(Tiền thân Citta-Sambhùta)

2351. Sabbaṃ narānaṃ saphalaṃ suciṇṇaṃ na kammanā kiñcana moghamatthi, passāmi sambhūtaṃ mahānubhāvaṃ sakammanā puññaphalūpapannaṃ.

2351. “Mọi việc làm của con người đều có quả báo và khéo được tích lũy. Không có nghiệp nào là rỗng không (không có quả báo). Trẫm nhìn thấy Sambhūta có đại năng lực, đã được thành tựu quả phước do nghiệp của bản thân.

1- Chóng chầy thiện nghiệp đều mang trái,
Không nghiệp gì không có quả sinh,
Chẳng có việc lành nào uổng phí:
Sam-bhù, ta thấy, lớn lên thành
ng cường, vĩ đại và như thế
Công đức ngài đem đến quả lành

2352. Sabbaṃ narānaṃ saphalaṃ suciṇṇaṃ na kammanā kiñcana moghamatthi, kaccinnu cittassapi evameva iddho mano tassa yathāpi mayhaṃ.

2352. Mọi việc làm của con người đều có quả báo và khéo được tích lũy. Không có nghiệp nào là rỗng không (không có quả báo). Phải chăng cũng tương tự y như thế đối với Citta? Phải chăng sự thành tựu thuộc về ý của người ấy cũng giống như của trẫm?”

2- Chóng chầy thiện nghiệp đều mang trái,
Không nghiệp gì không có quả mang,
Chẳng có việc lành nào uổng phí:
Cit-ta ai biết, có vinh quang
Giống như phần trẫm, tâm hiền hữu
Có được an vui lợi lạc chăng?

2353. Sabbaṃ narānaṃ saphalaṃ suciṇṇaṃ na kammanā kiñcana moghamatthi, cittaṃ vijānāhi tatheva deva iddho mano tassa yathāpi tuyhaṃ.

2353. “Mọi việc làm của con người đều có quả báo và khéo được tích lũy. Không có nghiệp nào là rỗng không (không có quả báo). Tâu bệ hạ, xin bệ hạ hãy nhận biết về Citta là tương tự y như vậy. Sự thành tựu thuộc về ý của người ấy cũng giống như của bệ hạ.”

3-Thiện nghiệp chóng chầy đều đạt quả
Nghiệp nào mà chẳng quả lai sinh,
Không gì vô ích tâu Hoàng thượng,
Xin ngắm Cit-ta tại cổng thành,
Chẳng khác quân vương, tâm vị ấy
Đã đem hỷ lạc đến cho mình.

2354. Bhavaṃ nu citto sutamaññato te udāhu te kocinaṃ etadakkhā, gāthā sugītā na mamatthi kaṅkhā
dadāmi te gāmavaraṃ satañca.

2354. “Phải chăng khanh là Citta? Khanh đã nghe từ chính vị ấy nói? Hay là người nào đó đã nói điều này về vị ấy với khanh? Câu kệ ngôn đã được ngâm nga khéo léo; không có sự hoài nghi đối với trẫm. Trẫm ban cho khanh ân huệ là một trăm ngôi làng.”

4- Vậy có phải chăng chính Cit-ta,
Hay chàng nghe được chuyện ngày xưa
Từ ngài, hay một người nào khác?
Ôi ngọt ngào thay khúc Thánh ca!
Ta chẳng sợ gì, ta sẽ thưởng
Ngôi làng hay tặng vật làm quà.

2355. Na cāhaṃ citto sutamaññato me isī ca me etamatthaṃ asaṃsi, gantvāna rañño paṭigāhi gāthaṃ
api te varaṃ attamano dadeyya.

2355. “Thần không phải là Citta. Thần đã không nghe từ chính vị ấy nói. Một vị ẩn sĩ đã nói điều ấy cho thần rằng: ‘Ngươi hãy đi đến gặp và ngâm nga câu kệ ngôn cho đức vua nghe. Thậm chí được hoan hỷ, đức vua cũng có thể ban cho ngươi ân huệ.’”

5- Hạ thần nào có phải Cit-ta,
Song chuyện ấy thần được biết qua,
Chính một hiền nhân vừa dạy bảo:
"Đi ngâm lời hát đối dâng vua,
Rồi chàng sẽ được ngài ban thưởng,
Tay của ngài ân nghĩa đậm đà".

2356. Yojentu ve rājarathe sukate cittasibbane, kacchaṃ nāgānaṃ bandhatha gīveyyaṃ paṭimuñcatha.

2356. “Đúng vậy, hãy cho thắng ngựa vào cỗ vương xa đã khéo được kiến tạo, có các tấm thảm may nhiều màu sắc. Các khanh hãy buộc dây đai, hãy đeo vòng trang sức ở cổ cho các con voi.

6- Các vương xa hãy thắng yên cương,
Chạm trổ tinh vi, đẹp tuyệt trần,
Đem buộc cân đai vào bảo tượng,
Điểm trang vòng cổ sáng huy hoàng.

2357. Āhaññantu bherimudiṅgasaṅkhe sīghāni yānāni ca yojayantu, ajjevahaṃ assamaṃ taṃ gamissaṃ
yattheva dakkhissaṃ isiṃ nisinnaṃ.  

2357. Hãy cho vỗ lên các trống lớn, trống nhỏ, và các tù và. Và hãy thắng ngựa cho những cỗ xe tốc hành. Ngay hôm nay, trẫm sẽ đi đến khu ẩn cư ấy, ngay tại nơi mà trẫm sẽ nhìn thấy vị ẩn sĩ ngồi.”

7- Quần thần hãy đánh trống liên hoan,
Bảo thổi tù và ốc dậy vang,
Chuẩn bị vương xa nhanh bậc nhất
Bởi vì trẫm muốn sớm lên đàng
Hôm nay tìm thảo am cô tịch,
Yết kiến hiền nhân trước tọa sàng.

2358. Suladdhalābho vata me ahosi gāthā sugītā parisāya majjhe, sohaṃ isiṃ sīlavatūpapannaṃ
disvā patīto sumanohamasmi.  

2358. “Quả thật, lợi ích khéo đạt được đã có cho trẫm! Câu kệ ngôn đã được ngâm nga khéo léo ở giữa hội chúng. Trẫm đây được hân hoan, sau khi nhìn thấy vị ẩn sĩ thành tựu về giới và phận sự; trẫm trở nên vui sướng.

8- Thật quý thay là Thánh khúc xưa,
Trẫm từng ca hát thật say sưa,
Trong khi dân chúng đông dồn dập,
Quần tụ chung quanh chật cả nhà;
Nay đến đây xin chào Thánh giả,
n hoan, hạnh phúc ngập tâm ta.

2359. Āsanaṃ udakaṃ pajjaṃ patigaṇhātu no bhavaṃ, agghe bhavantaṃ pucchāma agghaṃ kurutu no bhavaṃ.  

2359. Xin bậc đạo hạnh hãy tiếp nhận chỗ ngồi, nước, dầu bôi chân của chúng tôi. Chúng tôi xin phép dâng bậc đạo hạnh các vật giá trị. Xin bậc đạo hạnh hãy thọ nhận vật giá trị của chúng tôi.

9- Tọa sàng, nước mát rửa bàn chân,
Đúng pháp là đem lễ cúng dâng,
Thực phẩm dành cho nhiều khách quý,
Xin hiền huynh nhận, trẫm ân cần.

2360. Rammañca te āvasathaṃ karontu nārīgaṇehi paricārayassu, karohi okāsamanuggahāya
ubhopimaṃ issariyaṃ karoma.  

2360. Và hãy để cho bọn họ làm cho chỗ trú ngụ của ngài trở nên xinh xắn. Xin ngài hãy để cho đám phụ nữ hầu hạ. Xin ngài hãy tạo cho cơ hội, không có ngăn cản. Cả hai chúng ta hãy cai quản vương quốc này.”

10- Bảo làm cho nhộn nhịp tưng bừng,
Nơi chốn hiền huynh sẽ trú thân,
Truyền đem nữ tỳ theo phục vụ,
Ôi, ta muốn tỏ với hiền nhân
Lòng ta yêu quý ngài tha thiết,
Xin hãy cùng ta ngự trị dân.

2361. Disvā phalaṃ duccaritassa rāja atho suciṇṇassa mahāvipākaṃ, attānamevaṃ paṭisaññamissaṃ
na patthaye puttaṃ pasuṃ dhanaṃ vā.  

2361. “Tâu bệ hạ, sau khi nhìn thấy kết quả của uế hạnh, rồi quả thành tựu lớn lao của việc hành thiện, tôi sẽ tự chế ngự bản thân như vậy, không cầu mong con cái, thú vật, hay tài sản.

11- Hỡi Đại vương, nhìn quả ác hành,
Thấy bao lợi lạc thiện hành sinh,
Ta mong điều ngự thân tu tập,
Con, của không lôi cuốn trí mình.

2362. Dasevimā vassadasā maccānaṃ idha jīvitaṃ, appattaññeva taṃ odhiṃ naḷo chinnova sussati.

2362. Đời sống của loài người ở thế gian này chỉ có mười giai đoạn mười năm này thôi. Khi giới hạn ấy vẫn còn chưa đạt đến, con người tựa như cây sậy đã bị đốn ngã, khô héo dần.

12- Trăm năm tròn cuộc sống người đời,
Năm tháng theo nhau kế tiếp trôi,
Khi đến hạn kỳ, người héo úa,
Tựa hồ lau sậy nát tan thôi.

2363. Tattha kā nandi kā khiḍḍā kā ratī kā dhanesanā, kimme puttehi dārehi rāja muttosmi bandhanā.

2363. Ở cuộc sống ấy, cái gì là sự vui vẻ, cái gì là sự chơi đùa, cái gì là sự khoái lạc, cái gì là sự tầm cầu tài sản? Đối với tôi, có việc gì với các con và những người vợ? Tâu bệ hạ, tôi đã thoát ra khỏi sự trói buộc.

13- Thế nghĩa gì hoan lạc, ái ân,
Nghĩa gì săn đuổi cảnh giàu sang?
Nhiều con, nghĩa lý gì? Nên biết,
Hỡi Đại vương, ta thoát buộc ràng.

2364. So ahaṃ suppajānāmi maccu me nappamajjati, antakenādhipannassa kā ratī kā dhanesanā.

2364. Tôi đây nhận biết rõ điều ấy, Tử Thần không mê hoặc được tôi. Đối với người đã bị Thần Chết chế ngự, thì cái gì là sự khoái lạc, cái gì là sự tầm cầu tài sản?

14- Ta biết, vì đây chính thật chân,
Ta không qua khỏi tử ma thần,
Nghĩa gì vàng bạc và ân ái,
Khi bạn đến thời phải mạng vong?

2365. Jāti narānaṃ adhamā janinda caṇḍālayoni dipadā kaṇiṭṭhā, sakehi kammehi supāpakakehi
caṇḍālagabbhe avasimha pubbe.

2365. Tâu vị chúa của loài người, việc sanh ra ở loài người là thấp thỏi, dòng dõi của hạng người hạ tiện là kém cỏi nhất trong số các loài hai chân. Do các nghiệp vô cùng xấu xa của bản thân, chúng ta đã sanh vào bào thai của dòng dõi hạ tiện trong thời quá khứ.

15- Giòng giống hạ đẳng bước hai chân,
Hạ liệt Chiên đà nhất thế nhân,
Khi nghiệp chín làm phần thưởng quý,
Hai ta cùng có một tiền thân:

2366. Caṇḍālāhumha avantīsu migā nerañjarampati, ukkusā nammadātīre tyajja brāhmaṇakhattiyā.

2366. Chúng ta đã là những người dòng dõi hạ tiện ở xứ Avantī, là loài nai ở cạnh sông Nerañjarā, là chim ưng ở bờ sông Nammadā, chúng ta đây, hôm nay, là Bà-la-môn và Sát-đế-lỵ.

16- Tại A-van, bạn trẻ Chiên đà,
Là cặp Nai vàng bến nước xưa,
Đôi chú chim Ưng bờ Niết bút,
Giờ đây giáo sĩ, đó làm vua.

2367. Upanīyati jīvitamappamāyu jarūpanītassa na santi tāṇā, karohi pañcāla mameta vākyaṃ
mākāsi kammāni dukhudrayāni.

2367. Mạng sống này bị dẫn đi, có tuổi thọ ít ỏi. Đối với người bị dẫn đi bởi tuổi già, các nơi trú ẩn là không có. Này Pañcāla, bệ hạ hãy làm theo lời nói này của tôi. Chớ tạo các nghiệp đưa đến khổ đau.

17- Đời người ngắn ngủi chết cùng đường,
Già cả không nơi chốn náu nương,
Này hỡi Pañcala, thực hiện,
Những gì ta khuyến nhủ quân vương:
Tránh xa tất cả hành vi ác,
Đưa đẩy vào đau khổ đoạn trường.

2368. Upanīyati jīvitamappamāyu jarūpanītassa na santi tāṇā, karohi pañcāla mametavākyaṃ
mākāsi kammāni dukkhapphalāni.

2368. Mạng sống này bị dẫn đi, có tuổi thọ ít ỏi. Đối với người bị dẫn đi bởi tuổi già, các nơi trú ẩn là không có. Này Pañcāla, bệ hạ hãy làm theo lời nói này của tôi. Chớ tạo các nghiệp có kết quả khổ đau.

18- Đời người ngắn ngủi, chết sau cùng,
Già cả không nơi chốn trú thân;
Này hỡi Pañcala, thực hiện
Những gì ta khuyến nhủ quân vương:
Tránh xa tất cả hành vi ác
Đưa đẩy vào trong hạ ngục tầng.

2369. Upanīyati jīvitamappamāyu jarūpanītassa na santi tāṇā, karohi pañcāla mametavākyaṃ
mākāsi kammāni rajassirāni.

2369. Mạng sống này bị dẫn đi, có tuổi thọ ít ỏi. Đối với người bị dẫn đi bởi tuổi già, các nơi trú ẩn là không có. Này Pañcāla, bệ hạ hãy làm theo lời nói này của tôi. Chớ tạo các nghiệp khiến đầu bị lấm bụi (ô nhiễm).

19- Nhân thế ngắn sao, chết cuối cùng,
Người già không chốn để nương thân,
Pañcala hỡi, xin thành tựu
Những việc ta khuyên nhủ Đại vương:
Xin hãy xa lìa bao vọng nghiệp,
Nhiễm ô toàn ác dục tham sân.

2370. Upanīyati jīvitamappamāyu vaṇṇaṃ jarā hanti narassa jīyato, karohi pañcāla mametavākyaṃ
mākāsi kammaṃ nirayūpapattiyā.

2370. Mạng sống này bị dẫn đi, có tuổi thọ ít ỏi. Sự già tiêu hủy sắc đẹp của người đang bị già. Này Pañcāla, bệ hạ hãy làm theo lời nói này của tôi. Chớ tạo các nghiệp đưa đến việc sanh vào địa ngục.”

20- Đời người ngắn ngủi, chết vong thân,
Bệnh, lão làm suy thế lực dần,
Ta chẳng làm sao ra thoát được;
Pañcala thực hiện lời răn:
Tránh xa tất cả hành không thiện
Đưa đẩy vào trong ngục hạ tầng.

2371. Addhā hi saccaṃ vacanaṃ tavetaṃ yathā isi bhāsasi evametaṃ, kāmā ca me santi anapparūpā
te duccajā mādisakena bhikkhu.

2371. “Quả đúng vậy, lời nói ấy của ngài là sự thật, giống như vị ẩn sĩ đã nói điều ấy như vậy. Thưa vị tỳ khưu, các dục của trẫm có vẻ không ít, chúng là khó dứt bỏ bởi người như trẫm.

21- Lời kia, Tôn giả, quá toàn chân,
Ngài dạy lời như bậc Thánh nhân,
Song dục tham ta đều khó bỏ,
Với người như trẫm, chúng vô cùng.

2372. Nāgo yathā paṅkamajjhe byasanno passaṃ thalaṃ nābhisambhoti gantuṃ, evaṃpahaṃ kāmapaṅke byasanno na bhikkhuno maggamanubbajāmi.

2372. Giống như con voi bị lún xuống ở giữa bãi lầy, trong khi nhìn thấy đất bằng nhưng không có khả năng để đi đến; cũng tương tự như vậy, trẫm bị lún xuống ở bãi lầy dục vọng, không đi theo con đường của vị tỳ khưu được.

22- Như voi chìm xuống vũng bùn nhơ,
Không thể bò lên, dẫu thấy bờ,
Trẫm cũng lún sâu bùn dục lạc,
Nên không theo nổi Đạo Thầy tu!

2373. Yathāpi mātā ca pitā ca puttaṃ anusāsare kinti sukhībhaveyya, evampi maṃ tvaṃ anusāsa bhante
yamācaraṃ pecca sukhībhaveyyaṃ.

2373. Cũng giống như người mẹ và người cha chỉ dạy đứa con trai sao cho nó có thể có sự an lạc, thưa ngài, cũng tương tự như vậy, xin ngài hãy chỉ dạy trẫm cách thực hành nào để sau khi chết, trẫm có thể có sự an lạc.”

23- Như mẹ như cha dạy bảo con,
Thành người sống hạnh phúc, hiền lương,
Dạy ta hạnh phúc làm sao đạt,
Xin chỉ cho ta bước đúng đường.

2374. No ce tuvaṃ ussahase janinda kāme ime mānusake pahātuṃ, dhammaṃ baliṃ paṭṭhapayassu rāja
adhammakāro ca te māhu raṭṭhe.

2374. “Tâu vị chúa của loài người, nếu bệ hạ không thể nỗ lực để dứt bỏ các dục này thuộc về loài người, tâu bệ hạ, bệ hạ hãy thiết lập luật pháp có đủ sức mạnh, và chớ để lối hành xử bất công xảy ra ở xứ sở của bệ hạ.24- Ngài không thể bỏ, hỡi Quân vương,
Các dục tham đây cũng thế thường:
Vậy chớ bắt dân nhiều thuế nặng,
Trị sao dân chúng thấy công bằng

2375. Dūtā vidhāvantu disā catasso nimantakā samaṇabrāhmaṇānaṃ, te annapānena upaṭṭhahassu
vatthena senāsanapaccayena ca.

2375. Hãy cho các sứ giả đi khắp bốn phương thỉnh mời các vị Sa-môn và Bà-la-môn. Bệ hạ hãy hộ độ các vị ấy với cơm ăn và nước uống, với y phục và vật dụng nằm ngồi.

25- Gửi sứ thần đi khắp bốn phương,
Mời người khổ hạnh, Bà la môn,
Cúng dường thực phẩm, nhà an nghỉ,
Xiêm áo và luôn mọi thứ cần.

2376. Annena pānena pasannacitto santappaya samaṇabrāhmaṇe ca, datvā ca bhutvā ca yathānubhāvaṃ nindito saggamupehi ṭhānaṃ.

2376. Với tâm tịnh tín, bệ hạ hãy làm hài lòng các vị Sa-môn và Bà-la-môn với cơm ăn và nước uống. Sau khi bố thí và hưởng thụ tùy theo khả năng, là người không bị chê trách, bệ hạ sẽ đạt đến vị thế cõi trời.

26- Đem thức ăn uống để đãi đằng
Bà la môn, Thánh giả, Hiền nhân,
Tâm đầy thành tín, ai ban phát,
Và trị dân tài đức hết lòng,
Người ấy sẽ đi lên thượng giới,
Lỗi lầm không có, lúc vong thân.

2377. Sace ca taṃ rāja mado saheyya
nārīgaṇehi paricārayantaṃ,
imameva gāthaṃ manasīkarohi
bhāsesi ce naṃ parisāya majjhe.

2377. Tâu bệ hạ, nếu sự mê đắm khống chế bệ hạ trong khi bệ hạ đang tiêu khiển với đám phụ nữ, bệ hạ hãy chú tâm vào chính câu kệ ngôn này và hãy cho giảng giải nó ở giữa hội chúng.

27- Song nếu vây quanh bởi má hồng,
Dục tham, ngài thấy, quá say nồng,
Trong tâm hãy nhớ vần thi kệ,
Và hát hò lên giữa đám đông.

2378. Abbhokāsasayo jantu vajantyā khīrapāyito,
parikiṇṇo supānehi svājja rājāti vuccatīti.

2378. Con người (trước đây) có chỗ nằm ngủ ở ngoài trời, được mẹ cho bú sữa trong lúc mẹ đang phải di chuyển, bị bỏ rơi lăn lóc với những con chó, người ấy hôm nay được gọi là ‘đức vua.’”

28- "Dưới trời không mái để che thân,
Bầy chó xưa cùng nó ngủ lăn,
Mẹ nó cho ăn lúc bước vội,
Mà nay làm một vị vương quân.

Cittasambhūtajātakaṃ.

***

Bổn Sanh Citta và Sambhūta. [498]



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada