế bất lương,
Những hành vi bịp bợm, tồi tàn,
Bao nhiêu bạo động và xung kích,
Chính đó là môn nó sở trường.
2507. Idha saccañca dhammo ca ahiṃsā saññamo damo, āsanūdakadāyīnaṃ aṅke vaddhosmi bhārata.
2507. Ở nơi này, có sự chân thật, có thiện pháp, và sự không hãm hại, có sự thu thúc, có sự rèn luyện. Tâu đức vua, thần đã được lớn lên trong sự bảo bọc của những người có thói quen bố thí chỗ ngồi và nước uống cho khách lạ.
21. Còn đây tiết độ, tự điều thân,
Nhân ái, công bằng với chánh chân,
Lữ khách uống ăn cùng trú ẩn,
Quây quần thần lớn giữa hiền nhân.
2508. Yaṃ yaṃ hi rāja bhajati sataṃ vā yadi vā asaṃ, sīlavantaṃ visīlaṃ vā vasaṃ tasseva gacchati.
2508. Tâu bệ hạ, bởi vì khi thân cận người nào, người ấy tốt hay xấu, có giới hạnh hay không có giới hạnh, ta sẽ chịu sự ảnh hưởng của chính người ấy.
22. Ðối với ác nhân hoặc thiện nhân
Mà người ta kính trọng tôn sùng,
Cho dù ác độc hay hiền đức,
Cũng khiến kẻ kia phải phục tùng.
2509. Yādisaṃ kurute mittaṃ yādisañcūpasevati, sopi tādisako hoti sahavāso hi tādiso.
2509. Khi kết bạn với người như thế nào, và thân cận với người như thế nào, ta đây cũng trở thành người như thế ấy; bởi vì sự cộng trú là như thế.
23. Khi ta ngưỡng mộ bạn tâm đồng,
Như một người tri kỷ, bạn lòng,
Người ấy sẽ đồng hành, kế cận
Bên mình ta đến phút sau cùng.
2510. Sevamāno sevamānaṃ samphuṭṭho samphusaṃ paraṃ, saro diddho kalāpaṃ va ālittamupalimpati, upalepabhayā dhīro neva pāpasakhā siyā.
2510. Người được hầu cận làm ô nhiễm người đang hầu cận mình, người được tiếp xúc làm ô nhiễm người khác đang tiếp xúc với mình, ví như mũi tên tẩm độc làm ô nhiễm túi tên còn chưa bị nhiễm độc. Do nỗi sợ hãi sự ô nhiễm, bậc sáng trí không bao giờ có bạn bè xấu xa.
24. Tình bạn kết giao thấm nhiễm dần,
Chuyện này ngài thấy quả là chân:
Cứ ngâm thuốc độc vào tên bắn,
Vỏ bọc cũng thành nhiễm độc luôn.
25. Người trí tránh bầu bạn ác nhân,
Vì e ô nhiễm chạm vào thân:
2511. Pūtimacchaṃ kusaggena yo naro upanayhati, kusāpi pūti vāyanti evaṃ bālūpasevanā.
2511. Người nào bao bọc con cá thối bằng ngọn cỏ, các ngọn cỏ cũng toát ra mùi hôi thối; tương tự như vậy, do việc thân cận với những kẻ ngu dốt (sẽ bị tổn hại danh tiếng).
Cá ươn, cứ gói trong chùm cỏ,
Sẽ thấy cỏ kia cũng thối nồng,
Những kẻ kết giao phường trí độn
Chính mình cũng sẽ hóa ngu đần.
2512. Tagarañca palāsena yo naro upanayhati, pattāpi surabhi vāyanti evaṃ dhīrūpasevanā.
2512. Người nào bao bọc gỗ thơm bằng lá cây, các chiếc lá cũng tỏa ra mùi thơm; tương tự như vậy, do việc thân cận với các bậc sáng trí (sẽ đạt được tiếng tốt).
26. Lá kia đem gói gỗ trầm hương,
Ngọn là liền thơm ngát dịu dàng,
Cũng vậy, nhiều người thành có trí,
Khi ngồi chầu các bậc hiền nhân.
2513. Tasmā phala puṭasseva ñatvā sampākamattano, asante nopaseveyya sante seveyya paṇḍito, asanto nirayaṃ nenti santo pāpenti suggatin ”ti.
2513. Vì thế, sau khi biết được hậu quả dành cho bản thân tương tự như kết quả của chiếc lá và vật chứa đựng, người sáng suốt không nên hầu cận những kẻ ác nhân, nên thân cận các bậc thiện nhân. Những kẻ ác nhân dẫn lối vào địa ngục, các bậc thiện nhân giúp cho đạt được cảnh giới an vui.”
27. Nhờ ví dụ này bậc trí nhân
Phải am tường lợi lạc riêng phần:
Tránh xa bầu bạn phường gian ác,
Và sánh vai cùng bậc chánh chân,
Thiên giới đợi chờ người chánh hạnh.
Đọa vào ngục tối bọn tà gian.
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada