(Tiền thân Sivi)

2379. Dūre apassaṃ therova cakkhuṃ yācitumāgato, ekanettā bhavissāma cakkhuṃ me dehi yācito.  

2379. Chính lão già, trong lúc (bị mù) không nhìn thấy, từ nơi xa xôi đã đi đến để cầu xin con mắt (nói rằng): “Chúng ta sẽ có (mỗi người) một con mắt. Được yêu cầu, xin bệ hạ hãy bố thí con mắt đến tôi.”

1- Chẳng có mắt, nên chính lão già,
Ðến xin con mắt, tự phương xa,
Lão cầu Chúa thượng ban con mắt
Một mắt cùng nhau mỗi chúng ta.

2380. Kenānusiṭṭho idhamāgatosi vaṇibbaka cakkhupathāni yācituṃ, suduccajaṃ yācasi uttamaṅgaṃ
yamāhu nettaṃ purisena duccajaṃ.  

2380. “Này lão ăn mày, được ai chỉ bảo mà lão đã đi đến nơi này để cầu xin thị giác. Lão cầu xin phần cơ thể quý giá nhất, là vật khó dứt bỏ vô cùng. Người ta đã nói con mắt là vật khó dứt bỏ bởi con người.”

2- Ai đã dạy ông bước đến đây,
Ðể xin một mắt , lão ăn mày?
Ðây phần thân thể người cao trọng,
Chúng bảo xa lìa khó lắm thay!

2381. Yamāhu devesu sujampatīti maghavāti taṃ āhu manussaloke, tenānusiṭṭho idhamāgatosmi
vaṇibbako cakkhupathāni yācituṃ.  

2381. “Người đã nói điều ấy là ‘Chồng của nàng Sujā’ ở cõi Trời. Người ở trần gian đã gọi vị ấy là ‘Maghavā.’ Được vị ấy chỉ bảo nên lão ăn mày tôi đã đi đến nơi này để cầu xin thị giác.

3- Su-ja Phu tướng, chính nơi đây,
Người gọi Ma-gha cũng hiệu này,
Ngài dạy lão về đây yết kiến,
Van nài cho được một mắt ngay.

2382. Vaṇibbato mayhaṃ vaṇiṃ anuttaraṃ dadāhi me cakkhupathāni yācito, dadāhi me cakkhupathaṃ anuttaraṃ yamāhu nettaṃ purisena duccajaṃ.  

2382. Trong khi lão đang van nài điều cầu xin tột đỉnh, xin bệ hạ hãy bố thí thị giác đến lão; được cầu xin, xin bệ hạ hãy bố thí thị giác cao quý đến lão; người ta đã nói con mắt là vật khó dứt bỏ bởi con người.”

4- Thí tài tối trọng đại, mong cầu
Chúa thượng ban già một bảo châu,
Xin chớ chối từ già một mắt,
Thí tài tối trọng, đứng hàng đầu,
Như lời thế tục thường hay nói:
"Thật khó cho người dứt bỏ sao!"

2383. Yena atthena āgañji yamatthamabhipatthayaṃ, te te ijjhantu saṅkappā labha cakkhūni brāhmaṇa.

2383. “Trong khi mong mỏi mục đích gì thì người ta đã đi đến vì mục đích ấy. Hãy để cho các ý định ấy của lão được thành tựu. Này Bà-la-môn, lão hãy nhận lấy hai con mắt.

5- Ước nguyện làm ông đến tận đây
Trong lòng ông khởi ước như vầy,
Cầu mong nguyện ước kia thành tựu,
Ðạo sĩ, cầm đôi mắt trẫm này!

2384. Ekaṃ te yācamānassa ubhayāni dadāmahaṃ sacakkhumā gaccha janassa pekkhato, yadicchase tvaṃ taṃ te samijjhatu.

2384. Trong khi lão cầu xin một, trẫm cho lão cả hai. Có mắt rồi, lão hãy đi cho dân chúng chiêm ngưỡng. Điều nào mà lão mong muốn, mong rằng điều ấy hãy được thành tựu trọn vẹn cho lão”

6- Ông chỉ xin ta một mắt thôi,
Nhìn xem! Ta bố thí tròn đôi!
Hãy đi với nhãn quang hoàn hảo
Trước mắt nhìn theo của mọi người,
Vậy ước nguyện ông mong thực hiện
Giờ đây hẳn đã đạt thành rồi!

2385. Mā no deva adā cakkhuṃ mā no sabbe parākari, dhanaṃ dehi mahārāja puttā veḷuriyā bahū.  

2385. “Tâu bệ hạ, bệ hạ chớ bố thí con mắt cho chúng thần, chớ dứt bỏ tất cả cho chúng thần. Tâu đại vương, đại vương hãy bố thí tài sản, con cái, và nhiều ngọc bích.

7- Xin đừng cho mắt, tấu Minh quân!
Chúa thượng ôi, đừng bỏ chúng thần!
Bố thí san hồ, tiền, bảo ngọc,
Và nhiều vật khác quý vô ngần.

2386. Yutte deva rathe dehi ājānīye calaṅkate, nāge dehi mahārāja hemakappanavāsase.  

2386. Tâu bệ hạ, bệ hạ hãy bố thí các cỗ xe đã được thắng ngựa thuần chủng và đã được trang hoàng. Tâu đại vương, đại vương hãy bố thí những con voi được nai nịt và phục sức bằng vàng.

8- Cho bầy tuấn mã đủ yên cương,
Bảo kéo đoàn xa giá xuống đường,
Chúa thượng truyền xua đoàn bảo tượng
Cân đai tuyệt mỹ rặt toàn vàng.

2387. Yathā taṃ sivayo sabbe sayoggā sarathā sadā, samantā parikireyyuṃ evaṃ dehi rathesabha.  

2387. Tâu đấng thủ lãnh xa binh, giống như tất cả dân chúng xứ Sivi cùng với các cỗ xe kéo, và các cỗ xe ngựa luôn luôn hộ tống xung quanh bệ hạ, bệ hạ hãy bố thí (tài sản và các vật ngoại thân) như thế ấy.”

9- Các vật này xin Chúa thượng ban,
Chúng thần mong hộ chúa bình an,
Toàn dân trung tín cùng xa pháp,
Tề tựu quanh vương vị xếp hàng.

2388. Yo ve dassanti vatvāna adāne kurute mano, bhumyā so patitaṃ pāsaṃ gīvāya paṭimuñcati.  

2388. “Thật vậy, người nào sau khi nói rằng: ‘Tôi sẽ bố thí,’ rồi có ý định không bố thí nữa, người ấy tự máng vào cổ cái bẫy đã được cài đặt ở mặt đất.

10- Tâm kẻ muốn ban bố, phát nguyền,
Về sau lại thấy chẳng trung kiên,
Cổ mình tự đặt vào thòng lọng
Che dấu nằm sâu dưới đất liền.

2389. Yo ve dassanti vatvāna adāne kurute mano, pāpā pāpataro hoti sampatto yamasādhanaṃ.  

2389. Thật vậy, người nào sau khi nói rằng: ‘Tôi sẽ bố thí,’ rồi có ý định không bố thí nữa, người ấy còn xấu xa hơn cả kẻ xấu xa, bị đọa vào chốn đọa đày của Diêm Vương.

11- Tâm nào đã thệ nguyện thi ân,
Sau lại thấy lòng chẳng thuỷ chung,
Thật lỗi lầm hơn là tội ác,
Phải đày đọa ngục Dạ ma cung.

2390. Yaṃ hi yāce taṃ hi dade yaṃ na yāce na taṃ dade, svāhaṃ tameva dassāmi yaṃ maṃ yācati brāhmaṇo.  

2390. Nên bố thí vật mà người ta cầu xin. không nên bố thí vật mà người ta không cầu xin. Trẫm đây sẽ bố thí vật mà người Bà-la-môn cầu xin trẫm.”

12- Ðừng cho gì nếu chẳng ai xin,
Cũng chớ cho ai thứ chẳng thèm,
Vậy vật này đây hành khất muốn
Cầu xin, trẫm bố thí ngay liền.

2391. Āyuṃ nu vaṇṇaṃ nu sukhaṃ balaṃ nu kiṃ patthayāno nu janinda desi, kathaṃ hi rājā sivinaṃ anuttaro cakkhūni dajjā paralokahetu.  

2391. “Tâu vị chúa của loài người, trong khi ước nguyện điều gì mà bệ hạ bố thí? Có phải là tuổi thọ, sắc đẹp, hạnh phúc, hay sức mạnh? Tại sao đức vua vô thượng của xứ Sivi lại bố thí hai con mắt vì nguyên nhân là thế giới (tái sanh) khác?”

13- Thọ mạng, sắc, quyền lực, lạc hoan,
Ðâu là phần thưởng, tấu Minh quân?
Lực nào thúc dục Ngài hành động,
Chúa thượng Sivi của quốc dân,
Sao lợi gì cho đời kế vậy,
Ngài đành bỏ cặp mắt mình vàng?

2392. Nacāhametaṃ yasasā dadāmi na puttamicche na dhanaṃ na raṭṭhaṃ, satañca dhammo carito purāṇo icceva dāne ramate mano mamaṃ.  

2392. “Ta bố thí vật ấy không vì danh tiếng, không vì ước muốn con trai, không vì tài sản, không vì vương quốc. Đây là pháp đã được thực hành thời xa xưa của các bậc thiện nhân, chính vì như thế mà tâm ý của trẫm vui thích trong việc bố thí.”

14- Như vậy, trong khi muốn cúng dường,
Ðích ta chẳng nhắm đạt vinh quang,
Nhiều con, nhiều của, nhiều vương quốc,
Ðể nắm quyền cai trị thế gian.
Ðây chính là con đường Thánh thiện,
Từ xưa của các bậc Hiền nhân;
Tâm ta nồng nhiệt hằng mong ước
Ðem mọi thí tài để phát ban.

2393. Na me dessā ubho cakkhū attānaṃ me na dessiyaṃ, sabbaññutaṃ piyaṃ mayhaṃ tasmā cakkhuṃ adāsahaṃ.  

2393. “Hai con mắt không có bị ta ghét bỏ, bản thân không có bị ta ghét bỏ; đối với ta quả vị Toàn Giác là yêu quý, vì thế ta đã bố thí con mắt.

2394. Sakhā ca mitto ca mamāsi sīvaka susikkhito sādhu karohi me vaco, uddhatva cakkhūni mamaṃ jigiṃsato hatthesu āvesi vaṇibbakassa.  

2394. Này Sīvaka, khanh là người cộng sự và là bạn bè của trẫm. Là người đã được học tập rành rẽ, khanh hãy thực hiện tốt đẹp lời nói của trẫm. Trẫm mong muốn khanh hãy móc ra hai con mắt của trẫm rồi đặt vào ở hai bàn tay của lão ăn mày.”

15- Bạn hiền, chí thiết, Sivaka,
Xin hãy làm theo lệnh của ta,
Bạn có đầy tài năng kỹ xảo,
Xin đem liền cặp mắt ta ra,
Vì đây là chính điều tâm nguyện,
Và tặng vào tay khất sĩ già.

2395. Codito sivirājena sīvako vacanaṃkaro, rañño cakkhūni uddhatvā brāhmaṇassūpanāmayi,
sacakkhu brāhmaṇo āsi andho rājā upāvisi.

2395. “Được khuyến khích bởi đức vua Sivi, Sīvaka, người thực hiện lời nói, đã móc ra hai con mắt của đức vua rồi trao cho vị Bà-la-môn. Vị Bà-la-môn đã trở nên có mắt sáng, còn đức vua đã rơi vào cảnh mù lòa.”

16- Si vi chúa tể giục Si va
Hoàn tất tâm nguyện của đức vua,
Trao tặng Bà la môn tài thí vật,
Y sư lấy cặp mắt ngài ra,
Bà la môn có liền đôi mắt,
Chúa thượng giờ đây phải tối lòa.

2396. Tato so katipāhassa uparūḷhesu cakkhusu, sūtaṃ āmantayī rājā sivīnaṃ raṭṭhavaḍḍhano.  

2396. Sau đó vài ngày, khi hai con mắt đã được phục hồi, vị vua ấy, bậc làm hưng thịnh vương quốc Sivi, đã bảo người đánh xe rằng:

17- Vài ngày qua cặp mắt vừa lành,
Bình phục dần nên lại hiện hình,
Ðại đế Sivi nuôi quốc độ
Triệu quan điều ngự của riêng mình;

2397. Yojehi sārathi yānaṃ yuttañca paṭivedaya, uyyānabhūmiṃ gacchāma pokkharañño vanāni ca.  

2397. “Này xa phu, khanh hãy thắng ngựa vào cỗ xe, và hãy thông báo khi đã làm xong. Chúng ta sẽ đi đến khu vườn giải trí, hồ sen, và các khu rừng.”

18- "Ngự quan, chuẩn bị chiếc vương xa,
Rồi đến đây trình báo với ta,
Ta muốn vào khu rừng, thượng uyển,
Ðầy hồ sen súng mọc chen hoa".

2398. So ca pokkharaṇiyā tīre pallaṅkena upāvisi, tassa sakko pāturahu devarājā sujampati.  

2398. Và đức vua đã đi đến bờ hồ bằng chiếc kiệu khiêng. Đấng Thiên Vương Sakka, chồng của nàng Sujā, đã hiện ra trước đức vua.

19- Quan đặt vua vào chiếc kiệu hoa,
Và đây, dừng kiệu ở bên bờ,
Su-ja Phu tướng, ngài Thiên chủ,
Xuất hiện, chính là Ðại Sakka.

2399. Sakkohamasmi devindo āgatosmi tavantike, varaṃ varassu rājīsi yaṃ kiñci manasicchasi.  

2399. “Ta là Sakka, chúa tể của chư Thiên, đã đi đến bên cạnh bệ hạ. Tâu vị ẩn sĩ vương, xin bệ hạ hãy chọn một ân huệ về bất cứ điều gì bệ hạ mong muốn ở trong tâm.”

20- Chính ta là Thượng đế Sakka,
Ta đến đây tham kiến nhà vua,
Hãy chọn hồng ân, này Thánh chúa,
Điều gì ngài ước, nói cùng ta.

2400. Pahūtaṃ me dhanaṃ sakka balaṃ koso canappako, andhassa me satodāni maraṇaññeva ruccati.

2400. “Thưa Sakka, tài sản của trẫm có nhiều, sức mạnh và kho báu không phải là ít. Giờ đây, đối với trẫm, trong khi bị mù lòa, chỉ có cái chết là được ưa thích.”

21-Sinh lực, kho vô tận, bảo châu,
Ta đều bỏ lại hết đằng sau,
Thiên hoàng, ta chẳng mong gì nữa
Trừ chết, vì ta có mắt đâu!

2401. Yāni saccāni dipadinda tāni bhāsassu khattiya, saccante bhaṇamānassa puna cakkhuṃ bhavissati.

2401. “Tâu chúa tể của loài người, những gì là sự thật, tâu vị Sát-đế-lỵ, xin bệ hạ hãy nói ra những điều ấy. Trong khi bệ hạ nói ra sự thật, con mắt sẽ có trở lại cho bệ hạ.”

22- Chúa tể của loài lưỡng túc nhân,
Hãy nguyền nói đúng lẽ toàn chân,
Nếu ngài tuyên bố lời chân thật,
Ðôi mắt ngài nay sẽ phục hoàn.

2402. Ye maṃ yācitumāyanti nānāgottā vaṇibbakā, yopi maṃ yācate tattha sopi me manaso piyo, etena saccavajjena cakkhumme upapajjatha.

2402. “Những người đi đến cầu xin trẫm là những kẻ ăn mày có dòng họ khác nhau. Kẻ nào cầu xin trẫm ở tại nơi ấy, trẫm đều có tâm yêu quý đối với kẻ ấy. Do lời nói chân thật này, mong rằng con mắt hãy sanh lên cho trẫm.23- Loài nào bất kể, muốn cầu ân,
Hễ có ai nài nỉ lại gần,
Ai đến bất kỳ, xin bố thí,
Lòng ta cũng thấy thật thương thân:
Nếu lời Ðại nguyện này chân thật,
Cầu mắt ta nay sẽ hiện dần.

2403. Yaṃ maṃ so yācituṃ āga dehi cakkhunti brāhmaṇo, tassa cakkhūni pādāsiṃ brāhmaṇassa vaṇibbino.

2403. Về việc lão Bà-la-môn ấy đã đi đến cầu xin trẫm rằng: ‘Xin bệ hạ hãy bố thí con mắt,’ trẫm đã ban cho lão Bà-la-môn ăn mày ấy hai con mắt.

24-Một đạo sĩ kia đến viếng ta,
Chỉ cần xin một mắt thôi mà,
Ta đà đem trọn đôi con mắt,
Bố thí La môn khất sĩ già.

2404. Bhiyyo maṃ āvisi pīti somanassañcanappakaṃ, etena saccavajjena dutiyamme upapajjatha.

2404. Sự hoan hỷ đã khởi lên ở trẫm nhiều hơn nữa, sự vui mừng đã sanh lên không phải là ít. Do lời nói chân thật này, mong rằng con mắt thứ hai hãy sanh lên cho trẫm.”

25- Hoan hỉ càng nhiều, lạc thọ tăng,
Chính hành động ấy đã ban phần,
Nếu lời Nguyện ước này Chân thật,
Mong được mắt kia cũng phục hoàn.

2405. Dhammena bhāsitā gāthā sivīnaṃ raṭṭhavaḍḍhana, etāni tava nettāni dibbāni paṭidissare.

2405. “Thưa bậc làm hưng thịnh vương quốc Sivi, các kệ ngôn đã được nói đúng với bản thể. Cặp mắt thuộc cõi Trời này được hiện ra cho bệ hạ.

26- Ðại đế Sivi bảo dưỡng dân!
Bài ca thánh thiện của Minh quân
Cho ngài được hưởng phần ân huệ
Vô giá này, đây cặp mắt thần.

2406. Tiro kuḍḍaṃ tiro selaṃ samatiggayha pabbataṃ, samantā yojanasataṃ dassanaṃ anubhontu te.

2406. Mong rằng bệ hạ đạt được việc nhìn thấy xuyên qua bức tường, xuyên qua tảng đá, băng qua núi non, và một trăm do-tuần ở xung quanh.”

27- Xuyên qua tường, núi, đá, đồng bằng,
Bất cứ vật gì đứng cản ngăn,
Ðôi mắt ngài đây đều thấy suốt
Khoảng chừng trăm dặm ở mười phương.

2407. Konīdha vittaṃ na dadeyya yācito api visiṭṭhaṃ supiyampi attano, tadiṅgha sabbe sivayo samāgatā
dibbāni nettāni mamajja passatha.

2407. “Người nào ở thế gian này, khi không được cầu xin, mà có thể bố thí của cải, thậm chí là vật tuyệt vời nhất, thậm chí là vật vô cùng yêu quý đối với bản thân? Nào, tất cả dân chúng xứ Sivi đã tụ tập lại, các người hãy nhìn xem cặp mắt thuộc cõi Trời của trẫm.

28. Nếu mình được gợi ý thi ân,
Nào ai có từ chối được chăng,
Dù đó là phần cao quý nhất,
Của mình, bảo vật giá vô ngần.

29- Dân chúng Sivi hội họp đoàn,
Ðến đây, nhìn cặp mắt trời ban!

2408. Tiro kuḍḍaṃ tiro selaṃ samatiggayha pabbataṃ, samantā yojanasataṃ dassanaṃ anubhonti me.  

2408. Trẫm đạt được việc nhìn thấy xuyên qua bức tường, xuyên qua tảng đá, băng qua núi non, và một trăm do-tuần ở xung quanh.

Xuyên qua tường đá , đồi, thung lũng
Bất cứ vật gì đứng cản ngăn
Ðôi mắt ta đều trông thấy suốt
Một trăm dặm trải khắp mười phương

2409. Na cāgamattā paramatthi kiñci maccānaṃ idha jīvite, datvā mānusakaṃ cakkhuṃ laddhaṃ me cakkhuṃ amānusaṃ.  

2409. Không có bất cứ việc gì cao hơn sự việc xả thí ở nơi này, ở cuộc sống của con người. Sau khi bố thí con mắt thuộc nhân loại, trẫm nhận được con mắt thuộc cõi Trời.

30- Từ bỏ thân mình giữa thế nhân
điều cao quý nhất trên trần,
Ta đem bố thí mắt phàm tục,
Nên được trời cho cặp mắt thần.

2410. Etampi disvā sivayo detha dānāni bhuñjatha datvā ca bhutvā ca yathānubhāvaṃ aninditā saggamupetha ṭhānanti.  

2410. Này các người dân xứ Sivi, sau khi nhìn thấy việc này, các người hãy bố thí các vật thí, các ngươi hãy thụ hưởng. Sau khi bố thí và thụ hưởng tùy theo khả năng, là những người không bị chê trách, các người sẽ đạt đến vị thế cõi Trời.” 

31- Dân chúng này xem, hãy phát ban,
Nhường phần cho kẻ khác khi ăn,
Nếu làm việc ấy đầy tâm thiện,
Người sẽ sinh thiên chẳng lỗi lầm.

Sivijātakaṃ.

***

Bổn Sanh Đức Vua Sivi. [499]



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada