(Tiền thân Rohanta Miga)

2432. Ete yūthā paṭiyanti bhītā maraṇassa cittaka, gaccha tuvampi mā kaṅkhi jīvissanti tayā saha.

2432. “Này Cittaka, bầy hươu này kinh sợ sự chết, nên bỏ đi. Em cũng hãy đi đi, chớ nghi ngại. Bầy hươu sẽ sống với em.”

1- Hãi kinh thần chết, hỡi Citta,
Cả đám hươu kia chạy thoát xa
Hiền đệ hãy đi, vì bọn chúng
Cùng em sẽ sống, chớ chần chờ.

2433. Nāhaṃ rohanta gacchāmi hadayamme avakassati, na taṃ ahaṃ jahissāmi idha hessāmi jīvitaṃ.

2433. “Anh Rohanta, em không đi. Trái tim em níu em lại. Em sẽ không lìa bỏ anh. Em sẽ buông bỏ mạng sống ở đây.”

2- Em chẳng đi đâu, hỡi Lỗ hân,
Tim em đã kéo bước em gần,
Chẳng lìa anh tại nơi này nữa,
Em sẵn sàng từ bỏ tấm thân.

2434. Te hi nūna marissanti andhā aparināyakā, gaccha tuvampi mā kaṅkhi jīvissanti tayā saha.  

2434. “Bởi vì mẹ và cha thì mù lòa, không người dẫn dắt, có lẽ họ sẽ phải chết. Em cũng hãy đi đi, chớ nghi ngại. Mẹ và cha sẽ sống với em.”

3- Chẳng ai bảo dưỡng lại mù lòa,
Phải chết song thân, mẹ lẫn cha,
Em hãy về ngay cùng phụ mẫu,
Hỡi em đừng nấn ná gần ta.

2435. Nāhaṃ rohanta gacchāmi hadayamme avakassati, na taṃ baddhaṃ jahissāmi idha hessāmi jīvitaṃ.  

2435. “Anh Rohanta, em không đi. Trái tim em níu em lại. Em sẽ không lìa bỏ anh đang bị trói buộc. Em sẽ buông bỏ mạng sống ở đây.”

4- Em chẳng đi đâu, hỡi Lỗ hân,
Tim em đã kéo bước em gần,
Chẳng rời anh ở nơi này nữa,
Em sẵn sàng từ bỏ tấm thân.

2436. Gaccha bhīru palāyassu kūṭe baddhosmi āyase, gaccha tuvampi mā kaṅkhi jīvissanti tayā saha.

2436. “Này em gái nhút nhát, em hãy đi đi, hãy tẩu thoát đi. Anh bị trói chặt vào cái cùm sắt rồi. Em cũng hãy đi đi, chớ nghi ngại. (Ba người) họ sẽ sống với em.”

5- Hươu nhút nhát, mau chạy trốn xa,
Bạo tàn thòng lọng siết chân ta,
Hãy đi theo chúng đừng lưu luyến,
Em phải sống cùng với mẹ cha.

2437. Nāhaṃ rohanta gacchāmi hadayamme avakassati, na taṃ ahaṃ jahissāmi idha hessāmi jīvitaṃ.

2437. “Anh Rohanta, em không đi. Trái tim em níu em lại. Em sẽ không lìa bỏ anh. Em sẽ buông bỏ mạng sống ở đây.” 

6- Em chẳng đi đâu, hỡi Lỗ hân,
Tim em đã kéo bước em gần,
Chẳng rời anh ở nơi này nữa,
Em sẵn sàng từ bỏ tấm thân.

2438. Te hi nūna marissanti andhā aparināyakā, gaccha tuvampi mā kaṅkhi jīvissanti tayā saha.

2438. “Bởi vì mẹ và cha thì mù lòa, không người dẫn dắt, có lẽ họ sẽ phải chết. Em cũng hãy đi đi, chớ nghi ngại. Mẹ và cha sẽ sống với em.”

7- Chẳng ai bảo dưỡng lại mù lòa,
Phải chết song thân, mẹ lẫn cha,
Em hãy về ngay cùng phụ mẫu,
Hỡi em đừng nấn ná gần ta.

2439. Nāhaṃ rohanta gacchāmi hadayamme avakassati, na taṃ baddhaṃ jahissāmi idha hessāmi jīvitaṃ.

2439. “Anh Rohanta, em không đi. Trái tim em níu em lại. Em sẽ không lìa bỏ anh đang bị trói buộc. Em sẽ buông bỏ mạng sống ở đây.”

8- Em chẳng đi đâu, hỡi Lỗ hân,
Tim em đã kéo bước em gần,
Em liều mất mạng, song không thể
Bỏ mặc anh sa bẫy buộc chân.

2440. Ayaṃ so luddako eti ruddarūpo sahāvudho, so no vadhissati ajja usunā sattiyāmapi.

2440. “Gã thợ săn kia đi đến kìa, với dáng vẻ dữ tợn, có vũ khí. Hôm nay, gã ấy sẽ giết chết chúng ta bằng giươm, thậm chí bằng giáo.”

9- Thợ săn hung dữ, dáo trong tay
Nhìn gã, kìa đang bước đến đây!
Rồi với mũi tên hay ngọn giáo,
Chúng mình, gã giết nội, ngày nay!

2441. Sā muhuttaṃ palāyitvā bhayaṭṭā bhayatajjitā, sudukkaraṃ akarā bhīru maraṇāyupanivattatha.

2441. Bị áp đảo vì nỗi sợ hãi, bị kinh hoàng vì nỗi sợ hãi, con hươu cái nhỏ đã bỏ chạy một chốc lát, rồi đã quay trở lại chấp nhận cái chết; nó đã làm một việc vô cùng khó làm.

10- Hươu non mềm yếu quá kinh hoàng,
Sợ hãi chạy quanh cố kiếm đường,
Rồi có hành vi đầy quyết liệt:
Vì nàng đành chịu phận đau thương.

2442. Kinnu te me migā honti muttā baddhaṃ upāsare, na taṃ cajitumicchanti jīvitassapi kāraṇā.

2442. “Hai con nai này được tự do, lại luẩn quẩn ở bên con nai bị mắc bẫy, phải chăng chúng không muốn bỏ rơi con nai ấy, thậm chí vì lý do của mạng sống?”

11- Đôi lộc dù không bị buộc chân,
Là ai, chầu chực cạnh tù nhân,
Không đành bỏ mặc chàng Hươu chúa,
Và chạy trốn đi để thoát thân?

2443. Bhātaro honti me ludda sodariyā ekamātukā, na maṃ cajitumicchanti jīvitassapi kāraṇā.

2443. “Này thợ săn, chúng là hai đứa em có cùng xuất xứ, có chung một mẹ với ta. Chúng không muốn bỏ rơi ta, thậm chí vì lý do của mạng sống.”

12- Em gái, em trai ấy thật là,
Cùng chung một mẹ đã sinh ra,
Không đành phận được riêng mình sống,
Bỏ mặc ta trơ trọi đấy mà.

2444. Te hi nūna marissanti andhā aparināyakā, pañcannaṃ jīvitaṃ dehi bhātaraṃ muñca luddaka.

2444. “Bởi vì mẹ và cha thì mù lòa, không người dẫn dắt, có lẽ họ sẽ phải chết. Này thợ săn, xin ông hãy tha mạng sống cho năm người, xin ông hãy phóng thích anh trai của ta.”

13- Chẳng ai chăm sóc lại mù lòa,
Đành phải chết luôn cả mẹ cha,
Thiện hữu hãy tha năm mạng ấy,
Và xin thiện hữu thả anh ta.

2425. So vo ahaṃ pamokkhāmi mātāpettibharaṃ migaṃ, nandantu mātāpitaro muttaṃ disvā mahāmigaṃ.

2445. “Ta đây sẽ phóng thích con nai đang phụng dưỡng mẹ cha. Mong rằng nai mẹ và nai cha được vui mừng, sau khi nhìn thấy con nai vĩ đại được tự do.”

14- Thôi được, này xem ta thả ra,
Chúa Hươu hiếu dưỡng mẹ cùng cha,
Khi nhìn con bảo toàn thân mạng,
Cha mẹ vui mừng sẽ múa ca.

2446. Evaṃ luddaka nandassu saha sabbehi ñātibhi, yathāhamajja nandāmi muttaṃ disvā mahāmigaṃ.

2446. “Này thợ săn, mong rằng ông được vui mừng như vậy cùng với tất cả thân quyến, giống như ta hôm nay được vui mừng, sau khi nhìn thấy con nai vĩ đại được tự do.”

15- Chú thợ, cầu mong phước lộc tràn,
Ước ao hạnh phúc cả thân bằng,
Như ta hạnh phúc khi nhìn ngắm
Đại lộc vương nay được thoát nàn.

2447. Kathaṃ pamokkho āsi upanītasmiṃ jīvite, kathaṃ putta amocesi kūṭā pāsamhā luddako.

2447. “Làm thế nào con có được sự phóng thích khi mạng sống đã bị dẫn dắt đi? Này con trai, tại sao người thợ săn đã giải thoát cho con khỏi cái cùm, khỏi cái bẫy?”

16- Làm thế nào con được tự do,
Khi đời con suýt dứt đường tơ?
Sao người săn nọ cho con thoát,
Chiếc bẫy giăng kia đã phỉnh lừa?

2448. Bhaṇaṃ kaṇṇasukhaṃ vācaṃ hadayaṅgaṃ hadayanissitaṃ, subhāsitāhi vācāhi cittako maṃ amocayi.  

2448. “Trong khi thốt lên lời nói làm khoái lỗ tai, đâm vào trái tim, lắng đọng ở tim, Cittaka đã giải thoát cho con bằng những lời nói được khéo nói.

17- Citta đã giải thoát cho con
Bằng những lời rung động tâm hồn,
Mê mẩn đôi tai, xuyên thấu dạ,
Lời đưa trong sáng thật du dương.

2449. Bhaṇaṃ kaṇṇasukhaṃ vācaṃ hadayaṅgaṃ hadayanissitaṃ, subhāsitāhi vācāhi sutanā maṃ amocayi.  

2449. Trong khi thốt lên lời nói làm khoái lỗ tai, đâm vào trái tim, lắng đọng ở tim, Sutanā đã giải thoát cho con bằng những lời nói được khéo nói.

18- Suta đã giải thoát cho con,
Bằng những lời rung động tâm hồn,
Mê mẩn đôi tai, xuyên thấu dạ,
Lời đưa trong sáng thật du dương.

2450. Sutvā kaṇṇasukhaṃ vācaṃ hadayaṅgaṃ hadayanissitaṃ, subhāsitāhi sutvāna luddako maṃ amocayi.  

2450. Sau khi lắng nghe lời nói làm khoái lỗ tai, đâm vào trái tim, lắng đọng ở tim, sau khi lắng nghe những lời khéo nói, người thợ săn đã giải thoát cho con.”

19- Chú thợ kia đã giải thoát con,
Khi nghe lời nói thật mê hồn,
Thấm sâu tâm trí, xuyên vào dạ,
Lời lẽ thanh tao dịu ngọt tuôn.

2451. Evaṃ ānandito hotu saha dārehi luddako, yathā mayajja nandāma disvā rohantamāgataṃ.  

2451. “Mong rằng người thợ săn được vui mừng như vậy cùng với những người vợ, giống như chúng ta hôm nay được vui mừng, sau khi nhìn thấy Rohanta trở về.”

20- Ta chúc người, gia quyến, vợ con,
Cầu mong các vị phước duyên tròn,
Như ta hạnh phúc khi nhìn ngắm
Nay chúa Lỗ hân được thoát nàn.

2452. Nanu tvaṃ avacā ludda migacammāni āhariṃ, atha kena nu vaṇṇena migacammāni nāhari.

2452. “Này thợ săn, chẳng phải khanh đã nói rằng: ‘Thần sẽ mang về con nai hoặc tấm da nai’? Vậy thì vì lý do gì mà khanh đã không mang về con nai hay tấm da nai?”

21- Lạp hộ, mau lên , nói trẫm hay,
Nhà ngươi có phải muốn thưa vầy
"Tâu hoàng thượng, tấm da hươu chúa,
Nay tiểu thần dâng ngự lãm ngay".
Hoặc giả da hươu ngươi chẳng có
Để dâng, vì cớ sự gì đây?

2453. Āgamāceva hatthatthaṃ kūṭapāsañca so migo, abajjhi tañca migarājaṃ tañca muttā upāsare.

2453. “Con nai ấy đã ở trong tay, và nó thật sự đã đi vào đã cái cùm, cái bẫy. Nó đã bị bắt, và nó là con nai chúa. Hai con khác, được tự do, đã luẩn quẩn ở bên con nai ấy.

22- Chúa Hươu đã đến tận tay rồi
Vào bẫy nằm sâu kín của tôi.
Bị bắt liền, song đôi lộc khác
Thong dong chầu chực một bên ngài.

2454. Tassa me ahu saṃvego abbhuto lomahaṃsano, imaṃ cāhaṃ migaṃ haññe ajja hessāmi jīvitaṃ.

2454. Sự chấn động, sự dựng đứng lông trước đây chưa từng có, đã xảy ra ở thần đây. Và nếu thần giết chết con nai này, thần sẽ buông bỏ mạng sống ngày hôm nay.”

23- Xót thương, thần rợn cả làn da
Từ mẫn lạ thường mới khởi ra:
"Nếu giết Hươu này (thần nghĩ ngợi),
Đời thần ắt cũng hóa ra ma!"

2455. Kīdisā te migā ludda kīdisā dhammikā migā, kathaṃ vaṇṇā kathaṃ sīlā bāḷhaṃ kho te pasaṃsasi.

2455. “Này thợ săn, những con nai ấy là như thế nào, các con nai có đạo đức như thế nào, màu sắc ra sao, tánh hạnh ra sao mà khanh ca ngợi chúng lắm thế?”

24- Lạp hộ, bầy hươu ấy thế nào,
Phong tư, cốt cách chúng ra sao,
Màu lông, đặc tính gì trong chúng
Xứng đáng lời kia tán tụng cao?

2456. Odātasiṅgā sucivāḷā jātarūpatacūpamā, pādā lohitakā tesaṃ añjitakkhā manoramā.

2456. “Chúng có cặp sừng trắng sáng, chùm lông đuôi sạch sẽ, làn da tựa như vàng, các móng chân màu đỏ sẫm, hai con mắt long lanh, đáng yêu.

25- Đôi sừng như bạc, dáng cao sang,
Với bộ lông da sáng rỡ ràng,
Chân đỏ, mắt ngời sao chói lọi,
Toàn thân tuyệt mỹ giữa trần gian.

2457. Edisā te migā deva edisā dhammikā migā, mātāpettibharā deva na te so abhihārayuṃ.

2457. Tâu bệ hạ, các con nai ấy là như thế ấy, là các con thú có đạo đức như thế ấy. Tâu bệ hạ, chúng đang phụng dưỡng mẹ cha. Thần đây đã không bắt chúng đem đi.”

26- Phong tư, cốt cách chúng như vầy,
Tâu Chúa công, là đám lộc này,
Chúng vẫn tìm mồi nuôi phụ mẫu,
Thần không đem được chúng về đây.

2458. Dammi nikkhasataṃ ludda thullañca maṇikuṇḍalaṃ, catuddasañca pallaṅkaṃ ummāpuppha sirinnibhaṃ.

2458. “Này thợ săn, trẫm sẽ ban thưởng một trăm tiền vàng lớn, bông tai ngọc ma-ni loại lớn, kiệu khiêng bốn bên đều lót nệm có màu sắc rực rỡ giống như màu hoa của cây bông vải, –

38- Nạm ngọc vòng tai, trẫm muốn ban,
Tặng khanh cùng với sáu cân vàng,
Xinh tươi, bảo tọa như hoa tấm
Với nệm nằm chen cả bốn hàng.

2459. Dve ca sādisiyo bhariyā usabhañca gavaṃ sataṃ, dhammena rajjaṃ kāressaṃ bahukāro mesi luddaka.

2459. –thêm hai người vợ tương xứng, cùng với bò mộng và bò cái một trăm con. Này thợ săn, khanh là người có nhiều công đức đối với trẫm. Trẫm sẽ trị vì vương quốc một cách công minh.

39- Hai vợ cùng giai cấp xứng đôi,
Trâu bò thường đúng một trăm rồi
Trẫm nguyền sẽ trị dân công chính
Mãi mãi, ân nhân của trẫm ôi!

2460. Kasī vaṇijjā iṇadānaṃ uñchācariyāya luddaka, etehi dāraṃ posehi mā pāpaṃ akarā punan ”ti.  

2460. Này thợ săn, có các nghề trồng trọt, buôn bán, cho vay nợ, lượm lặt để mưu sinh, khanh hãy cấp dưỡng vợ bằng các nghề ấy, chớ có làm điều ác nữa.”

40- Cho vay, cày ruộng hoặc kinh doanh,
Hễ đó là nghề nghiệp của khanh,
Trẫm thấy khanh không làm việc ác,
Song nhờ đó cấp dưỡng gia đình.

Rohantamigajātakaṃ.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada