(Tiền thân Hamsa)
2461. Ete haṃsā pakkamanti vakkaṅgā bhayameritā, harittaca hemavaṇṇa kāmaṃ sumukha pakkama.
2461. “Các con thiên nga ấy bay đi rồi, các con chim run rẩy vì sợ hãi. Này Sumukha có lông vàng, có sắc vàng, ngươi hãy bay đi như ý muốn.
1- Kìa đám hồng nga cất cánh bay,
Cả bầy hốt hoảng hãi kinh đầy,
Đi ngay, Sư mục lông vàng óng,
Khanh muốn gì chăng ở chốn này.
2462. Ohāya maṃ ñātigaṇā ekaṃ pāsavasaṃ gataṃ, anapekkhamānā gacchanti kiṃ eko avahīyasi.
2462. Đám thân quyến đã bỏ lại ta, ra đi không chờ đợi, khi một mình ta đã bị rơi vào bẫy, việc gì một mình ngươi còn ở lại?
2- Họ hàng ta đã bỏ rơi ta!
Bọn chúng đều cao chạy vút xa,
Đào tẩu ngay, không hề nghĩ lại,
Sao khanh đơn độc ở đây mà?
2463. Pateva patataṃ seṭṭha natthi baddhe sahāyatā, mā anīghāya hāpesi kāmaṃ sumukha pakkama.
2463. Này con chim cao cả, ngươi phải bay đi thôi! Không có tình bạn ở người bị giam cầm. Ngươi chớ bỏ lỡ cơ hội khi chưa bị nguy khốn. Này Sumukha, ngươi hãy bay đi như ý muốn.”
3- Thiên nga cao thượng hãy bay về,
Tù tội, thân không có bạn bè,
Lúc được tự do, Sư mục hỡi,
Bay đi! Đừng bỏ dịp may kề.
2464. Nāhaṃ dukkhaparetoti dhataraṭṭha tuvaṃ jahe, jīvitaṃ maraṇaṃ vā me tayā saddhiṃ bhavissati.
2464. “Thưa Dhataraṭṭha, (nghĩ rằng): ‘Ngài lâm cảnh khổ đau,’ tôi không thể bỏ rơi ngài. Tôi sẽ cùng sống hay cùng chết chung với ngài.”
4- Không, thần sẽ chẳng bỏ Nga vương,
Khi đến gần tai họa thảm thương,
Song ở lại đây, thần đã quyết
Bên ngài, dù sống chết không màng.
2465. Etadariyassa kalyāṇaṃ yaṃ tvaṃ sumukha bhāsasi, tañca vīmaṃsamānohaṃ patatetaṃ avassajiṃ.
2465. “Này Sumukha, điều ngươi nói là lời nói tốt lành của người thánh thiện. Và trong khi xem xét về ngươi, ta đã nói lời nói này: ‘Ngươi hãy bay đi.’”
5- Những lời khanh nói thật anh hùng,
Đại tướng ôi, cao cả tấm lòng!
Vì muốn thử lòng hiền hữu đó,
Trẫm đà bảo bạn hãy phi thân!
2466. Apadena padaṃ yāti antalikkhe caro dijo, ārā pāsaṃ na bujjhi tvaṃ haṃsānaṃ pavaruttamo.
2466. “Loài chim di chuyển ở không trung, tiến tới một bước không phải dùng chân. Ngươi là ưu tú nhất trong số các con chim thiên nga, tại sao từ đàng xa ngươi đã không phát hiện ra cái bẫy?”
6- Bọn chúng đều co cẳng vút bay,
Bầy chim tung cánh giữa trời mây,
Thiên nga vương giả, sao chim chẳng
Trông thấy từ xa chiếc bẫy này?
2467. Yadā parābhavo hoti poso jīvitasaṅkhaye, atha jālañca pāsañca āsajjāpi na bujjhati.
2467. “Khi con người có sự tiêu vong, ở vào giai đoạn cuối của mạng sống, thậm chí đã đến gần bên lưới giăng và bẫy sập cũng không nhận biết.”
7- Khi đời sắp sửa phút lâm chung,
Giờ tử thần đang tiến lại gần,
Dù bạn đứng kề bên chiếc bẫy,
Cũng không thấy bẫy đặt, dây giăng!
2468. Ete haṃsā pakkamanti vakkaṅgā bhayameritā, harittaca hemavaṇṇa tvañca taṃ avahīyasi.
2468. “Các con thiên nga ấy bay đi rồi, các con chim run rẩy vì sợ hãi. Này chim có lông vàng, có sắc vàng, có phải ngươi ở lại với chim kia?
8- Kìa đám hằng nga cất cánh bay,
Cả bầy hốt hoảng hãi kinh thay,
Còn Thiên nga có sắc vàng óng,
Bị bỏ rơi, còn nán đợi đây.
2469. Ete bhutvā pivitvā ca pakkamanti vibhaṅgamā, anapekkhamānā vakkaṅga tvaññeveko upāsasi.
2469. Này chim, các con chim ấy, sau khi ăn và uống xong, bay đi không chờ đợi, chỉ còn một mình ngươi hầu cận.
9- Cả đám hồng nga đã uống ăn,
Rồi bay về hết, chẳng quan tâm,
Qua không gian chúng lao vùn vụt,
Và bỏ mặc chim chỉ một thân!
2470. Kinnu tāyaṃ dijo hoti mutto baddhaṃ upāsasi, ohāya sakuṇā yanti kiṃ eko avahīyasi.
2470. Vậy con chim này là gì đối với ngươi? Ngươi được tự do, sao lại hầu cận kẻ bị giam cầm? Các con chim đã bỏ lại rồi ra đi, tại sao một mình ngươi hầu cận?”
10- Có gì quan hệ với chim này,
Khi cả đàn ruồng rẫy vụt bay,
Dù được tự do, chim ở lại,
Một mình kết bạn với kẻ tù đây?
2471. Rājo me so dijo mitto sakhā pāṇasamo ca me, neva naṃ vijahissāmi yāva kālassa pariyāyaṃ.
2471. “Chim ấy là vua, bạn bè, thân hữu của tôi, và sánh bằng mạng sống của tôi. Tôi sẽ không bao giờ rời bỏ chim ấy cho đến cuối cuộc đời.”
11- Chim chúa là đây, bạn chí tình,
Thiết thân như chính cuộc đời mình,
Bỏ ngài ư?- Chẳng bao giờ có,
Dù lúc tử thần gọi đích danh!
2472. Yo ca tvaṃ sakhino hetu pāṇaṃ cajitumicchasi, so te sahāyaṃ muñcāmi hotu rājā tavānugo.
2472. “Vì nguyên nhân bạn bè mà ngươi đây muốn từ bỏ mạng sống, ta đây trả tự do cho bạn của ngươi. Chim thiên nga chúa hãy đi cùng với ngươi.”
12- Thấy rằng vì trọng nghĩa thân bằng,
Chim sẵn sàng từ bỏ tấm thân,
Ta thả chúa chim đồng mệnh ấy
Để cùng nhau khắp chốn đằng vân.
2473. Evaṃ luddaka nandassu saha sabbehi ñātibhi, yathāhamajja nandāmi muttaṃ disvā dijādhipaṃ.
2473. “Này thợ săn, mong rằng ông được vui mừng như vậy cùng với tất cả thân quyến, giống như ta hôm nay được vui mừng, sau khi nhìn thấy chim thủ lãnh được tự do.”
13- Lạp hộ, cùng thân hữu, họ hàng,
Cầu mong các vị phước ân tràn,
Như ta hạnh phúc khi nhìn ngắm
Chúa chim giờ đây thoát buộc ràng.
2474. Kaccinnu bhoto kusalaṃ kacci bhoto anāmayaṃ, kacci raṭṭhamidaṃ phītaṃ dhammena manusāsasi.
2474. “Bệ hạ có được an khang không? Bệ hạ có được khỏe mạnh không? Xứ sở này có được phồn thịnh không, và bệ hạ có trị vì một cách công minh không?”
14- Đại vương, ngọc thể có khang an,
Quý quốc giờ đây có hưởng tràn
Hạnh phúc, giàu sang cùng thịnh vượng,
Và ngài trị nước thật công bằng!
2475. Kusalaṃ ceva me haṃsa atho haṃsa anāmayaṃ, atho raṭṭhamidaṃ phītaṃ dhammena manusāsahaṃ.
2475. “Này chim thiên nga, trẫm được an khang. Và này chim thiên nga, trẫm được khỏe mạnh. Còn xứ sở này được phồn thịnh, và trẫm trị vì một cách công minh.”
15- Thiên nga, đây trẫm được khang an,
Và bổn quốc đây được vẹn toàn
Hạnh phúc, giàu sang cùng thịnh vượng,
Với nền cai trị thật công bằng.
2476. Kacci bhoto amaccesu doso koci na vijjati, kacci ārā amittā te chāyā dakkhiṇatoriva.
2476. “Có phải bất cứ lỗi lầm nào đều không tìm thấy ở các quan đại thần của bệ hạ? Có phải các kẻ thù đều tránh xa bệ hạ, tựa như bóng nắng không chiếu về phía nam?”
16- Triều đình ngài chẳng phạm sai lầm,
Và đám quốc thù vẫn biệt tăm,
Bọn chúng chẳng bao giờ xuất hiện,
Khác nào bóng tối hướng Nam chăng?
2477. Athopi me amaccesu doso koci na vijjati, atho ārā amittā te chāyā dakkhiṇatoriva.
2477. “Bất cứ lỗi lầm nào cũng đều không tìm thấy ở các quan đại thần của trẫm. Và các kẻ thù đều tránh xa trẫm, tựa như bóng nắng không chiếu về phía nam.”
17- Triều thần trẫm chẳng thấy sai lầm,
Và đám quốc thù vẫn bặt tăm,
Bọn chúng chẳng bao giờ xuất hiện,
Khác nào bóng tối ở phương Nam!
2478. Kacci te sādisī bhariyā assavā piyabhāṇinī, puttarūpayasūpetā tava chandavasānugā.
2478. “Có phải người vợ tương xứng với bệ hạ có sự vâng lời, có lời nói đáng yêu, có được con trai, sắc đẹp, danh tiếng, và tuân theo ý muốn và quyền uy của bệ hạ?”
18- Phải chăng chánh hậu cũng chung dòng,
Lời lẽ ôn nhu, biết phục tòng,
Diễm lệ, nhiều con, danh tiếng tốt,
Vâng chiều mọi Thánh ý chờ mong?
2479. Atho me sādisī bhariyā assavā piyabhāṇinī, puttarūpayasūpetā mama chandavasānugā.
2479. “Còn người vợ tương xứng với trẫm có sự vâng lời, có lời nói đáng yêu, có được con trai, sắc đẹp, danh tiếng, và tuân theo ý muốn và quyền uy của trẫm.”
19- Thưa vâng, chánh hậu cũng chung dòng,
Lời lẽ ôn nhu, biết phục tòng,
Diễm lệ, nhiều con, danh tiếng tốt,
Vâng chiều mọi ý trẫm hằng mong!
2480. Kacci te bahavo puttā sujātā raṭṭhavaḍḍhana, paññājavena sampannā sammodanti tato tato.
2480. “Tâu bậc làm hưng thịnh đất nước, có phải bệ hạ có nhiều con trai có dòng dõi cao sang, được thành tựu trí tuệ nhạy bén, và hòa hiếu ở mọi nơi?”
20- Đại đế nuôi dân! Ngài có đông
Hoàng nam được dưỡng dục oai phong,
Thông minh ứng đối, người nhu thuận,
Bất cứ việc gì cũng gắng công?
2481. Sataṃ eko ca me puttā dhataraṭṭha mayā sutā, tesaṃ tvaṃ kiccamakkhāhi nāvarajjhanti te vaco.
2481. “Này Dhataraṭṭha, trẫm có một trăm lẻ một người con trai, được nổi tiếng nhờ vào trẫm. Ngài hãy nói về phận sự của chúng, chúng không xao lãng lời nói của ngài.”
21- Nga vương, trẫm có đủ hoàng nam,
Nổi tiếng một trăm lẻ một chàng,
Dạy bảo chúng làm tròn phận sự,
Chúng không bỏ dở các lời vàng.
2482. Upapannopi ce hoti jātiyā vinayena vā, atha pacchā kurute yogaṃ kicce āpāsu sīdati.
2482. “Dầu đã được sanh ra với dòng dõi hay tánh hạnh, mà thực hành việc rèn luyện chậm trễ thì sẽ đầu hàng khi có khó khăn, khi có các sự bất hạnh.
22- Kẻ hoãn trì cho quá muộn màng
Thiện hành mà chẳng gắng công làm,
Dù nhiều đức tính, dòng cao quý,
Cũng vẫn chìm sâu xuống dưới dòng.
2483. Tassa saṃhīrapaññassa vivaro jāyate mahā, nattamandhova rūpāni thullāni manussati.
2483. Đối với người có trí tuệ bị suy giảm ấy, nghịch cảnh nảy sanh được quan trọng hóa, giống như người bị quáng gà, vào ban đêm nhìn thấy các hình thể được phóng đại.
23- Người kia tri kiến cứ tàn dần
Tổn hại lớn lao, nó lãnh phần
Như kẻ quáng gà vì bóng tối,
Khi nhìn mọi vật hóa phồng căng,
Gấp đôi tầm cỡ thường nơi chúng,
Vì có nhãn quang chẳng vẹn toàn.
2484. Asāre sārayogaññū matiṃ natveva vindati, sarabhova giriduggasmiṃ antarāyeva sīdati.
2484. Người lầm tưởng cốt lõi ở điều không phải cốt lõi chẳng bao giờ đạt được sự hiểu biết, tựa như nai rừng gánh lấy tai họa ở khe núi hiểm trở.
24. Ai nhìn hư vọng thấy toàn chân,
Chẳng đạt chút nào trí tuệ thông,
Như thể trên đường đèo lởm chởm,
Bầy hươu nai vẫn té nhào lăn.
2485. Hīnajaccopi ce hoti uṭṭhātā dhitimā naro, ācārasīlasampanno nise aggīva bhāsati.
2485. Dầu có dòng dõi thấp kém, mà là người cầu tiến, có nghị lực, đầy đủ hạnh kiểm và giới luật, vẫn tỏa sáng tựa như ngọn lửa trong bóng đêm.
25. Nếu người nào dũng cảm can cường,
Ðức hạnh mến yêu, giữ đúng đường,
Dù chỉ là người dòng hạ liệt,
Cũng bừng lên tựa lửa đêm trường.
2486. Etaṃ me upamaṃ katvā putte vijjāsu vācaya, saṃvirūḷhetha medhāvī khettabījaṃva vuṭṭhiyā ”ti.
2486. Hãy sử dụng ví dụ ấy của tôi và cho các con học tập các kiến thức. Người thông minh có thể trưởng thành, tựa như hạt giống ở thửa ruộng với cơn mưa.”
26. Cứ dùng ngay ví dụ trên này
Chân lý hiền nhân, hãy giải bày,
Dưỡng dục hoàng nam thành bậc trí,
Như mầm non gặp lúc mưa đầy.
Cūḷahaṃsajātakaṃ.
***
Tiểu Bổn Sanh Thiên Nga. [502]
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada