(Tiền thân Sirimanda)

2411. Paññāyupetaṃ siriyā vihīnaṃ yasassinañvāpi apetapaññaṃ, pucchāmi taṃ senaka etamatthaṃ
kamettha seyyo kusalā vadanti.

2411. “Người có trí tuệ nhưng thiếu về uy quyền, hay là người có danh vọng mà không có trí tuệ, này Senaka, trẫm hỏi ngài về sự việc này, các bậc thiện xảo nói người nào trong hai người này là tốt hơn?”

17. Có trí khôn nhưng thiếu bạc vàng,
Hoặc giàu tiền lại kém khôn ngoan,
Se-na-ka, trẫm hỏi khanh nhé:
Bậc trí gọi ai tốt đẹp hơn?

2412. Dhīrā ca bālā ca have janinda sippūpapannā ca asippino ca, sujātimantopi ajātimassa
yasassino pessakarā bhavanti, etampi disvāna ahaṃ vadāmi pañño nihīno sirimāva seyyo.

2412. “Tâu vị chúa của loài người, thật vậy, những bậc trí và những kẻ ngu, những người có kiến thức và không có kiến thức, dầu cho có dòng dõi cao quý, cũng trở thành những người làm công việc phục vụ cho kẻ không có dòng dõi cao quý nhưng có danh vọng. Sau khi nhìn thấy điều ấy, thần nói rằng: người có trí tuệ thấp kém nhưng có uy quyền là tốt hơn.”

18. Quả thật, kẻ ngu hoặc trí nhân,
Vô văn phàm tục, hoặc đa văn,
Đều hầu hạ những người giàu có,
Dù họ cao sang hoặc hạ tầng,
Nhìn thấy điều này, thần mới nói:
Trí nhân thua kém kẻ giàu sang.

2413. Tavampi pucchāmi anomapañña mahosadha kevaladhammadassi, bālaṃ yasassiṃ paṇḍitaṃ appabhogaṃ kamettha seyyo kusalā vadanti.

2413. “Trẫm cũng hỏi luôn cả khanh nữa, này Mahosadha, vị có trí tuệ tuyệt đỉnh, có sự nhìn thấy tất cả các pháp, các bậc thiện xảo nói người nào trong hai người này là tốt hơn?”

19. Ta cũng hỏi con, Đại trí nhân,
Bậc tinh thông vạn pháp trên trần:
Kẻ ngu lắm của, người khôn khó,
Bậc trí gọi ai tốt bội phần?

2414. Pāpāni kammāni karoti bālo idameva seyyo iti maññamāno, idhalokadassī paralokaṃ adassī
ubhayattha bālo kalimaggahesi, etampi disvāna ahaṃ vadāmi paññova seyyo na yasassi bālo.

2414. “Kẻ ngu làm các hành động xấu xa nghĩ rằng: ‘Chính cái này (uy quyền) là tốt hơn.’ Có sự nhìn thấy đời này, không nhìn thấy đời sau, kẻ ngu gánh lấy tai họa trong cả hai đời. Sau khi nhìn thấy điều ấy, thần nói rằng: chính người có trí tuệ là tốt hơn, không phải kẻ ngu có danh vọng.”

20. Người ngu phạm tội, nghĩ suy rằng:
"Trên cõi đời, ta thắng thế hơn",
Họ thấy đời này, không cõi kế,
Nên mang tai họa cả hai đường.
Điều này con thấy, nên con nói:
Bậc trí hơn xa trọc phú đần.

2415. Na sippametaṃ vidadhāti bhogaṃ na bandhavā na sarīrāvakāso, passeḷamūgaṃ sukhamedhamānaṃ sirihīnaṃ bhajate gorimandaṃ, etampi disvāna ahaṃ vadāmi pañño nihīno sirimāva seyyo.

2415. “Không phải kiến thức này đem lại của cải, không phải các thân quyến, không phải ưu thế về cơ thể (đem lại của cải). Bệ hạ hãy nhìn xem gã Gorimanda ngu dốt đang tràn trề hạnh phúc, bởi vì uy quyền thân cận với gã. Sau khi nhìn thấy điều ấy, thần nói rằng: Người có trí tuệ thì bị hạ thấp, chính kẻ có uy quyền là tốt hơn.”

21. Kiến thức không đem lại bạc vàng,
Cũng không gia thế hoặc dung nhan,
Hãy nhìn ngốc tử Go-ri ấy,
Đang hưởng vinh hoa, đại phú cường,
Vì Đại vận chìu người hạ tiện.
Điều này thần thấy, mới thưa rằng:
Bậc hiền trí chịu phần hèn mọn,
Còn kẻ giàu tiền thắng thế hơn.

2416. Laddhā sukhaṃ majjati appapañño dukkhena phuṭṭhopi pamohameti āgantunā sukhadukkhena phuṭṭho, pavedhati vāricarova ghamme etampi disvāna ahaṃ vadāmi paññova seyyo na yasassi bālo.

2416. Sau khi đạt được hạnh phúc, kẻ thiểu trí bị say mê. Còn người bị tác động bởi khổ đau, cũng đi đến sự mê muội. Bị tác động bởi hạnh phúc hay khổ đau xảy đến, con người run rẩy tựa như loài thủy tộc giãy giụa ở nơi nóng bức. Sau khi nhìn thấy điều ấy, thần nói rằng: Chính người có trí tuệ là tốt hơn, không phải kẻ ngu có danh vọng.”

22. Một người tiểu trí hóa mê man.
Bị nhiễm độc khi hưởng bạc vàng:
Nếu gặp tai ương, thành ngớ ngẩn,
Rủi may số phận đến không lường,
Nó vùng như cá phơi ngoài nắng,
Khi thấy điều trên, trẻ nói rằng:
Người trí hơn xa người có của,
Giàu tiền nhưng trí óc ngu đần.

2417. Dumaṃ yathā sāduphalaṃ araññe samantato sabbhi caranti pakkhī evampi aḍḍhaṃ sadhanaṃ sabhogaṃ, bahujjano bhajati atthahetu etampi disvāna ahaṃ vadāmi pañño nihīno sirimāva seyyo.

2417. “Giống như cây có trái ngọt ở trong rừng, các con chim lai vãng ở xung quanh, cũng tương tự như thế, số đông người thân cận với kẻ giàu sang, có tài sản, có của cải, vì nguyên nhân lợi lộc. Sau khi nhìn thấy điều ấy, thần nói rằng: Người có trí tuệ thì bị hạ thấp, chính kẻ có uy quyền là tốt hơn.”

23. Trong rừng, chim chóc tự mười phương,
Tụ tập trên cây có trái ngon,
Cũng vậy, người nhiều tiền lắm của,
Đám đông hám lợi đến quây quần.
Thấy vầy, thần nói: người hiền trí,
Hèn kém, kẻ giàu thắng thế hơn.

2418. Na sādhu balavā bālo sāhasaṃ vindate dhanaṃ kandantameva dummedhaṃ kaḍḍhanti niraye bhusaṃ, etampi disvāna ahaṃ vadāmi paññova seyyo na yasassi bālo.

2418. “Chẳng tốt lành gì việc kẻ ngu có quyền thế tìm kiếm tài sản bằng bạo lực. Các viên quan canh giữ địa ngục kéo lôi kẻ ngu muội còn đang than khóc vào địa ngục vô số kể. Sau khi nhìn thấy điều ấy, thần nói rằng: Chính người có trí tuệ là tốt hơn, không phải kẻ ngu có danh vọng.”

24. Kẻ ngu quyền thế chẳng hiền lương,
Dùng bạo lực khi chiếm bạc vàng,
Nó rống thật to tùy ý thích,
Quỷ nhân kéo nó xuống âm cung!
Thấy điều này, tiểu nhi xin nói:
Bậc trí hơn xa trọc phú đần.

2419. Yā kāci najjo gaṅgamabhissavanti sabbāva tā nāmagottaṃ jahanti gaṅgā samuddaṃ paṭipajjamānā na khāyate iddhiparo hi loke, etampi disvāna ahaṃ vadāmi pañño nihīno sirimāva seyyo.

2419. “Mọi dòng sông đều chảy vào sông Gaṅgā; tất cả các dòng sông ấy đều từ bỏ danh xưng và gốc gác. Trong khi đạt đến biển cả, sông Gaṅgā không còn được biết đến; bởi vì kẻ khác có quyền lực hiện diện ở trên đời, (người trí không còn được biết đến). Sau khi nhìn thấy điều ấy, thần nói rằng: Người có trí tuệ thì bị hạ thấp, chính kẻ có uy quyền là tốt hơn.”

25. Mọi dòng nước đổ xuống sông Hằng,
Đều mất tánh danh với giống dòng,
Đổ xuống biển, sông Hằng cũng sẽ,
Không còn phân biệt được thành phần.
Vậy đời phục vụ người giàu của;
Nhìn thấy điều trên, thần nói rằng:
Người có trí chịu phần thấp kém,
Còn người giàu của chiếm phần hơn.

2420. Yametamakkhā udadhiṃ mahantaṃ savanti najjo sabbakālaṃ asaṅkhaṃ, so sāgaro niccamuḷāravego velaṃ na acceti mahāsamuddo.

2420. “Biển cả to lớn mà vị Senaka đã nói đến có các dòng sông luôn chảy vào không kể xiết, biển cả ấy, là đại dương, thường xuyên có lực đẩy khủng khiếp, nhưng không tràn qua bờ.

26-27. Biển cả, người kia nói, lệ thường,
Muôn sông đổ xuống, đập không ngừng,
Vào bờ, nhưng chẳng bao giờ vượt,
Bờ nọ, dù hùng vĩ đại dương.

2421. Evampi bālassa pajappitāni paññaṃ na acceti sirī kadāci, etampi disvāna ahaṃ vadāmi paññova seyyo na yasassi bālo.

2421. Cũng tương tự như vậy, những lời nói làm nhảm của kẻ ngu (không qua mặt được người trí); uy quyền không bao giờ vượt hơn trí tuệ. Sau khi nhìn thấy điều ấy, thần nói rằng: Chính người có trí tuệ là tốt hơn, không phải kẻ ngu có danh vọng.

Cũng vậy, lời người ngu nhảm nhí,
Phồn vinh không thể vượt hiền nhân,
Thấy điều này, tiểu nhi xin nói:
Người trí hơn xa trọc phú đần.

2422. Asaññato cepi paresamatthaṃ bhaṇāti santhānagatā yasassī, tasseva taṃ rūhati ñātimajjhe sirihīnaṃ tārayate na paññā, etampi disvāna ahaṃ vadāmi pañño nihīno sirimāva seyyo.

2422. “Nếu kẻ có danh vọng, đã đạt được địa vị, dẫu cho không có giới hạnh, trình bày sự việc cho những người khác, lời nói của chính kẻ ấy có giá trị ở giữa các thân quyến; chính uy quyền giúp cho gã ấy vượt lên, không phải trí tuệ. Sau khi nhìn thấy điều ấy, thần nói rằng: Người có trí tuệ thì bị hạ thấp, chính kẻ có uy quyền là tốt hơn.”

28. Người giàu ở địa vị cao sang,
Có thể thiếu phòng hộ bản thân,
Nhưng nếu nói gì cùng kẻ khác,
Lời kia giá trị giữa nhân quần.
Trí khôn không thể gây uy tín,
Cho kẻ nào không có bạc vàng.
Thấy vầy thần nói: người hiền trí,
Thấp kém, người giàu thắng thế hơn.

2423. Parassa vā attano vāpi hetu bālo musā bhāsati appapañño, so nindito hoti sabhāya majjhe
peccāpi so duggatigāmi hoti, etampi disvāna ahaṃ vadāmi paññova seyyo na yasassi bālo.

2423. “Dẫu cho vì nguyên nhân của người khác hay của bản thân, kẻ ngu, kém trí tuệ, nói lời dối trá, kẻ ấy bị chê bai ở giữa hội chúng. Thậm chí sau khi chết, kẻ ấy còn bị đi đến chốn khổ đau. Sau khi nhìn thấy điều ấy, thần nói rằng: Chính người có trí tuệ là tốt hơn, không phải kẻ ngu có danh vọng.” 

29. Vì kẻ khác hay chính bản thân,
Kẻ ngu thường chẳng nói chân ngôn,
Chịu ô nhục giữa nơi quần chúng,
Đời kế nó rơi cảnh khổ buồn.
Vì thấy điều này, con trẻ nói:
Trí nhân hơn trọc phú ngu đần.

2424. Atthampi ce bhāsati bhūripañño anāḷhiyo appadhano daḷiddo, na tassa taṃ rūhati ñātimajjhe
sirī ca paññāṇavato na hoti, etampi disvāna ahaṃ vadāmi pañño nihīno sirimāva seyyo.

2424. “Nếu người có trí tuệ uyên bác, không dư dả, có ít tài sản, nghèo khó, trình bày sự việc, lời nói của người ấy không có giá trị ở giữa các thân quyến; và uy quyền không thuộc về người có trí tuệ. Sau khi nhìn thấy điều ấy, thần nói rằng: Người có trí tuệ thì bị hạ thấp, chính kẻ có uy quyền là tốt hơn.” 

30. Cho dù người Đại trí khôn ngoan,
Thiếu gạo thóc, lâm cảnh khốn nàn,
Nếu có nói điều gì phải trái,
Cũng không giá trị giữa thân nhân,
Phồn vinh không đến nhờ tri kiến.
Nhìn thấy điều trên, thần nói rằng:
Người trí phải chịu phần thấp kém,
Còn người giàu của thắng phần hơn.

2425. Parassa vā attano vāpi hetu na bhāsati alikaṃ bhūripañño, so pūjito hoti sabhāya majjhe
peccaṃ ca so suggatigāmi hoti, etampi disvāna ahaṃ vadāmi paññova seyyo na yasassi bālo.

2425. “Dẫu cho vì nguyên nhân của người khác hay của bản thân, người có trí tuệ uyên bác không nói lời không đúng sự thật, người ấy được tôn vinh ở giữa hội chúng. Và sau khi chết, người ấy được đi đến chốn an vui. Sau khi nhìn thấy điều ấy, thần nói rằng: Chính người có trí tuệ là tốt hơn, không phải kẻ ngu có danh vọng.”

31. Chẳng vì mình, cũng chẳng vì người,
Bậc Đại trí nhân phải dối lời,
Người được tôn sùng trong hội chúng,
Đời sau hưởng hạnh phúc an vui.
Thấy điều này trẻ thơ xin nói:
Bậc trí hơn người trọc phú thôi.

2426. Hatthīgavāssā maṇikuṇḍalā ca nāriyo ca iddhesu kulesu jātā, sabbāva tā upabhogā bhavanti
iddhassa posassa aniddhimanto, etampi disvāna ahaṃ vadāmi paññova nihīno sirimāva seyyo.

2426. “Các con voi, bò, ngựa, các bông tai ngọc ma-ni, và các nữ nhân được phát hiện ở các gia tộc giàu có; toàn bộ tất cả các nàng ấy là vật sở hữu. Những người không có quyền thế là thuộc về người có quyền thế. Sau khi nhìn thấy điều ấy, thần nói rằng: Người có trí tuệ thì bị hạ thấp, chính kẻ có uy quyền là tốt hơn.”

32. Voi, ngựa, bò, vòng ngọc, nữ nhân,
Thấy nhiều trong các hộ giàu sang,
Để dành cho các người giàu hưởng,
Mà chẳng cần uy lực thánh thần,
Nhìn thấy điều này, thần dám nói:
Bậc hiền thấp kém, phú gia hơn.

2427. Asaṃvihitakammantaṃ bālaṃ dummantamantinaṃ, sirī jahati dummedhaṃ jiṇṇaṃva urago tacaṃ, etampi disvāna ahaṃ vadāmi pañño seyyo na yasassi bālo.

2427. “Uy quyền từ bỏ kẻ ngu muội, kẻ có việc làm không được sắp xếp, kẻ ngu dốt có suy nghĩ xấu xa, tựa như con rắn từ bỏ lớp da đã bị già cỗi. Sau khi nhìn thấy điều ấy, thần nói rằng: Chính người có trí tuệ là tốt hơn, không phải kẻ ngu có danh vọng.” 

33. Người ngu hành động thiếu suy tư,
Nói những lời ngu xuẩn, dại rồ;
Vô trí bị quăng vì Đại vận,
Như con rắn bỏ lớp da khô.
Thấy điều này, trẻ thơ xin nói:
Bậc trí hơn xa phú hộ ngu.

2428. Pañca paṇḍitā mayaṃ bhadante sabbe pañjalikā upaṭṭhitā, tvaṃ no abhibhuyya issarosi
sakko bhūtapatīva devarājā, etampi disvāna ahaṃ vadāmi pañño nihīno sirimāva seyyo.

2428. “Tâu bậc tôn kính, năm người sáng suốt chúng thần, tất cả đều chắp tay hầu cận. Ngài đã khuất phục chúng thần và là vị chúa tể, tựa như Sakka là người chủ quản của các sanh linh, vị chúa của chư Thiên. Sau khi nhìn thấy điều ấy, thần nói rằng: Người có trí tuệ thì bị hạ thấp, chính kẻ có uy quyền là tốt hơn.”

34. Năm trí nhân là bọn chúng thần,
Thảy đều hầu cận đấng tôn quân,
Hết lòng kính trọng ngài là chúa,
Là chủ nhân ông của thứ dân.
Như Đế Thích là vua vạn vật,
Chính là chúa tể của thiên nhân.
Thấy vầy thần nói: người hiền trí,
Thấp kém, người giàu thắng thế hơn.

2429. Dāso va paññassa yasassi bālo atthesu jātesu tathāvidhesu, yaṃ paṇḍito nipuṇaṃ saṃvidheti sammohamāpajjati tattha bālo, etampi disvāna ahaṃ vadāmi paññova seyyo na yasassi bālo.

2429. “Kẻ ngu có danh vọng chính là nô lệ của người trí. Khi các công việc thuộc loại như thế ấy sanh khởi, người sáng suốt xếp đặt công việc một cách khéo léo, trong trường hợp ấy kẻ ngu đi đến sự rối loạn. Sau khi nhìn thấy điều ấy, thần nói rằng: Chính người có trí tuệ là tốt hơn, không phải kẻ ngu có danh vọng.

35. Người ngu nô lệ của người hiền,
Khi vấn đề này phát khởi lên,
Bậc trí giải đề khôn khéo lắm,
Kẻ ngu rối trí tựa cuồng điên.
Thấy điều này, trẻ thơ xin nói:
Bậc trí hơn xa kẻ lắm tiền.

2430. Addhā hi paññāva sataṃ pasatthā kantā sirī bhogaratā manussā, ñāṇañca buddhānamatulyarūpaṃ
paññaṃ na acceti sirī kadāci.

2430. Thật vậy, bởi vì chính trí tuệ đã được các bậc thiện nhân ca tụng, còn loài người ưa thích của cải, uy quyền được chúng yêu mến. Và trí của chư Phật là không thể sánh bằng. Uy quyền không bao giờ vượt hơn trí tuệ.”

36. Trí tuệ được sùng bởi thiện nhân,
Bạc vàng được chuộng bởi người trần,
Đắm say hưởng thụ bao tham dục.
Tri kiến Phật-đà thật tuyệt luân;
Vàng bạc chẳng bao giờ vượt quá
Trí cao siêu việt, tấu vương quân.

2431. Yaṃ taṃ apucchimha akittayī no mahosadha kevaladhammadassi, gavaṃ sahassaṃ usabhañca nāgaṃ ājaññayutte ca rathe dasa ime,pañhassa veyyākaraṇena tuṭṭho dadāmi te gāmavarāni soḷasā ”ti.

2431. “Điều mà chúng ta đã hỏi khanh, khanh đã trả lời cho chúng ta. Này Mahosadha, vị có sự nhìn thấy tất cả các pháp, được hài lòng với việc giải thích câu hỏi, ta ban cho khanh một ngàn bò cái, một bò mộng, và một con voi, với mười cỗ xe kéo đã được thắng vào những con ngựa thuần chủng này, và ân huệ là mười sáu ngôi làng.”

37. Con đáp mọi câu hỏi của ta,
Pháp Sư độc nhất, Ma-ho-sa,
Ngàn bò cái, một voi, bò đực,
Tuấn mã kéo mười cỗ đại xa,
Mười sáu ngôi làng giàu đẹp nhất,
Hân hoan ta tặng thưởng con thơ.

Sirimandajātakaṃ.

***

Bổn Sanh Sirimanda. [500]



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada