Chuyện thiên nữ Alambusà (Tiền thân Alambusà)

3175. Athabravi brahā indo vatrabhū jayataṃ pitā, devakaññaṃ parābhetvā sudhammāyaṃ alambusaṃ. 

3175. Khi ấy, Thiên chủ Inda vĩ đại, bậc đã khuất phục A-tu-la Vatra, người cha của các vị chiến thắng, đã chọn ra nàng tiên nữ Alambusā và đã nói với nàng ấy tại hội trường Sudhammā rằng:

1. Thiên chủ In-dra (*), đấng vạn năng,
Xưa kia đã giết Va-tra thần,
Triệu nàng Thiên nữ vào cung điện
Vì biết nàng mưu chước lẫy lừng.
-----------------
(*) Indra và Vàsava: danh hiệu của Sakka

3176. Misse devā taṃ yācanti tāvatiṃsā saindakā, isipalobhike gaccha isisiṅgaṃ alambuse. 

3176. “Này Alambusā kiều diễm, chư Thiên cõi Đạo Lợi với Thiên Chủ Inda thỉnh cầu nàng. Này cô nàng quyến rũ ẩn sĩ, nàng hãy đi gặp Isisiṅga.

2. "Thiên nữ A-lam", Đế Thích truyền:
"Ở trên hội chúng của chư Thiên
Bảo nàng đến gặp I-si nọ
Quyến rũ chàng say đắm mối duyên".

3177. Purāyaṃ amhe acceti vatavā brahmacariyavā, nibbānābhirato vuddho tassa maggāni āvara. 

3177. Vị này đầy đủ về phận sự, có Phạm hạnh, thích thú Niết Bàn, tăng trưởng về đức độ, vượt trội chúng tôi ở Thiên cung. Nàng hãy ngăn chặn các đạo lộ của vị ấy.”

3. Hãy theo cám dỗ sát bên chàng
Vì chính chàng là bậc Thánh nhân,
Trong lúc đi tìm nguồn Cực lạc,
Lại còn chiến thắng cả Thiên hoàng.

3178. Devarāja kimeva tvaṃ mameva tuvaṃ sikkhasi, isipalobhike gaccha santi aññāpi accharā. 

3178. “Tâu Thiên Vương, ngài làm điều gì vậy, khi ngài đây nhìn thấy chỉ mỗi thiếp, nói rằng: ‘Này cô nàng quyến rũ ẩn sĩ, nàng hãy đi’? Vẫn còn có các tiên nữ khác nữa.

4. Giữa bao Thiên nữ, tấu Thiên hoàng,
Sao chỉ riêng nhìn đến tiện nhan,
Và bảo phận hèn đi quyến rũ
Thánh nhân đe dọa chiếc ngai vàng?

3179. Mādisiyo pavarā ceva asoke nandane vane, tāsampi hotu pariyāyo tāpi yantu palobhikā. 

3179. Có các cô tương đương thiếp và còn quý phái hơn, tại khu vườn Nandana không có sầu muộn. Hãy là cơ hội cho các cô ấy. Hãy để các cô nàng quyến rũ ấy đi vậy.”

5. Vườn Nan-da, cực lạc thần tiên,
Có biết bao Thiên nữ diệu huyền,
Đến lượt một nàng trong đám ấy,
Xin giao việc đáng rủa nguyền trên.

3180. Addhā hi saccaṃ bhaṇasi santi aññāpi accharā, tādisiyo pavarā ceva asoke nandane vane. 

3180. “Nàng nói quả đúng là sự thật. Vẫn còn có các tiên nữ khác nữa. Có các cô tương đương nàng và còn quý phái hơn, tại khu vườn Nandana không có sầu muộn. 

6. Nàng nói đúng thay, ở Lạc viên
Nan-da-na, trẫm biết vườn tiên
Nhiều Thiên nữ diễm kều dung sắc
Sánh kịp nàng, thường được ngắm xem.

3181. Na tā evaṃ pajānanti pāricariyaṃ pumaṃ gatā, yādisaṃ tvaṃ pajānāsi nāri sabbaṅgasobhane. 

3181. Này người phụ nữ có sự xinh đẹp toàn thân, các nàng ấy không biết cách phục vụ khi đến với người nam, còn người như nàng đây biết.

7. Nhưng này, hỡi tuyệt thế tiên nương,
Chẳng có ai dùng kế mỹ nhơn
Điêu luyện như nàng, hàng quyến rũ
Thánh nhân bằng mọi cách điên cuồng.

3182. Tvameva gaccha kalyāṇi itthīnaṃ pavarā casi, taveva vaṇṇarūpena vasamānāpayissasi.

3182. Và nàng là quý phái trong giới phụ nữ. Này mỹ nữ, chính nàng hãy đi, bằng sắc đẹp và vóc dáng của chính nàng, nàng sẽ khiến vị ẩn sĩ ấy chiều theo quyền lực của nàng.”

8. Vậy nàng quả thật đóa hoa khôi,
Hãy bước lên đường, tố nữ ôi,
Dùng lực thần kia là mỹ sắc
Buộc hiền nhân nọ phục oai trời.

3183. Na cāhaṃ na gamissāmi devarājena pesitā, vibhemi cetaṃ āsāduṃ uggatejo hi brāhmaṇo.

3183. “Được vị chúa của chư Thiên sai phái, thiếp sẽ không thể không đi. Nhưng thiếp hãi sợ ở việc xúc phạm vị ấy, bởi vì vị Bà-la-môn có oai lực nổi bật.

9. Phận hèn sẽ quyết, tấu Thiên hoàng,
Tiến bước lên đường phụng mệnh ban
Song vẫn lo âu phần thiếp dám
Liều mình hại bậc Thánh nghiêm trang.

3184. Aneke nirayaṃ pattā isimāsādiyā janā, āpannā mohasaṃsāraṃ tasmā lomāni haṃsaye.

3184. Không ít người đã rơi vào địa ngục sau khi xúc phạm bậc ẩn sĩ, đã gánh chịu sự luân hồi bởi vì si mê; (nghĩ đến) điều ấy, thiếp rởn hết cả lông.”

10. Bởi vì lắm kẻ đáng thương thay,
(Thiếp sợ run vì ý nghĩ này:)
Làm hại Thánh hiền, nên phải đọa,
Ăn năn ngục tối khổ đau đầy.

3185. Idaṃ vatvāna pakkāmi accharā kāmavaṇṇinī, missā missetumicchantī isisiṅgaṃ alambusā.  

3185. Nói xong điều này, nàng tiên nữ Alambusā kiều diễm, có sắc đẹp theo như ý muốn, dời gót, trong khi đang mong mỏi được kết thân với vị Isisiṅga.

11. Thiên nữ A-lam nói vậy xong,
Khởi hành, nàng lướt tóc như phong,
Đi lôi cuốn tịnh nhân lừng lẫy
Vào các hạnh vi bất tịnh nhân.

3186. Sā ca taṃ vanamogayha isisiṅgena rakkhitaṃ, bimbi jālakasañchannaṃ samantā aḍḍhayojanaṃ. 

3186. Và nàng ấy đã đi sâu vào khu rừng nọ, nơi được hộ trì bởi vị Isisiṅga, được bao phủ bởi các chồi non của loài dây leo bimbi ở xung quanh đến nửa d0-tuần.

12. Đến cánh rừng kia nữa dặm sâu,
Thắm tươi đỏ rực các chùm dâu,
I-si trú ẩn trong rừng ấy,
Nàng biến mình đi chẳng thấy đâu.

3187. Pātova pātarāsamhi udanhasamayaṃ paṭi, aggiṭṭhaṃ parimajjantaṃ isisiṅgaṃ upāgami. 

3187. Sáng sớm tinh mơ, vào bữa điểm tâm, lúc mặt trời mọc lên, nàng ấy đã đi đến gặp Isisiṅga đang quét dọn gian nhà thờ lửa.

13. Tảng sáng tinh mơm chớm nắng đào,
Trước khi vầng nhật hiện lên cao,
Nàng Thiên nữ đến gần hiền giả,
Đang quét thảo am sạch biết bao!

3188. Kānu vijjurivābhāsi osadhī viya tārakā, vicittavatthābharaṇā āmuttamaṇikuṇḍalā. 

3188. “Người nữ nào chiếu sáng tựa như tia chớp, tựa như ngôi sao osadhī? Nàng có vải vóc và đồ trang sức đủ màu sắc rực rỡ, có bông tai bằng ngọc trai và ngọc ma-ni,–

14. Ai đó như tia chớp sáng ngời,
Rõ ràng như thể ánh sao mai,
Đôi tay đeo ngọc, hoa tai điểm,
Lấp lánh từ xa rực cả trời?

3189. Ādiccavaṇṇasaṅkāsā hemacandanagandhinī, saññatūru mahāmāyā kumārī cārudassanā. 

3189. –tương tự như màu sắc của mặt trời, có mùi thơm của trầm hương vàng, có cặp đùi tròn trịa, vô cùng kỳ diệu, là nàng thiếu nữ có vẻ đáng mến.

15. Như phấn chiên-đàn, tỏa ngát hương,
Huy hoàng chẳng khác ánh chiêu dương,
Yêu kiều vóc liễu thanh thanh dáng.
Tuyệt sắc cho ai được ngắm nàng,

3190. Vilākā mudukā suddhā pādā te suppatiṭṭhitā, kamanā kamanīyā te harantiyeva me mano. 

3190. Thon thả, mảnh mai, trong trắng, hai bàn chân của nàng khéo léo chạm đất. Các bước đi đáng yêu của nàng làm ngẩn ngơ tâm trí của ta. 

16. Dịu dàng, trong trắng với lưng thon,
Nhún nhẩy nhịp nhàng nhón gót son,
Yểu điệu thân nàng bao diễm lệ,
Làm ta say đắm cả tâm hồn!

3191. Anupubbā ca te ūru nāganāsasamūpamā, vimaṭṭhā tuyhaṃ sussoṇī akkhassa phalakaṃ yathā. 

3191. Và hai đùi của nàng thoai thoải tựa như vòi voi. Cặp mông đẹp của nàng trơn láng giống như tấm ván của trò chơi xúc xắc.

17. Cặp đùi nàng giống chiếc vòi voi,
Dài thẳng thon dần thật mảnh mai,
Mông của nàng êm đềm xúc cảm
Tròn như mặt gỗ để chơi bài.

3192. Uppalasseva kiñjakkhā nābhi te sādhu saṇṭhitā, pūrā kañhañjanasseva dūrato paṭidissati. 

3192. Lỗ rún của nàng nằm ở vị trí khéo léo tựa như chùm nhụy của đóa sen xanh, được nhìn thấy từ đằng xa giống như được phủ đầy lớp thuốc bôi màu đen.

18. Rốn nàng để lộ đám lông mềm,
Ta tưởng chừng tơ các ngó sen
Từ phía xa xa nhìn chỉ thấy
Tựa hồ đầy dược thủy đen huyền!

3193. Duvidhā jātā urajā avaṇṭā sādhupaccudā, payodharā appatītā aḍḍhalābusamā thanā. 

3193. Hai vú là hai bầu sữa được sanh ra từ ngực, đầy đặn, có sự nhô lên tốt đẹp, không bị chảy xệ, tựa như hai nửa trái bí ngô.

19. Đôi vú sữa như nửa quả bầu,
Căng phồng, khoe cả cặp hình cầu,
Săn dòn, cho dẫu không cây chống,
Chúng thật hoàn toàn chẳng dựa đâu!

3194. Dīghā kambutalābhāsā gīvā eṇeyyakā yathā, paṇḍarāvaraṇā vaggu catutthamanasannibhā. 

3194. Cổ dài tương tự mặt phẳng, có ba ngấn (tướng may mắn) giống như cổ loài sơn dương. Đôi môi xinh xắn (có màu đỏ thắm) tương tự như cái lưỡi. 

20. Môi lưỡi nàng đều đỏ thắm tươi
Thật là quý tướng hiếm hoi ôi!
Cổ dài như thể linh dương núi,
Lại vẽ thêm ba ngấn rạch ròi!

3195. Uddhaggā ca adhaggā ca dumaggaparimajjitā, duvijā nelasambhūtā dinnā tava sudassanā. 

3195. Hàm răng trên và hàm răng được chùi sạch bằng đầu nhọn của cây chà răng. Những cái răng được mọc lên không có khuyết điểm từ hai hàm là diện mạo xinh đẹp của nàng.

21. Răng nàng dùng chút gỗ lau chùi.
Trong sạch, luôn luôn giữ sáng ngời,
Lấp lánh cả hàm trên lẫn dưới
Chiếu đầy tia sáng, trắng tinh khôi!

3196. Apaṇḍarā lohitantā jiñjuka phalasannibhā, āyatā ca visālā ca nettā tava sudassanā. 

3196. Hai con mắt dài và rộng, có màu đen với đường viền màu đỏ, tương tự như trái dâu rừng, là diện mạo xinh đẹp của nàng.

22. Đôi mắt nàng bầu dục dáng hình
Khi nhìn, bao vẻ đẹp đa tình,
Khác nào đôi trái dâu đen láy,
Tô điểm màu đo đỏ mép vành.

3197. Nātidīghā susammaṭṭhā kanakabyā samocitā, uttamaṅgaruhā tuyhaṃ kesā candanagandhikā. 

3197. Mái tóc của nàng mọc ở đầu, không quá dài, khéo được chải chuốt, được gom lại bởi chiếc lược bằng vàng, có mùi thơm của trầm hương.

23. Bím tóc mướt trơn, chẳng quá dài,
Kết thành từng cuốn, gọn nhất đời,
Điểm vàng đầu mút, mùi thơm ngát
Dầu phấn đàn hương quý tuyệt vời!

3198. Yāvatā kasigorakkhā vāṇijānañca yā gati, isīnañca parakkhantaṃ saññatānaṃ tapassinaṃ.  

3198. Cho đến những người sống nhờ vào việc trồng trọt, việc chăn nuôi bò, và lợi nhuận của các việc buôn bán, cho đến vị đang nỗ lực trong số các bậc ẩn sĩ, các đạo sĩ khổ hạnh đã tự kiềm chế,– 

24. Giữa mọi người theo nghiệp bán mua,
Nuôi bầy gia súc hoặc cày bừa,
Giữa bao hiền thánh đầy uy lực,
Nguyện sống đời thanh tịnh ẩn cư.

3199. Na te samasamaṃ passe asmiṃ paṭhavi maṇḍale, ko vā tvaṃ kassa vā putto kathaṃ jānemu taṃ mayaṃ. 

3199. –ta không nhìn thấy ai sánh bằng nàng ở trên vòm trái đất này. Nàng là ai, là con của người nào? Làm thế nào chúng tôi có thể biết về nàng?”

25. Trong muôn loài giữa cõi trần gian,
Ta chẳng thấy ai sánh kịp nàng,
Thân phụ là ai, cùng quý tánh,
Ta mong nàng thổ lộ cho tường.

3200. Na pañhakālo bhaddante kassapevaṃ gate satī, ehi samma ramissāma ubho asmākaṃ assame, ehi taṃ upagūhissaṃ ratīnaṃ kusalo bhava. 

3200. “Này Kassapa, không phải là lúc hỏi câu hỏi, khi vận may qua đi như vầy. Chàng ơi, chàng hãy đến. Cả hai chúng ta sẽ vui vầy ở khu ẩn cư của chúng ta. Chàng hãy đến. Khi thiếp ôm lấy chàng, chàng hãy tỏ ra khéo léo đối với các thú vui vầy.”

26. Vạn phúc trời ban đến bạn lành,
Thời gian, Ca-diếp hỡi, trôi nhanh,
Sao chàng mãi hỏi chi vơ vẩn,
Chẳng phải đôi ta chỉ một mình?

27. Hãy vào am thất, chốn tu hành,
Chụp lấy ngay cơ hội chứng minh
Ngàn thú giao hoan này khét tiếng
Giữa người sùng báo đạo si tình.

3201. Idaṃ vatvāna pakkāmi accharā kāmavaṇṇinī, missā missetumicchantī isiṅgaṃ alambusā. 

3201. Nói xong điều này, nàng tiên nữ Alambusā kiều diễm, có sắc đẹp theo như ý muốn, dời gót, trong khi đang mong mỏi được kết thân với vị Isisiṅga.

28. Nói xong Thiên nữ Lam-bu-sà
Vội vã tạ từ cất bước xa
Danh sĩ I-si, hòng quyến rũ
Thánh nhân vướng phải nghiệp dâm tà.

3202. So ca vegena nikkhamma chetvā dandhaparakkamaṃ, tamuttamāsu veṇīsu ajjhappatto parāmasī. 

3202. Và vị ấy, đã tức tốc bước ra, đã làm đứt đoạn sự nỗ lực bị trì trệ. đã nắm được nàng ấy ở các phần trên đầu, ở các bím tóc, và đã sờ mó.

29. Như gió, Thánh nhân lướt vội vàng
Cố ngăn nàng chạy trốn xa chàng,
Hăng say đeo đuổi theo Thiên nữ,
Chụp lấy đầu, lôi mái tóc nàng.

3203. Tamudāvatta kalyāṇī paḷissaji susobhanā, cavi tamhi brahmacariyā yathā taṃ atha tositā.

3203. Người mỹ nữ có sắc đẹp tuyệt vời đã xoay vị ấy lại và ôm chặt lấy. Phạm hạnh ở vị ấy đã tiêu hoại. Và như thế, tiên nữ Alambusā được hài lòng về điều ấy.

30. Chính tại nơi chàng đứng lặng yên,
Hằng nga ôm chặt giữa tay tiên,
Tức thì công hạnh chàng tiêu hết
Trước lực thần mê hoặc đảo điên!

3204. Manasā agamā indaṃ vasantaṃ nandane vane, tassā saṅkappamaññāya maghavā devakuñjaro.

3204. Bằng tâm ý, nàng tiên đã đi đến với Thiên Chủ Inda đang ngự tại khu vườn Nandana. Sau khi nhận biết ý định của nàng ấy, Maghavā, vị đứng đầu chư Thiên–

31. Tư niệm nàng bay đến Ngọc cung
Tại Nan-da Thượng uyển muôn trùng,
Ngọc hoàng hiểu rõ điều nàng ước,

3205. Pallaṅkaṃ pahiṇī khippaṃ sovaṇṇaṃ sopavāhanaṃ, sa uttaracchadapaññāsaṃ sahassapaṭikatthataṃ.

3205. –đã tức tốc phái đi chiếc kiệu khiêng bằng vàng, có vật phụ tùng, có năm mươi mái che, có một ngàn tấm vải bao bọc.

Phái vội thiên xa lấp lánh vàng.

32. Trang hoàng giăng trải đủ yên cương,
Tô điểm cân đai phủ mấy tầng,

3206. Tamenaṃ tattha dhāresi ure katvāna sobhanā, yathā ekamuhuttaṃva tīṇi vassāni dhārayi.

3206. Trong chiếc kiệu, người con gái đẹp đã ôm choàng lấy vị ấy sau khi đã đặt vào ngực; nàng đã ôm chàng hầu như chỉ trong một chốc lát mà đã ba năm (trôi qua ở cõi nhân loại).

Tại đó, Thánh nhân nằm khuất phục
Trong tay Thiên nữ lắm ngày trường!

33. Ba năm ròng rã lướt qua đầu
Chẳng khác nào, giây lát bóng câu,

3207. Vimado tīhi vassehi pabujjhitvāna brāhmaṇo, addasāsi harita rukkhe samantā aggiyāyanaṃ.

3207. Thức giấc sau ba năm, vị Bà-la-môn, hết bị mê đắm, đã nhìn thấy các cây xanh ở xung quanh gian nhà thờ lửa,–

Cho đến phút sau cùng, Thánh giả
Trở mình thức khỏi cánh tay mầu!

34. Cây xanh chàng thấy khắp nơi nơi,
Và chiếc bệ thờ cạnh đó thôi,

3208. Navapattavanaṃ phullaṃ kokilāgaṇa ghositaṃ, samantā sa viloketvā rudaṃ assūni vattayi.

3208. –khu rừng mới thay lá xum xuê, náo nhiệt bởi bầy chim cu cu. Và sau khi quan sát xung quanh, vị ấy đã tuôn những giọt nước mắt, than khóc rằng:

Thăm thẳm ngàn cây vang vọng mãi
Tiếng sơn ca lảnh lót ngân dài.

35. Nhìn quanh, chàng nức nở đau thương,
Nhỏ lệ đắng cay phận tủi hờn:

3209. Na juhe na jape mante aggihuttaṃ pahāpitaṃ, konu me pāricariyāya pubbe cittaṃ palobhayi.

3209. “Ta không có thể cúng tế, ta không có thể trì tụng các chú thuật, lễ tế thần lửa đã bị bỏ bê. Vậy ai đã quyến rủ tâm trước đây của ta vào việc phục vụ (các chuyện ô nhiễm)?"

Ta chẳng cầu kinh, dâng lễ vật
Nơi đây chẳng cúng tế đăng đàn.

36.Ta trú rừng hoang vắng, độc thân,
Nào ai người cám dỗ mình chăng?

3210. Araññe me viharato yo me tejāha sambhataṃ, nānāratanaparipuṇṇaṃ nāvaṃva gaṇhi aṇṇave.  

3210. Người nào đã lấy đi pháp tích lũy được từ năng lực (Sa-môn) của ta trong khi ta sống ở trong rừng, tựa như đã lấy đi chiếc thuyền chứa đầy các loại châu báu ở ngoài biển khơi.”

Ai dùng tà hạnh làm tiêu tán
Tất cả lương tâm với trí năng,
Chẳng khác con thuyền đấy báu vật
Bị chìm đắm giữa chốn trùng dương?"

3211. Ahante pāricariyāya devarājena pesitā, avadhiṃ cittaṃ cittena pamādā tvaṃ na bujjhasi. 

3211. “Thiếp được vị chúa của chư Thiên sai phái đến để phục vụ cho chàng. Thiếp đã phá hoại tâm bằng tâm. Do xao lãng, chàng đã không cảnh giác.”

37. Thiên chủ Sak-ka phải đến đây,
Nguyện làm tỳ nữ phục tuân ngài;
Dù vô tình thiếp không hay biết,
Đã hại người trong cực lạc này.

3212. Imāni kira maṃ tāto kassapo anusāsati, kamalāsarisitthiyo tāyo bujjhesi māṇava. 

3212. “Người cha yêu dấu Kassapa quả thật có dạy bảo ta những lời này: ‘Này người trai trẻ, con hãy cảnh giác những phụ nữ như là đóa hoa sen ấy.

38. Thân phụ ta, Ca-diếp Đại nhân,
Trí hiền khuyên nhủ trẻ buông lung:
"Nữ nhân cũng giống hoa sen đẹp,
Thận trọng, thiện nam, trước lực thần!"

3213. Ure gaṇḍāyo bujjhesi tāyo bujjhesi māṇava, iccānusāsi maṃ tāto yathā maṃ anukampako. 

3213. Con hãy cảnh giác các nàng có hai khối nhô lên ở ngực. Này người trai trẻ, con hãy cảnh giác các cô ấy.’ Là người có lòng thương tưởng đến ta, người cha yêu dấu đã dạy bảo ta như thế.

39. Đề phòng nữ sắc mê hồn,
Hiểm họa đâu đây chực kế gần.
Do vậy, lòng nhân từ thúc đẩy
Nghiêm đường khuyên nhủ trẻ phòng thân.

3214. Tassāhaṃ vacanaṃ nākaṃ pitu vuddhassa sāsanaṃ, araññe nimmanussamhi svājja jhāyāmi ekako.

3214. Ta đã không thực hiện lời nói của vị ấy, lời giảng dạy của người cha, của bậc trưởng thượng. Hôm nay, trong khu rừng vắng bóng người, ta đây chỉ một mình, ăn năn.

40. Phóng dật, ta cam chịu bỏ qua
Những lời thông tuệ của cha già,
Than ôi, đơn độc, ta đau đớn,
Nay sống rừng hoang, dạ xót xa!

3215. Sohaṃ tathā karissāmi dhiratthu jīvitena me, puna vā tādiso hessaṃ maraṇaṃ vā me bhavissati.

3215. Ta đây sẽ làm như thế nào! Thật xấu hổ thay cho mạng sống của ta! Ta sẽ trở lại là người tu tập như trước đây, hay là ta sẽ chọn lấy cái chết?”

41. Đời cũ, ta nguyền rủa lắm thay,
Vâng lời cha dạy kể từ đây,
Thà đành vong mạng còn hơn phải
Trở lại đường xưa lối cũ này.

3216. Tassa tejañca viriyañca dhitiṃ ñatvā suvaḍḍhitaṃ, sirasā aggahī pāde isisiṅgaṃ alambusā.

3216. Sau khi biết được năng lực, sự tinh tấn, sự quả quyết đã được tăng trưởng tốt đẹp cho vị ấy, tiên nữ Alambusā đã đê đầu ở bàn chân của Isisiṅga, (nói rằng):

42. Bỗng chốc A-lam hiểu rõ ràng
Lực chàng kiên định, thật can tràng,
Vội quỳ đảnh lễ hiền nhân ấy,
Lập tức nàng ôm lấy gót chàng.

3217. Mā me kujjha mahāvīra mā me kujjha mahāisi, mahā attho mayā ciṇṇo tidasānaṃ yasassinaṃ, tayā pakampitaṃ āsi sabbaṃ devapuraṃ tadā.

3217. “Thưa bậc đại hùng, xin ngài chớ giận thiếp. Thưa bậc đại ẩn sĩ, xin ngài chớ giận thiếp. Thiếp đã làm được lợi ích lớn lao cho chư Thiên cõi Tam Thập danh tiếng. Khi ấy, ngài đã làm cho toàn bộ Thiên giới bị rung chuyển.”

43. "Xin dẹp lôi đình, đấng Thánh minh,
Thiếp đã gây một chuyện tày đình,
Khi chư Thiên cõi trời vinh hiển
Rúng động kinh hoàng nghe đại danh".

3218. Tāvatiṃsā ca ye devā tidasānañca vāsavo, tvañca bhadde sukhī hohi gaccha kaññe yathāsukhaṃ.

3218. “Chư Thiên cõi Đạo Lợi và Thiên Chủ Vāsava của chư Thiên cõi Tam Thập, và nàng, này người nữ hiền thục, mong rằng nàng được an lành. Này cô gái, nàng hãy ra đi thoải mái.”

44. Tam thập tam Thiên, hưởng phước lành
Cùng Và-sa (*), chúa tể quần sinh,
Và nàng Thiên nữ, xin từ giã,
Nàng được tự do thỏa nguyện mình.
---------------
(*) Indra và Vàsava: danh hiệu của Sakka

3219. Tassa pāde gahetvāna katvā ca naṃ padakkhiṇaṃ, añjaliṃ paggahetvāna tamhā ṭhānā apakkami.

3219. Sau khi nắm lấy hai bàn của vị ẩn sĩ, và đi nhiễu vòng quanh vị ấy, nàng tiên đã chắp tay lên và đã rời khỏi nơi ấy.

45. Ôm lấy đôi chân bậc trí nhân
Đi về phía hữu, diễu quanh vòng,
Chắp tay, dáng điệu cầu tha tội,
Nàng hiện hình đi khỏi mắt chàng.

3220. Yo tassā āsi pallaṅko sovaṇṇo sopavāhano, sauttaracchadapaññāso sahassapaṭikatthato, tameva pallaṅkamāruyha agā devāna santike.

3220. Đã có chiếc kiệu khiêng bằng vàng, có vật phụ tùng, có năm mươi mái che, có một ngàn tấm vải bao bọc hiện ra cho nàng ấy. Nàng tiên đã bước lên chiếc kiệu ấy và đi về trú xứ của chư Thiên.

46. Nàng Thiên nữ lại cỡi xe vàng,
Lộng lẫy yên cương được điểm trang,
Mọi vẻ huy hoàng khăn ngọc phủ,
Nàng phi nhanh đến cõi thiên đàng.

3221. Tamokkamiva āyantiṃ jalantiṃ vijjutaṃ yathā, patīto sumano vitto devindo adadā varaṃ.

3221. Trong khi nàng ấy tiến đến tựa như cây đuốc đang cháy sáng giống như tia chớp, vị Chúa của chư Thiên hớn hở, thích ý, mừng rỡ, đã ban cho nàng ấy điều ước muốn.

47. Như đuốc hồng hay chớp lóe ngang,
Nàng du hành vượt thẳng trời quang,
Sak-ka Thiên chủ hân hoan phán:
"Chẳng ước nguyện nào trẫm chẳng ban".

3222. Varaṃ ce me ado sakka sabbabhūtānamissara, na isipalobhikā gacche etaṃ sakka varaṃ vare ”ti.

3222. Tâu Sakka, nếu ngài ban cho thiếp điều ước muốn, tâu vị chúa tể của tất cả sanh linh, thiếp có thể không phải đi quyến rũ ẩn sĩ. Tâu Sakka, thiếp chọn điều ước muốn ấy.”

48. Ví dầu Đế Thích, chúa chư Thiên
Ban thiếp điều tâm ước nguyện riêng:
"Xin chẳng bao giờ còn cám dỗ
Thánh nhân nào phá bỏ lời nguyền".

Câu chuyện 523

Alambusājātakaṃ.

***

Alambusājātakaṃ. [523]



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada