(Tiền thân Màtanga)

2328. Kuto nu āgacchasi rummavāsī otallako paṃsupisācakova, saṅkāracoḷaṃ paṭimucca kaṇṭhe
ko re tuvaṃ hohisi adakkhiṇeyyo.  

2328. “Thế ngươi từ đâu đi đến mà ăn mặc dơ dáy, tồi tàn, tựa như loài yêu tinh ở đống rác? Ngươi là ai mà buộc mảnh vải lượm từ đống rác ở cổ? Ngươi sẽ không được cúng dường.”

1- Lão từ đâu đến đắp y dơ,
Người ngợm tồi tàn tựa quỷ ma,
Giẻ rách làm y quàng trước ngực,
Lão là ai? Chẳng xứng phần quà!

2329. Annaṃ tava idaṃ pakataṃ yasassī taṃ khajjare bhuñjare piyyare ca, jānāsi maṃ tvaṃ paradattūpajīviṃ uttiṭṭhapiṇḍaṃ labhataṃ sapāko.  

2329. “Này người có danh vọng, vật thực này của ngài được chuẩn bị sẵn; mọi người nhai nó, ăn nó, và uống nó. Ngài biết rằng tôi có cuộc sống nương vào sự bố thí của người khác. Vậy hãy cho người hạ tiện nhận lãnh miếng ăn do đứng chầu chực.”

2- Vương tử! Thức ăn đã sẵn bày,
Mọi người ăn uống hưởng no say:
Bọn ta, ngài biết thường sinh sống
Bằng thứ tìm ra bởi gặp may.
Xin đứng lên cho người hạ tiện
Hưởng phần thọ thực chút gì đây.

2330. Annaṃ mama idaṃ pakataṃ brāhmaṇānaṃ attatthāya saddahato mamayidaṃ, apehi etto kimidhaṭṭhitosi na mādisā tuyhaṃ dadanti jamma.  

2330. “Vật thực này của ta được chuẩn bị sẵn cho các vị Bà-la-môn. Vật thực này là của ta, của người có đức tin, nhằm sự tấn hóa cho bản thân. Ngươi hãy tránh xa nơi này. Việc gì mà ngươi đứng ở đây? Này kẻ hèn hạ, những người như ta không bố thí cho ngươi.”

3- Phần các La môn hưởng phước ân,
Này đây thực phẩm chính tay dâng
Thí tài cúng với lòng thành kính.
Thôi cút! Ai đưa lão cán chân?
Chẳng có phần cho người hạ tiện,
Kẻ hèn kia hãy bước đi luôn!

2331. Thale ca ninne ca vapanti bījaṃ anūpakhette phalamāsasānā, etāya saddhāya dadāhi dānaṃ
appeva ārādhaye dakkhiṇeyye.

2331. “Những người mong mỏi về thành quả gieo hạt giống ở đất bằng, ở đất trũng, và ở cánh đồng đẫm nước. (Tương tự như thế ấy,) ngài hãy ban phát vật thí với niềm tin ấy, có lẽ ngài có thể có được các bậc xứng đáng cúng dường.”

4- Mọi nơi cao thấp họ gieo trồng,
Mong gặt quả trên đám ruộng đồng:
Chánh đạo này đây, xin bố thí,
Sau ngài xứng đáng hưởng phần công.

2332. Khettāni mayhaṃ viditāni loke yesāhaṃ bījāni patiṭṭhapemi, ye brāhmaṇā jātimantūpapannā
tānīdha khettāni supesalāni.

2332. “Các thửa ruộng ở thế gian đã được ta biết đến, ta sẽ đặt các hạt giống ở những nơi ấy. Đó là các vị Bà-la-môn thành tựu về dòng dõi và các chú thuật; các thửa ruộng ấy, ở thế gian này, là vô cùng mầu mỡ.”

5- Ta biết đất ta muốn cấy trồng,
Những vùng xứng đáng hạt đâm bông,
La môn quý tộc, thông kinh thánh:
đất lành phong phú ruộng đồng.

2333. Jātimado ca atimānitā ca lobho ca doso ca mado ca moho, ete aguṇā yesu vasanti sabbe
tānīdha khettāni apesalāni.

2333. “Sự kiêu hãnh về dòng dõi, sự ngã mạn thái quá, tham lam, sân hận, kiêu căng, và si mê, tất cả các đức tính xấu này hiện hữu ở những nơi nào, những thửa ruộng ấy, ở thế gian này, là không mầu mỡ.

6- Ngạo mạn giống dòng quá tự kiêu,
Tham sân si, uống rượu say nhiều,
Người tâm chứa đủ sai lầm ấy,
Là đất hoang cằn để hạt gieo.

2334. Jātimado ca atimānitā ca lobho ca doso ca mado ca moho, ete aguṇā yesu na santi sabbe
tānīdha khettāni supesalāni.

2334. Sự kiêu hãnh về dòng dõi, sự ngã mạn thái quá, tham lam, sân hận, kiêu căng, và si mê, tất cả các đức tính xấu này không hiện hữu ở những nơi nào, những thửa ruộng ấy, ở thế gian này, là vô cùng mầu mỡ.” 7- Ngạo mạn giống dòng quá tự kiêu,
Tham sân si, uống rượu say nhiều,
Người tâm chứa đủ sai lầm ấy,
Là đất hoang cằn để hạt gieo.

2335. Kvettha gatā upajotiyo ca upajjhāyo athavā bhaṇḍakucchi, imassa daṇḍañca vadhañca datvā
gale gahetvā khalayātha jammaṃ.

2335. “Các người ở nơi này, Upajotiya, Upajjhāya, hay Bhaṇḍakucchi, đã đi đâu? Các ngươi hãy cho gã này một trận đòn và sự trừng phạt, hãy nắm lấy kẻ hèn hạ ở cổ và tống khứ gã đi.

8- Này Bran-da! Hỡi U-paj-jhà!
Ta bảo, đâu rồi Up-ti-ya,
Trừng phạt lão này, cho lão chết,
Tên hèn hạ, tống cổ ngay ra.

2336. Giriṃ nakhena khaṇasi ayo dantena khādasi, jātavedaṃ padahasi yo isiṃ paribhāsasi.

2336. “Kẻ nào đã mắng nhiếc bậc ẩn sĩ, kẻ ấy đã đào bới ngọn núi bằng móng tay, đã nhai sắt cục bằng răng, đã nuốt vào ngọn lửa.”

9- Phỉ báng Hiền nhân! Lợi ích bằng
Với khi nuốt ngọn lửa đang hồng,
Hay là sắt cứng, đưa răng cắn,
Đào núi, mà dùng móng vuốt không?

2337. Idaṃ vatvāna mātaṅgo isi saccaparakkamo, antalikkhasmiṃ pakkāmi brāhmaṇānaṃ udikkhataṃ.

2337. Sau khi nói điều này, Mātaṅga, vị ẩn sĩ có sự chân thật và nỗ lực, đã bước đi ở trên không trung để cho các vị Bà-la- môn chiêm ngưỡng.

10- Nói vậy, Màtanga trí nhân,
Bậc phò chánh đạo, lý thuần chân,
Rồi ngài bay bổng trên không khí
Trước mắt nhìn theo của đám đông.

2338. Āveṭhitaṃ piṭṭhito uttamaṅgaṃ bāhaṃ pasāreti akammaneyyaṃ, setāni akkhīni yathā matassa
ko me imaṃ puttamakāsi evaṃ.

2338. “Cái đầu đã bị vặn ngược về phía sau. Nó xuội cánh tay không còn hoạt động. Các con mắt trắng dã giống như của người chết. Kẻ nào đã làm cho đứa con trai này của ta trở nên như vậy?”

11- Vặn tréo đầu con khỏi bả vai,
Kìa sao con duỗi cánh tay dài,
Bơ vơ mắt trắng dường như chết,
Kẻ hại con mình đó chính ai?

2339. Idhāgamā samaṇo rummavāsī otallako paṃsupisācakova, saṅkāracoḷaṃ paṭimucca kaṇṭhe
so te imaṃ puttamakāsi evaṃ.

2339. “Có vị Sa-môn đã đi đến nơi này. Vị ấy ăn mặc dơ dáy, tồi tàn, tựa như loài yêu tinh ở đống rác, đã có buộc mảnh vải lượm từ đống rác ở cổ. Vị ấy đã làm cho đứa con trai này của bà trở nên như vậy.”

12- Ẩn sĩ đây khoác áo dơ,
Tồi tàn người ngợm tợ yêu ma,
Y bằng giẻ rách quàng ngang ngực,
Chính kẻ hành hung quý tử bà.

2340. Katamaṃ disaṃ agamā bhūripañño akkhātha me māṇavā etamatthaṃ, gantvāna taṃ paṭikiriyemu accayaṃ appeva naṃ puttaṃ labhemu jīvitaṃ.

2340. “Bậc có trí tuệ uyên bác đã đi về hướng nào? Này các thanh niên Bà-la- môn, các ngươi hãy nói với ta về việc ấy. Chúng ta hãy đi đến (gặp vị ẩn sĩ) và sửa chữa lại lỗi lầm ấy, có lẽ chúng ta sẽ nhận được lại cuộc sống cho đứa con trai ấy của ta.”

13- Về hướng đi nào, bậc Trí nhân?
Trả lời ta, hỡi các vương tôn!
Chúng ta đi chuộc cho lầm lỗi,
Để giúp con ta được tỉnh hồn.

2341. Vehāsayaṃ agamā bhūripañño pathaddhuno paṇṇaraseva cando, apicāpi so purimaṃ disaṃ agacchi saccappaṭiñño isi sādhurūpo.

2341. “Bậc có trí tuệ uyên bác đã đi theo đường hư không, tựa như mặt trăng ở vào giữa cuộc hành trình trong ngày rằm. Hơn nữa, vị ẩn sĩ có sự công nhận về pháp chân thật, có dáng vóc tốt đẹp ấy, đã đi về hướng đông.”

14- Bậc Hiền vụt hiện giữa không gian,
Như thể vầng trăng giữa tối rằm,
Đẹp mặt thay, ngài sùng Chánh đạo!
Phương Đông theo hướng ấy lên đàng.

2342. Āveṭhitaṃ piṭṭhito uttamaṅgaṃ bāhaṃ pasāreti akammaneyyaṃ, setāni akkhīni yathā matassa
ko me imaṃ puttamakāsi evaṃ.  

2342. “Cái đầu đã bị vặn ngược về phía sau. Nó xuội cánh tay không còn hoạt động. Các con mắt trắng dã giống như của người chết. Kẻ nào đã làm cho đứa con trai này của ta trở nên như vậy?”

15- Vặn tréo đầu con khỏi bả vai,
Kìa sao con duỗi cánh tay dài,
Bơ vơ mắt trắng dường như chết,
Kẻ hại con mình đó chính ai?

2343. Yakkhā have santi mahānubhāvā anvāgatā isayo sādhurūpā, te duṭṭhacittaṃ kupitaṃ viditvā
yakkhā hi te puttamakaṃsu evaṃ.  

2343. “Quả thật, có các Dạ-xoa có đại năng lực, đã đi đến tháp tùng theo các vị ẩn sĩ có vóc dáng tốt đẹp (đã thành tựu đức hạnh). Chính các Dạ-xoa ấy, sau khi biết được (con trai nàng có) tâm xấu xa, bực bội, đã làm cho con trai của nàng trở nên như vậy.”

16- Quỷ linh đủ đại lực uy thần
Đẹp mắt theo hầu các trí nhân,
Chúng thấy con nàng sân, ác ý,
Nên hành xử nó chính vì nàng.

2344. Yakkhā ca me puttamakaṃsu evaṃ tvaññeva me mā kuddho brahmacāri, tumheva pāde saraṇaṃ gatāsmi anvāgatā puttasokena bhikkhu.  

2344. “Và các Dạ-xoa đã làm cho con trai của thiếp trở nên như vậy. Thưa bậc hành Phạm hạnh, riêng ngài xin chớ giận dữ với thiếp. Thiếp đi đến nương nhờ hai bàn chân của chính ngài. Thưa vị tỳ khưu, thiếp đã đi đến vì nỗi sầu muộn về đứa con trai.”

17- Chính các thần linh tạo việc trên,
Hiền nhân đừng phẫn nộ thân hèn,
Xin ngài từ mẫn vì con thiếp,
Quy ngưỡng từ nay dưới gót sen.

2345. Tadeva hi etarahi ca mayhaṃ manopadoso na mamatthi koci, putto ca te vedamadena matto
atthaṃ na jānāti adhicca vede.  

2345. “Đối với ta, đúng ngay vào lúc ấy và bây giờ, không có chút nào sân hận trong ý nghĩ của ta. Và con trai của nàng bị say sưa do sự kiêu hãnh về Kinh Vệ Đà; nó đã học thuộc Kinh Vệ Đà nhưng không hiểu biết ý nghĩa.”

18- Tâm ta, hãy biết, chẳng tiềm tàng,
Từ trước đến giờ, ý hận sân,
Con trẻ không thông ba Thánh điển,
Vì đầy vọng tưởng , ngập kiêu căng.

2346. Addhā have bhikkhu muhuttakena sammuyhateva purisassa saññā, ekāparādhaṃ khama bhūripañña na paṇḍitā kodhabalā bhavanti.

2346. “Thật vậy, thưa vị tỳ khưu, đương nhiên sự nhận biết của con người cũng bị mê mờ trong chốc lát. Thưa bậc có trí tuệ uyên bác, xin ngài hãy tha thứ cho một sự sai trái. Các bậc sáng suốt không có năng lực của sự giận dữ.”19- Con người có thế, hỡi hiền nhân,
Bỗng chốc trí khôn hóa tối tăm,
Tha lỗi thiếp này, thưa Trí giả,
Bậc hiền không để khởi hờn căm.

2347. Imañca mayhaṃ uttiṭṭhapiṇḍaṃ taṃ maṇḍavyo bhuñjatu appapañño, yakkhā ca te naṃ na viheṭhayeyyuṃ putto ca te hohiti so arogo.  

2347. “Và đây là miếng ăn do đứng chầu chực của ta. Hãy cho Maṇḍavya thiểu trí ăn vật ấy. Các Dạ-xoa sẽ không quấy nhiễu con trai của nàng, và đứa con trai ấy của nàng sẽ khỏi bệnh.”

20- Chút của thừa này, hãy lấy mang,
Cho Man-da khốn khổ phần ăn,
Con nàng sẽ mạnh mau bình phục,
Bọn quỷ tha mồi, được thoát thân.

2348. Maṇḍavya bālosi parittapañño yo puññakkhettānaṃ akovidosi, mahakkasāvesu dadāhi dānaṃ
kiliṭṭhakammesu asaññatesu.  

2348. “Này Maṇḍavya, con thật là ngu si, thiểu trí, là kẻ không rành rẽ về các thửa ruộng phước. Con ban phát vật thí ở những kẻ có khuyết điểm lớn, ở những kẻ có hành động bị ô nhiễm, ở những kẻ đã không tự chế ngự.21- Man-da, tiểu trí thật ngu đần,
Chẳng biết lúc nào đáng bố ân:
Con cúng dường bao người trọng tội,
Lũ người vô độ, bọn tà nhân!

2349. Jaṭā ca kesā ajinā nivatthā jarūdapānaṃva mukhaṃ parūḷhaṃ, pajaṃ imaṃ passatha rummarūpiṃ
na jaṭājinaṃ tāyate appapaññaṃ.

2349. Những vị có tóc được bện lại, mặc y phục bằng da dê, râu mọc dài ở miệng tựa như cái giếng nước cũ kỹ. Con hãy nhìn xem người này, có sự ăn mặc dơ dáy. Không nên hộ độ kẻ tóc bện, mặc y da dê, nhưng thiểu trí.

22- Xiêm áo bằng da mớ tóc xù,
Miệng như giếng cũ, có tràn bờ,
Hãy nhìn giẻ rách bầy kia mặc!
Các thứ này không cứu lũ ngu!

2350. Yesaṃ rāgo ca doso ca avijjā ca virājitā, khīṇāsavā arahanto tesu dinnaṃ mahapphalaṃ.  

2350. Đối với những vị nào có sự luyến ái, sân hận, và vô minh đã được dứt trừ, những bậc A-la- hán có các lậu hoặc đã được cạn kiệt, sự bố thí ở những vị ấy có quả báu lớn lao.”

23- Hễ khi tham dục với cuồng sân,
Được tống ra ngoài các thế nhân,
Bố thí hiền nhân thanh tịnh ấy,
Quả nhiều cho việc đã làm ăn.

xxxx. Upahacca manaṃ mejjho mātaṅgasmiṃ yasassine, sapārisajjo ucchinno mejjhāraññaṃ tadā ahū ”ti.  

xxxx. “Sau khi có tâm ý xấu xa với vị ẩn sĩ Mātaṅga có danh tiếng, vua xứ Mejjha cùng toàn bộ xứ sở đã bị tiêu diệt. Từ đó, đã có khu rừng Mejjha.” 

24. Người ta kể chuyện cả non sông
Của xứ Mejjha phải diệt vong,
Nước kia bị xóa tan bờ cõi
Vì giết Mà-tan, bậc lẫy lừng.

Mātaṅgajātakaṃ paṭhamaṃ.

***

Bổn Sanh Ẩn Sĩ Mātaṅga. [497]

***



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada