Chuyện đại nhân thiện xạ Sarabhanga (Tiền thân Sarabhanga)

3130. Alaṅkatā kuṇḍalino suvatthā veḷuriyamuttā tharukhaggabandhā, rathesabhā tiṭṭhatha kenu tumhe kathaṃ vo jānanti manussaloke. 

3130. “Các vị đã được trang điểm, có đeo bông tai, y phục tươm tất, đeo gươm có chuôi bằng ngọc bích và ngọc trai. Thưa các ngài thủ lãnh xa binh, xin các ngài dừng lại, và các ngài là ai? Người ta nhận biết các ngài như thế nào ở thế giới nhân loại?”

1. Vòng vàng, xiêm áo thật cao sang,
Chư vị đeo gươm nạm bảo trân,
Trân trọng kính chào chư đại tướng
Danh gì, cho biết, giữa trần gian?

3131. Ahamaṭṭhako bhīmaratho panāyaṃ kāliṅgarājā pana uggato ayaṃ, susaññatānaṃ isīnaṃ dassanāya idhāgatā pucchitāyemha pañhe. 

3131. “Trẫm là Aṭṭhaka, và vị này là Bhīmaratha, còn vị nổi bật này là vua Kāliṅga. Chúng tôi đi đến nơi này để yết kiến các vị ẩn sĩ đã khéo tự kiềm chế để hỏi các câu hỏi.”

2. Bhi-ma, danh đế Ka-lin-ga,
Cùng trẫm, At-tha, chính hiệu ta,
Yết kiến chư hiền nhân khổ hạnh,
Đến đây tham vấn, đủ ba vua.

3132. Vehāsayaṃ tiṭṭhati antalikkhe pathaddhuno paṇṇaraseva cando, pucchāmi taṃ yakkha mahānubhāva kathaṃ taṃ jānanti manussaloke. 

3132. “Ngài đứng ở không trung, trên bầu trời, tựa như mặt trăng vào ngày rằm, ở lưng chừng trời. Thưa vị Dạ-xoa có đại thần lực, trẫm xin hỏi ngài, người ta nhận biết ngài như thế nào ở thế giới nhân loại?”

3. Ngài ngự trên cao, giữa cõi trời,
Như vầng trăng tỏa ánh vàng soi,
Đại Thiên thần, dám xin ngài dạy,
Danh tiếng ngài sao ở cõi đời.

3133. Yamāhu devesu sujampatīti maghavāti taṃ āhu manussaloke, sadevarājā idamajja patto susaññatānaṃ isīnaṃ dassanāya.  

3133. “Ở giữa chư Thiên, người ta đã gọi vị ấy là ‘Chồng của nàng Sujā,’ và ở thế giới nhân loại đã gọi là ‘Maghavā.’ Hôm nay, vị Thiên Vương ấy đi đến nơi này để yết kiến các vị ẩn sĩ đã khéo tự kiềm chế.” 

4. Su-ja, danh tiếng ở trên trời
Tên gọi Ma-gha ở cõi đời,
Thiên chủ hôm nay vừa giáng thế
Thăm hiền nhân khổ hạnh bao người.

3134. Dūre sutā no isayo samāgatā mahiddhikā iddhiguṇūpapannā, vandāmi te ayire pasannacitto ye jīvalokettha manussaseṭṭhā. 

3134. “Các vị ẩn sĩ của chúng ta ở xa xôi đã được nghe danh. Các ngài đã tụ hội lại. Các ngài có đại thần lực, đã đạt được các loại thần thông. Thưa các ngài, với tâm tịnh tín, tôi xin đảnh lễ các ngài, những vị ưu tú của nhân loại ở thế gian của cuộc sống tại nơi này.”

5. Chư hiền danh vọng đã lừng vang
Uy lực thần cao cả sẵn sàng,
Hoan hỷ ta chào mừng Thánh chúng
Trí tài siêu việt đám người phàm.

3135. Gandho isīnaṃ ciradikkhitānaṃ kāyā cuto gacchati māḷutena, ito paṭikkamma sahassanetta gandho isīnaṃ asuci devarāja. 

3135. “Mùi hương phát ra từ cơ thể của các vị ẩn sĩ đã xuất gia lâu ngày đi theo chiều gió. Thưa vị Nghìn Mắt, ngài hãy bước lui khỏi nơi này. Thưa vị Thiên Vương, mùi hương của các vị ẩn sĩ là không trong sạch.”

6. Thân thể của ngài lão Thánh nhân
Bốc mùi hôi hám khắp không gian,
Sak-ka Thiên chủ liền lùi bước
Tránh các mùi chư Thánh nực nồng.

3136. Gandho isīnaṃ ciradikkhitānaṃ kāyā cuto gacchatu māḷutena, vicitrapupphaṃ surabhiṃva mālaṃ gandhaṃ cetaṃ pāṭikaṅkhāma bhante na hettha devā paṭikkūlasaññino. 

3136. “Mùi hương phát ra từ cơ thể của các vị ẩn sĩ đã xuất gia lâu ngày hãy đi theo chiều gió, tựa như tràng hoa thơm ngát với bông hoa nhiều màu sắc. Bạch ngài, chúng tôi mong mỏi mùi hương này, bởi vì chư Thiên không có ý tưởng nhờm gớm về mùi hương này.”

7. Dù các Thánh nhân tuổi đã già
Gây mùi xúc phạm mũi người ta,
Nhiễm ô luồng khí đưa hương ngát,
Ta vẫn yêu mùi Thánh bốc ra
Hơn các tràng hoa thơm rực rỡ;
Chư Thiên chẳng ghét chuyện kia mà.

3137. Purindado bhūtapatī yasassī devānamindo maghavā sujampati, sa devarājā asuragaṇappamaddano okāsamākaṅkhati pañha pucchituṃ.

3137. “Vị đã bố thí trước đây, vị chúa của các sanh linh, vị có danh tiếng, vị chúa của chư Thiên, vị Maghavā, chồng của nàng Sujā, vị Thiên Vương ấy, vị có sự đánh tan bè lũ A-tu-la, mong chờ cơ hội để hỏi câu hỏi.

8. Su-ja phu tướng. Ma-gha-va, (*)
Thí chủ lừng danh, chúa quỷ ma,
Dẹp lủ yêu tinh, Thiên đế ấy,
Ước ao được hỏi chuyện cùng ta.(*) Sujampati và Maghava: danh hiệu của Sakka - Thiên chủ.

3138. Konevimesaṃ idha paṇḍitānaṃ pañhe puṭṭho nipuṇe vyākarissati, tiṇṇañca raññaṃ manujādhipānaṃ devānamindassa ca vāsavassa. 

3138. Vậy ở đây, ai trong số các bậc sáng suốt này, khi được hỏi, sẽ trả lời các câu hỏi vi tế của ba vị vua, là ba bậc chúa tể cai trị loài người, của đấng quyền năng, và của vị chúa của chư Thiên?”

9. Ai đây trong các bậc hiền nhân
Giải đáp vấn đề thật khó khăn
Cho cả ba vua đang trị nước
Và Sak-ka, chúa tể Thiên thần?

3139. Ayaṃ isī sarabhaṅgo yasassī yato jāto virato methunasmā, ācariyaputto suvinītarūpo so nesaṃ pañhāni viyākarissati. 

3139. “Vị ẩn sĩ Sarabhaṅga này có danh tiếng, đã lánh xa pháp đôi lứa từ lúc sanh ra, là con trai của vị giáo thọ, đã khéo được huấn luyện, vị ấy sẽ trả lời các câu hỏi của các bậc (vua chúa) ấy.”

10. Sa-ra-bha Thánh giả, chân hiền
Thanh tịnh, thoát ly mọi trược phiền,
Pháp tử, tinh thông trì giới luật,
Giải trừ nghi hoặc của nhân thiên.

3140. Koṇḍañña pañhāni viyākarohi yācanti taṃ isayo sādhurūpā, koṇḍañña eso manujesu dhammo yaṃ vuḍḍham āgacchati esa bhāro. 

3140. “Thưa ngài Koṇḍañña, xin ngài trả lời các câu hỏi. Các vị ẩn sĩ đức độ thỉnh cầu điều ấy. Thưa ngài Koṇḍañña, điều ấy là quy luật ở loài người, trách nhiệm ấy dành cho vị trưởng thượng.”

11. Thánh chúng mong cầu bậc Đạo sư
Kon-dan-na, xóa sạch nghi ngờ:
Chủ đề này được nhiều người bảo
Đè nặng các hiền trí lão gia.

3141. Katāvakāsā pucchantu bhonto yaṃ kiñci pañhaṃ manasābhipatthitaṃ, ahaṃ hi taṃ taṃ vo viyākarissaṃ ñatvā sayaṃ lokamimaṃ parañca. 

3141. “Cơ hội đã được tạo ra. Hãy để quý ngài hỏi bất cứ câu hỏi nào được mong mỏi ở trong tâm. Bởi vì ta sẽ trả lời cho quý vị từng câu một sau khi tự thân ta biết về đời này và đời sau.”

12. Cho phép người đem hỏi chuyện gì
Thực lòng người vẫn ước mong nghe,
Đời này, đời kế, ta đều biết,
Trí chẳng nghi nan mọi vấn đề.

3142. Tato ca maghavā sakko atthadassī purindado, apucchi paṭhamaṃ pañhaṃ yañcāsi abhipatthitaṃ.

3142. Và sau đó, Thiên Chủ Maghavā, Sakka, vị mong mỏi điều lợi ích, vị đã bố thí trước đây, đã hỏi câu hỏi đầu tiên về điều đã được mong mỏi (ở trong tâm).

13. Thiên chủ tìm Chân lý pháp trần,
Đến chư Hiền giả lượng khoan hồng,
Để ngài học những điều mong biết,
Và bắt đầu tham vấn mọi phần.

3143. Kiṃsu vadhitvā na kadāci socati kissappahānaṃ isayo vaṇṇayanti, kassīdha vuttaṃ pharusaṃ khametha akkhāhi me koṇḍañña etamatthaṃ. 

3143. “Sau khi tiêu diệt cái gì mà không bao giờ sầu muộn? Các bậc ẩn sĩ khen ngợi việc dứt bỏ cái gì? Nên nhẫn nhịn người nào về điều thô lỗ đã được họ nói ra ở nơi này?
Thưa ngài Koṇḍañña, hãy giải thích cho tôi về điều ấy.”

14. Cái gì ta phải diệt hoàn toàn
Mà chẳng bao giờ hối tiếc không,
Và cái gì ta cần vứt bỏ
Mà người hiền thiện thảy đồng lòng?
Lời ai ta phải cần kham nhẫn
Cho dẫu là thô lỗ tận cùng,
Đây chính là điều ta ước muốn
Kon-na Thánh giả nói cho thông.

3144. Kodhaṃ vadhitvā na kadāci socati makkhappahānaṃ isayo vaṇṇayanti, sabbesaṃ vuttaṃ pharusaṃ khametha etaṃ khantiṃ uttamamāhu santo. 

3144. “Sau khi tiêu diệt sự giận dữ thì không bao giờ sầu muộn. Các bậc ẩn sĩ khen ngợi việc dứt bỏ sự gièm pha. Nên nhẫn nhịn tất cả mọi người về điều thô lỗ đã được họ nói ra. Các bậc thiện nhân đã nói sự nhẫn nại này là tối thượng.”

15. Sân hận là tâm phải diệt trừ
Mà ta chẳng hối tiếc bao giờ,
Giả nhân, giả nghĩa cần quăng bỏ,
Được tán đồng ngay bởi bậc từ.
Ta phải nhịn lời từ mọi phía
Dù lời thô lỗ thật vô bờ,
Lòng kham nhẫn ấy, hiền nhân bảo,
Đệ nhất ngôi cao quả thật là.

3145. Sakkā ubhinnaṃ vacanaṃ titikkhituṃ sadisassa vā seṭṭhatarassa vāpi, kathannu hīnassa vaco khametha akkhāhi me koṇḍañña etamatthaṃ. 

3145. “Có thể kham nhẫn lời nói của hai hạng người ngang bằng mình hoặc ưu tú hơn mình, làm thế nào nhẫn nhịn lời nói của người thấp kém? Thưa ngài Koṇḍañña, hãy giải thích cho tôi về điều ấy.”

16. Những lời thô ác của hai người
Ta phải kiên tâm chịu đựng hoài:
Là bậc trên, người cùng đẳng cấp;
Song làm sao nhẫn nhịn bao lời
Của người thấp kém hơn ta nữa,
Là việc ta mong học hỏi ngài.

3146. Bhayā hi seṭṭhassa vaco khametha sārambhahetu pana sādisassa, yo cidha hīnassa vaco khametha etaṃ khantiṃ uttamamāhu santo. 

3146. “Có thể kham nhẫn lời nói của người ưu tú bởi vì sợ hãi, và của người bằng mình vì nguyên nhân nguy hiểm đến sinh mạng. Ở đây, người nào có thể tha thứ lời nói của người thấp kém, các bậc thiện nhân đã nói sự nhẫn nại này là tối thượng.

17. Lời ác thô từ các bậc trên,
Ta thường kham nhẫn bởi lòng kiêng,
Hoặc không tranh cãi người đồng đẳng;
Song nhịn lời thô kẻ thấp hèn
Là chính viên lòng thành nhẫn nhục,
Như lời hiền Thánh vẫn thường khuyên.

3147. Kathaṃ vijaññā catumaṭṭharūpaṃ seṭṭhaṃ sarikkhaṃ athavāpi hīnaṃ, virūparūpena caranti santo tasmā hi sabbesa vaco khametha. 

3147. Làm thế nào có thể nhận biết được một người là ưu tú, tương đương, hoặc là thấp kém hơn với hình thức bên ngoài của bốn oai nghi? Các bậc thiện nhân du hành với hình thức ngụy trang (giả dạng người tồi tàn); chính vì thế, nên nhẫn nhịn lời nói của tất cả mọi người.

18. Khó nhìn hào nhoáng vẻ bề ngoài
Mà đoán hơn, thường hay giả dạng
Tồi tàn xuất hiện ở trong đời.
Vậy thì, bạn hỡi, ta khuyên nhủ
Hãy nhịn lời thô của mọi người.

3148. Na hetamatthaṃ mahatīpi senā sarājikā yujjhamānā labhetha, yaṃ khantimā sappuriso labhetha khantībalassūpasamanti verā. 

3148. Thật vậy, các đạo quân với cả đức vua dầu có vĩ đại, trong khi chiến đấu cũng không đạt được mục đích ấy, nhưng bậc chân nhân có lòng nhẫn nại lại đạt được điều ấy; đối với sức mạnh của lòng nhẫn nại, các sự hận thù được lặng yên.”

19. Sức mạnh quân vương đến bực nào
Cũng không thắng lợi chốn binh đao
Bằng hiền nhân tạo nhờ kham nhẫn:
Đại nhẫn xóa tan mọi hận cừu.

3149. Subhāsitante anumodiyāna aññaṃ taṃ pucchāmi tadiṅgha brūhi, yathā ahū daṇḍakī nāḷikīro athajjuno kalābu cāpi rājā, tesaṃ gatiṃ brūhi supāpakamminaṃ
katthūpapannā isīnaṃ viheṭhakā. 

3149. “Sau khi tùy hỷ với lời khéo nói của ngài, tôi hỏi ngài điều khác. Nào, xin ngài hãy nói về điều ấy. Ví như thời xưa đã có các vị Daṇḍakī, Nāḷikīra, rồi vị Ajjuna, và luôn cả vị vua Kalābu, xin ngài nói về cảnh giới của những kẻ có hành động vô cùng độc ác ấy, những kẻ quấy nhiễu các vị ẩn sĩ sẽ tái sanh ở đâu?”

20. Lời ngài đang dạy thật êm tai,
Song muốn nghe thêm một chuyện này:
Xin hỏi phận Dan-da chúa tể
Cùng ba tòng phạm lỗi lầm gây,
Cõi nào phải tái sinh đày đọa,
Vì phá Thánh hiền thế giới đây.

3150. Kisaṃ hi vacchaṃ avakiriya daṇḍakī ucchinnamūlo sajano saraṭṭho, kukkulanāme nirayamhi paccati tassa phuliṅgāni patanti kāye.

3150. “Bởi vì vua Daṇḍakī đã ném vật dơ ở Kisavaccha, với cả đất nước cùng với dân chúng đã bị bứng gốc, và bị nung nấu ở địa ngục tên Kukkula; các cục than hừng đổ lên thân hình của vị vua ấy.

21. Thưở nọ tan tành cả quốc gia,
Vì làm ô nhục Thánh Ki-sa
Dan-da ngã xuống Ku-ku địa
Tràn ngập than hừng hóa bụi tro.

3151. Yo saññate pabbajite aheṭhayi dhammaṃ bhaṇante samaṇe adūsake, taṃ nāḷikīraṃ sunakhā parattha saṅgamma khādanti viphandamānaṃ.

3151. Nāḷikīra đã quấy nhiễu các vị xuất gia đã tự kiềm chế, các bậc Sa-môn không tội lỗi đang thuyết giảng thiện pháp. Các con chó ăn thịt kẻ Nāḷikīra đang run rẩy ấy khi gã tái sanh vào thế giới khác.

22. Nà-li đầy hoảng hốt rơi vào
Địa ngục trong nanh vuốt chó ngao,
Vì nhạo báng hiền nhân, đạo sĩ,
Pháp sư chẳng phạm lỗi lầm nào.

3152. Athajjuno niraye sattisūle avaṃsiro patito uddhapādo, aṅgīrasaṃ gotamaṃ heṭhayitvā khantiṃ tapassiṃ cirabrahmacāriṃ. 

3152. Còn Ajjuna đã bị rơi vào địa ngục cọc nhọn, có chân phía trên đầu phía dưới, sau khi đã quấy nhiễu vị đạo sĩ khổ hạnh Aṅgīrasa Gotama có sự nhẫn nại, đã thực hành Phạm hạnh lâu dài.

23. Cũng vậy Aj-ju-na giết ngay
Thánh nhân thanh tịnh, luyện tu dày,
An-gi, nên bị xô đầu xuống
Hành hạ thân trong chốn đọa đày.

3153. Yo khaṇḍaso pabbajitaṃ achedayī khantiṃ vadantaṃ samaṇaṃ adūsakaṃ, kalābuvīciṃ upapajja paccati mahāpatāpaṃ kaṭukaṃ bhayānakaṃ. 

3153. Kalābu đã chặt đứt vị xuất gia, bậc Sa-môn không tội lỗi đang thuyết giảng về sự nhẫn nại, thành từng khúc, và bị nung nấu sau khi tái sanh vào địa ngục Avīci có sự nóng bức dữ dội, đắng cay, chốn gây nên nỗi kinh hoàng.

24. Ka-là-bu cháy tại Diêm cung
Giữa khổ đau thê thảm, hãi hùng,
đã hại hiền nhân đức hạnh
"Bậc thầy nhẫn nhục" tiếng vang lừng.

3154. Etāni sutvā nirayāni paṇḍito aññāni pāpiṭṭhatarāni cettha, dhammaṃ care samanabrāhmaṇesu evaṃkaro saggamupeti ṭhānaṃ. 

3154. Sau khi nghe về những địa ngục ấy và những địa ngục khác còn tồi tệ hơn nữa ở nơi này, vị sáng suốt nên thực hành thiện pháp ở nơi các vị Sa-môn và Bà-la-môn; vị làm như vậy đi đến vị thế cõi trời.”

25. Người trí nghe xong các chuyện trên
Về miền địa ngục khổ triền miên,
Chẳng hề hại Đạo Sư hiền trí,
Nhờ Chánh nghiệp, sau đạt cõi thiên.

3155. Subhāsitaṃ te anumodiyāna aññaṃ taṃ pucchāmi tadiṅgha brūhi kathaṃ vidhaṃ sīlavantaṃ vadanti kathaṃ vidhaṃ paññavantaṃ vadanti, kathaṃ vidhaṃ sappurisaṃ vadanti kathaṃ vidhaṃ no siri no jahāti. 

3155. “Sau khi tùy hỷ với lời khéo nói của ngài, tôi hỏi ngài điều khác. Nào, xin ngài hãy nói về điều ấy. (Các bậc trí) nói người như thế nào gọi là người có giới? (Các bậc trí) nói người như thế nào gọi là người có trí tuệ? (Các bậc trí) nói người như thế nào gọi là bậc thiện nhân? Người như thế nào thì sự vinh quang không rời bỏ?”

26. Lời ngài đáng quý trọng êm tai
Song muốn nghe thêm một chuyện này:
Ai được người đời xem "đức độ"?
Thế nhân gọi "trí giả" là ai?
Người trần xem kẻ nào "thành tín",
Ai kẻ vận may chẳng bỏ rơi?

3156. Kāyena vācāya ca yo dha saññato manasā ca kiñci na karoti pāpaṃ, na attahetu alikaṃ bhaṇāti tathā vidhaṃ sīlavantaṃ vadanti. 

3156. “Ở đây, người nào đã tự kiềm chế thân và khẩu, và không làm bất cứ điều xấu xa nào bằng ý, không nói việc không thật vì nguyên nhân bản thân, (các bậc trí) nói người như thế ấy gọi là người có giới.

27. Khẩu, hành chứng tỏ tự điều thân,
Tư tưởng tránh xa mọi lỗi lầm,
Chẳng dối gian nhằm đích hạ liệt,
Được xem "đức độ" giữa nhân quần.

3157. Gambhīrapañhaṃ manasā vicintayaṃ nāccāhitaṃ kamma karoti luddaṃ, kālāgataṃ atthapadaṃ na riñcati tathā vidhaṃ paññavantaṃ vadanti.

3157. Người suy xét bằng tâm về câu hỏi thâm sâu,
không làm hành động hung dữ và không có lợi ích,
không bê trễ lời nói có lợi ích khi thời điểm đến, ,
(các bậc trí) nói người như thế ấy gọi là người có trí tuệ.

28. Giải đáp vấn đề, trí tuệ thâm,
Không làm điều ác độc, vô lương,
Lời hay đúng lúc đem khuyên nhủ,
Được mọi người xem đúng "trí nhân".

3158. Yo ve kataññū katavedi dhīro kalyāṇamitto daḷhabhatti ca hoti, dukhitassa sakkacca karoti kiccaṃ tathāvidhaṃ sappurisaṃ vadanti. 

3158. Người nào thật sự là người tri ân, biết trả ân, sáng trí, là người bạn tốt lành, và có lòng nhiệt tình bền vững, là người làm phận sự một cách nghiêm chỉnh đối với kẻ bị đau khổ, (các bậc trí) nói người như thế ấy gọi là bậc thiện nhân.

29. Biết ơn vì đã nhận ân lành,
Làm nhẹ buồn đau với nhiệt tình,
Chứng tỏ bạn hiền lòng vững chắc,
Mọi người ca ngợi "kẻ tâm thành".

3159. Etehi sabbehi guṇehupeto saddho mudu saṃvibhāgī vadaññū, saṅgāhakaṃ sakhilaṃ saṇhavācaṃ tathāvidhaṃ no siri no jahāti. 

3159. Người được đầy đủ với tất cả các đức tính ấy, có niềm tin, mềm mỏng, có sự chia sớt về tài sản, rộng lượng, hào phóng, nói năng tử tế, có lời nói dịu dàng, người như thế ấy thì sự vinh quang không rời bỏ.”

30. Kẻ nào tài khéo đủ trong tay,
Chân thật, dịu dàng, rộng lượng thay,
Ái ngữ, ân cần, người cảm phục,
Vận may chẳng bỏ kẻ như vầy.

3160. Subhāsitante anumodiyāna aññaṃ taṃ pucchāmi tadiṅgha brūhi, sīlaṃ siriñcāpi satañca dhammaṃ paññañca kaṃ seṭṭhataraṃ vadanti. 

3160. “Sau khi tùy hỷ với lời khéo nói của ngài, tôi hỏi ngài điều khác. Nào, xin ngài hãy nói về điều ấy. Về (các yếu tố) giới hạnh, cùng với sự vinh quang, và đức tính của những người tốt, và trí tuệ, (các bậc trí) nói yếu tố nào là ưu tú hơn?”

31. Lời ngài đáng thán phục êm tai,
Ao ước nghe thêm một chuyện này
Đức hạnh, vận may, hiền trí thiện,
Cái nào tối thắng giữa trần ai?

3161. Paññā hi seṭṭhā kusalā vadanti nakkhattarājāriva tārakānaṃ, sīlaṃ siriñcāpi satañca dhammo anvāyikā paññavato bhavanti. 

3161. “Các bậc thiện xảo nói chính trí tuệ là ưu tú, tựa như vua của các vì tinh tú (mặt trăng) ở giữa các vì sao. Giới hạnh, cùng với sự vinh quang, và đức tính của những người tốt là những yếu tố đi theo sau trí tuệ.”

32. Người thiện xem hiền trí tối cao,
Như trăng che khuất các vì sao,
Đức hạnh, hiền lương cùng vận tốt,
Rõ ràng bậc trí phải theo mau.

3162. Subhāsitante anumodiyāna aññaṃ taṃ pucchāmi tadiṅgha brūhi, kathaṃkaro kintikaro kimācaraṃ kiṃ sevamāno labhatīdha paññaṃ, paññāyidāni paṭipadaṃ vadehi kathaṃ karo paññavā hoti macco. 

3162. “Sau khi tùy hỷ với lời khéo nói của ngài, tôi hỏi ngài điều khác. Nào, xin ngài hãy nói về điều ấy. Người hành động như thế nào, làm việc gì, đang thực hành điều gì,
đang phụng sự điều gì thì đạt được trí tuệ ở thế gian này? Giờ đây, xin ngài hãy nói về đường lối thực hành để đạt được trí tuệ. Người hành động như thế nào là người có trí tuệ?”

33. Lời người thân ái thật êm tai,
Mong ước nghe thêm một chuyện này:
Muốn đạt thành tâm minh trí tuệ,
Đường nào hành động phải theo hoài?
Đâu là trí đạo xin cho biết
Nhờ việc nào người có trí ngay?

3163. Sevetha vuḍḍhe nipuṇe bahussute uggāhako paripucchako siyā, suṇeyya sakkacca subhāsitāni evaṃkaro paññavā hoti macco. 

3163. “Hãy thân cận các bậc trưởng thượng, tinh tế, có kiến thức, nên là người học tập, nên là người hỏi (điều thắc mắc), nên cẩn thận lắng nghe các lời khéo nói;
người hành động như vậy là người có trí tuệ.

34. Kết bạn người uyên bác lão thành,
Nhờ tham vấn, học trí thông minh,
Phải nghe theo các lời khuyên tốt,
Vì vậy con người trí tuệ sinh!

3164. Sa paññavā kāmaguṇe avekkhati aniccato dukkhato rogato ca, evaṃ vipassī pajahāti chandaṃ dukkhesu kāmesu mahabbhayesu. 

3164. Vị có trí tuệ ấy nhìn thấy các loại dục là vô thường, là khổ não, là bệnh tật. Người có sự minh sát như vậy dứt bỏ sự mong muốn ở các sự khổ đau, ở các dục, ở các nỗi sợ hãi lớn lao.

35. Bậc trí nhìn tham dục giác quan
Thấy đầy bệnh khổ, lắm vô thường,
Giữa tham, ưu não gây kinh hãi,
An tịnh, hiền nhân dạ chẳng màng.

3165. Savītarāgo pavineyya dosaṃ mettaṃ cittaṃ bhāvaye appamāṇaṃ, sabbesu bhūtesu nidhāya daṇḍaṃ anindito brahmamupeti ṭhānaṃ.

3165. Vị ấy có luyến ái đã được xa lìa, có thể xua đi sân hận, có thể phát triển tâm từ ái vô hạn lượng. Sau khi đã buông bỏ sự hành hạ đối với tất cả chúng sanh, không bị chê bai, vị ấy đạt đến vị thế Phạm Thiên.

36. Vậy điều phục ác nghiệp, ly tham,
Tu tập từ bi vô lượng tâm,
Với mọi hữu tình đều quý mến,
Tâm thanh tịnh, đến Phạm thiên cung.

3166. Mahiddhiyaṃ āgamanaṃ ahosi tavamaṭṭhaka bhīmarathassa cāpi, kāliṅgarājassa ca uggatassa sabbesa vo kāmarāgo pahīno. 

3166. Đã có sự đạt đến quyền lực lớn lao cho bệ hạ, luôn cả đức vua Bhīmaratha, và đức vua Kāliṅga nổi bật; tâu (đức vua) Aṭṭhaka, sự luyến ái trong các dục của tất cả các vị đã được dứt bỏ.”

37. Nhờ thần lực nên chúa Bhi-ma
Cùng với ngài, này chúa At-tha,
Đại đế Ka-lin-ga hiển hách,
Đến đây các vị đủ luôn ba,
Xưa làm nô lệ cho tham dục,
Nay được tự do giải thoát ra.

3167. Evaṃ metaṃ paracittavedī sabbesa no kāmarāgo pahīno, kārohi okāsamanuggahāya yathāgatiṃ te abhisambhavema. 

3167. “Điều ấy là như vậy, thưa bậc biết được tâm của người khác, sự luyến ái trong các dục của tất cả chúng tôi đã được dứt bỏ. Xin ngài hãy tạo cho cơ hội bằng sự nâng đỡ.
Mong rằng chúng tôi đạt được giống như sự thành tựu của ngài.”

38. Chính ngài là bậc tha tâm thông,
Nhờ vậy, từ vua đến đạo quân
Giải thoát khỏi vòng vây dục vọng,
Xin ngài ban bố một hồng ân
Chúng ta quả thật đều mong ước
Đạt đến niềm an lạc Thánh nhân.

3168. Karomi okāsamanuggahāya tathā hi vo kāmarāgo pahīno, pharātha kāyaṃ vipulāya pītiyā yathā gatiṃ me abhisambhavetha. 

3168. “Ta tạo cho cơ hội bằng sự nâng đỡ, bởi vì sự luyến ái trong các dục của các vị đã được dứt bỏ như thế ấy. Các vị hãy thấm nhuần toàn thân với tràn đầy hỷ lạc.
Các vị hãy đạt được giống như sự thành tựu của ta.”

39 Ta ban điều các vị mong cầu
Để các vị xa ác dục mau,
Hoan hỷ vô biên, tâm thấm đượm,
Đạt thành cực lạc ước về sau.
Nghe vậy các vị ngâm kệ tán đồng:

3169. Sabbaṃ karissāma tavānusāsanaṃ yaṃ yaṃ tuvaṃ vakkhasi bhūripañña, pharāma kāyaṃ vipulāya pītiyā yathā gatiṃ me abhisambhavema. 

3169. “Chúng tôi sẽ thực hành mọi điều chỉ dạy của ngài, mỗi một điều ngài sẽ nói ra, thưa bậc có trí tuệ uyên bác, Mong rằng chúng tôi thấm nhuần toàn thân với tràn đầy hỷ lạc. Mong rằng chúng tôi đạt được giống như sự thành tựu của ngài.”

40. Mọi việc làm theo lệnh của ngài,
Những gì ngài nghĩ tối ưu thôi,
Để tâm thấm đượm vô biên hỷ
Đạt đến lạc an dạ ước hoài.

3170. Katāyaṃ vacchassa kisassa pūjā gacchantu bhonto isayo sādhurūpā, jhāne ratā hotha sadā samāhitā esā ratī pabbajitassa seṭṭhā. 

3170. “Việc tôn vinh đến vị Kisavaccha này đã được thực hiện. Các ngài hãy ra đi, thưa chư tôn đức ẩn sĩ có hình dáng tốt lành, chư vị hãy thích thú với việc tham thiền, luôn luôn định tĩnh; việc ấy là sự lạc thú tối ưu của bậc xuất gia.”

41. Vinh dự thay Đã viếng Ki-sa,
Giờ đây chư vị hãy về nhà,
Hỡi chư hiền Thánh danh lừng lẫy,
Hãy trú an trong tịnh lạc kia,
Niềm hỷ lạc trong đời Thánh hạnh
Chính là Cực lạc tối cao xa.

3171. Sutvāna gāthā paramatthasañhitā subhāsitā isinā paṇḍitena, te vedajātā anumodamānā pakkāmu devā devapuraṃ yasassino. 

3171. “Sau khi lắng nghe các kệ ngôn liên hệ đến mục đích tối thượng đã được khéo nói bởi bậc ẩn sĩ sáng suốt, các vị ấy tùy hỷ với niềm hân hoan sanh khởi, chư Thiên có danh tiếng đã về lại Thiên giới.

42. Nghe thuyết toàn Chân lý tối cao
Bởi hiền nhân giọng điệu thanh tao,
Chư Thiên trở lại miền thiên giới,
An lạc, ân tình thắm thiết sao!

3172. Gāthā imā atthavatī subyañjanā subhāsitā isinā paṇḍitena, yo kocimā aṭṭhikatvā suṇeyya labhetha pubbāpariyaṃ visesaṃ, laddhāna pubbāpariyaṃ visesaṃ adassanaṃ maccurājassa gacche. 

3172. Những câu kệ ngôn này có ý nghĩa, có văn hay, đã được khéo nói bởi bậc ẩn sĩ sáng suốt. Bất cứ ai chăm chú lắng nghe những lời này có thể đạt được sự chứng đạt thứ bậc đầu tiên. Sau khi đạt được sự chứng đạt thứ bậc đầu tiên, có thể vượt khỏi tầm nhìn của Thần Chết.

43. Lời lẽ Thánh hiền dạy lọt tai,
Mang đầy ý nghĩa, giọng thanh bai,
Ai tinh cần tập trung tâm trí
Tầm tứ chuyên đề, sẽ thấy ngay:
Đường nhập tịnh theo từng cấp bực,
Thoát ly Thần Chết độc quyền oai.

3173. Sālissaro sāriputto meṇḍissaro nāma kassapo, pabbato anuruddho ca kaccāyano ca devalo. 

3173. (Thời bấy giờ) vị Sālissara nay là Sāriputta, vị tên Meṇḍissara nay là Kassapa, vị Pabbata nay là Anuruddha, còn vị Kaccāyana nay là Devala. - Thời ấy Salissara là Sàriputta (Xá-lợi-phất), Mendissara là kassapa (Ca-diếp), Pabbata là Anuruddha (A-na-luật-đà), Devala là Kaccàyana (Ca-chiên-diên),Anussisa là ànanda, Kisavaccha là Kolita (tức Mục-kiền-liên), Sarabhanga là Bồ-tát, các ông phải hiểu Tiền thân này như vậy.

Câu chuyện 522

3174. Anusisso ca ānando kisavaccho ca kolito, nārado puṇṇo mantāniputto sesaparisā buddhaparisā sarabhaṅgo lokanātho evaṃ dhāretha jātakan ”ti. 

3174. Vị Anusissa nay là Ānanda, vị Kisavaccha nay là Kolita, vị Nārada nay là Puṇṇa Mantāniputta, hội chúng còn lại nay là hội chúng của đức Phật, vị Sarabhaṅga nay là đấng Đấng Bảo Hộ Thế Gian. Các ngươi hãy ghi nhớ câu chuyện Bổn Sanh như vậy.”  

Sarabhaṅgajātakaṃ.

***

Bổn sanh Đại Ẩn Sĩ Sarabhaṅga. [522]



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada